|
Quê hương
tưởng tượng
Một bức
hình cũ, lồng trong
một cái khung rẻ tiền treo trên tường trong phòng tôi làm việc. Bức
hình, chụp
năm 1946, một căn nhà khi đó tôi chưa ra đời. Căn nhà trông hơi kỳ kỳ -
một căn
nhà hai từng, mái ngói.
"Quá
khứ là một xứ sở xa
lạ,”, câu văn mở ra tác phẩm của L.H. Hartley, Thiên sứ, “ở đây người ta sống
khác, làm những chuyện cũng khác”.
Nhưng
bức hình bảo tôi, hãy
lật ngược lại vấn đề.
Nó nhắc
nhở tôi rằng, chính
cái hiện tại của tôi mới là một xứ sở xa lạ, và cái quá khứ thì ở trong
tôi,
cho dù là một "trong tôi" đã mất, trong một thành phố đã mất, trong
chập chùng sương khói của một thời gian đã mất.
[Mais
la photo me dit de
renverser cette idée; elle me rappelle que c’est mon présent qui est un
pays
étranger et que le passé est chez moi, même s’il s’agit d’un chez-moi
perdu,
dans une ville perdue dans les brumes du temps perdu].
Salman
Rushdie
Rừng
Tràm
Thảo
Trường
Trân
trọng giới thiệu
Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Dọn
Đánh thức
hy vọng
Lê Quỳnh chứng kiến nước
Mỹ
bị diễn văn của Obama chinh phục.
BBC
*
Cái tít có lẽ nên viết như
vầy:
LQ, đặc phái viên BBC tại Washington
D.C.
chứng kiến cảnh tượng tân tổng thống chinh phục dân chúng Mỹ qua bài
diễn văn
nhậm chức của ông.
Tuy nhiên dùng động từ ‘chinh
phục’ ở đây, quá “nguy hiểm”, vì nó rất dễ bị hiểu lầm.
Lại thêm cách dùng thì ở
"bị động cách", lại càng thêm nguy hiểm.
*
Mít ta ít khi dùng “bị động
cách”, passive voice.
Bị mới chẳng bị.
Được mới chẳng được. Được
đóng thuế. Được vô chiến trường Miền Nam. Được Tổ Quốc Nhớ Ơn.
Toàn là "được"
không hà!
Viết một cái tít không nên
thân.
Bữa trước thì viết sai chính
tả. "Giấu" viết sai là "dấu".
Bữa trước nữa, “Quần đảo Ngục
Tù” thì “bị” dịch là "Bán Đảo Ngục Tù".
Chán quá! NQT
*
Khi Clinton đến thăm Việt Nam, báo chí Mẽo viết, tông tông Huê Kỳ
'chinh phục' nước ta, thí dụ, ấy là vì họ muốn nói, chỉ bằng thiện tâm
của một ngưòi mà chiến thắng lòng thù hận của muôn người.
Hay khi tay gì gì đó, người Mẽo, giáo sư sử học Harvard, trên Tin Văn
đã từng giới thiệu,(1), viết một cuốn sách, tố toàn thể dân Đức đều là
đồ
tể tự
nguyện của Hitler, và khi ông này đi tua bán sách của mình tại Đức,
đăng đàn diễn thuyết, dân Đức kéo đến chật rạp, thì báo chí Đức viết,
me-xừ này đã 'chinh phục' nước Đức.
Còn me-xừ Obama, dân Mẽo, làm sao lại 'chinh phục' nước Mẽo?
Thấy người ta dùng chinh phục, cũng chinh phục!
Thảo nào, ăn cướp [chinh phục] thì nói là giải phóng!
(1)
Địa ngục đã làm việc ra sao. Trong cuốn
"Những
Đao Phủ Tự Nguyện của Hitler: Những con người Đức bình thường và Lò
Thiêu
Người" (nhà xb Knopf, 622 trang, 1996), Daniel Jonah Goldhagen đã đưa
ra
một cái nhìn mới mẻ về bản chất chủ nghĩa bài Do thái. Ông nghiên cứu
cách phát
triển của thế kỷ 19, theo đó, đã cung ứng một xã hội đấy ứ hận thù Do
thái, sẵn
sàng, tự nguyện để được động viên vào bất cứ biện pháp, hành động nào
chống lại
Do thái, và hỗ trợ trò giết người hàng loạt sau đó. Ông tin tưởng, trái
với quan
niệm thông thường, vẫn được chấp nhận, theo đó, đại bộ phận những người
Đức
bình thường đã "bất bình" với chủ trương bài Do thái của Nazi, nếu họ
phải tham gia là vì quá sợ hãi, do sức ép của xã hội, một sự vâng lời
thái
quá...
Không phải như vậy. Đa số đã chia sẻ trò giết người
với Hitler, tự nguyện tham gia làm đao phủ. Việc cần thiết phải huỷ
diệt Do
thái là rõ ràng, đối với tất cả, tiếp theo quan niệm Do thái là kẻ xâm
lăng,
ngoại lai, đối với cơ cấu xã hội Đức.
Khi cuốn sách được xuất bản tại Hoa Kỳ, nó đã gây một
phản ứng thù nghịch rất dữ dội tại Đức, trong cả hai giới truyền thông
và sử
học. Trớ trêu là, khi những bản dịch Đức ngữ đầu tiên xuất hiện, tháng
Tám
1996, tất cả được bán sạch, vài tuần sau, 130 ngàn ấn bản được tung ra.
Tháng
Chín, 1996, khi tác giả xuất hiện tại Đức, chuyến đi "chào hàng" của
ông đã là một "succès fou": Goldhagen
đã chinh phục Đức quốc! Trong
vòng 10 ngày, giở bất cứ một tờ báo, mở bất cứ một chương trình TV là
đều thấy
bộ mặt bảnh trai của nhà khoa học chính trị trẻ tuổi của Harvard ("Ông
ta
trông giống như Tom Hanks"). Buổi thảo luận về cuốn sách, lần đầu được
tổ
chức tại Hamburg,
con số tham dự là 600 người. Lần chót tại Munich,
2500 vé, 10 Đức mã một, bán sạch. Công chúng Đức đến để nghe chính điều
tác giả
nói, trong 600 trang nguyên bản, 700 trang dịch bản, tóm tắt là: Lò
Thiêu Người
chỉ xẩy ra tại Đức, nhập thân vào chế độ Đệ Tam Reich, bởi vì đó là
cách các
người đã là (you were the way you were). Các người làm điều đó, chỉ các
người
thôi, bởi vì các người là một trong những quốc gia bị vò xé bởi lòng
thù hận,
phải huỷ diệt Do thái, và đều là đồng lõa, một khi thời gian chin mùi.
Đây là một người
*
Tởm nhất là thứ ngôn ngữ đổi
trắng thay đen nhằm đánh bóng chế độ. Thầy giáo đè con nít ra hãm
ngay ở lớp học, vậy mà trắng trợn viết là Thầy giáo 'yêu'
học sinh ngay tại trường. Hay Lĩnh án vì 'âu
yếm' với trẻ 12 tuổi.
Viết như thế, chẳng khác xúi những thằng mặt người dạ thú khác bắt
chước.
Buồn
Nôn, La Nausée
Hữu Thể và Hư Vô
Tout
existant nait sans
raison, se prolonge par faiblesse et meurt par rencontre. Sartre: La
Nausée
Mọi
hiện hữu đều vô lý, kéo
dài do yếu đuối, chết do tình cờ.
Hay:
Cái sống nào mà chẳng cứ thế
lòi ra chẳng cần lý do, cứ thế lòng thòng do
chết
nhát, và chết đứ đừ, do ngẫu nhiên
Sartre: Buồn Nôn.
*
Tout
existant nait sans
raison, se prolonge par faiblesse et meurt par rencontre.
Đó
là câu văn 'định nghĩa' Buồn Nôn, có thể nói như vậy.
Simone
de Beauvoir kể, trong La Force de
l'âge, sau khi cuốn La légende
de la
vérité của Sartre bị nhà xb vứt vô thùng rác, ông bèn tính viết,
vào Mùa Thu
năm 1931, một tác phẩm mới mà ông đặt tên tạm cho nó là "factum sur la
contingence'.
factum, gốc gác của của nó, từ 'pamphlet' [bài văn đả kích], của
thế kỷ thứ 18,
và là quá khứ phân từ của động từ tiếng La Tinh, facere (faire: làm), được
Nizan và Sartre, và Rabelais, trước đó, sử dụng để gọi một bản văn mà
thể loại
của nó chưa được xác định, và nội dung còn phải bàn cãi. Trong bản
thảo
đầu tiên, nó rất giống cuốn bị nhà xb chê: Lèm bèm, une
longue et abstraite méditation, về ngẫu nhiên, tình cờ. Và bà
bèn đề
nghị
Sartre hãy thêm vô tí mùi mẫn, tí nghẹt thở, suspense, thì mới ăn khách,
và Sartre bèn gật đầu [J’insistai
pour que Sartre donnât à la
découverte
de Roquantin (sic) une dimension romanesque… FA p.124]. Đây là
“chiến
dịch thứ
nhất”.
Bản
thảo đầu hì hục mất hai năm.
Nhưng
sau đó, Sartre khám phá
ra Husserl, và chính sự khám phá ra hiện tượng học đã để một dấu ấn
nặng
nề lên Buồn
Nôn, lên cái gọi là ‘ngẫu nhiên’. Đây là ‘chiến dịch thứ nhì’.
Thời
gian 1933-1934, Sartre từ
giã trường trung học ở Havre, qua Học viện Pháp ở Berlin, và tại đây,
ông đọc Ideen,
một tác phẩm quan trọng của Husserl, xb tại Fribourg, năm 1913, và chỉ
được dịch
ra tiếng Tây vào năm 1950. Thế là buổi sáng đọc Husserl, ghi chú, viết,
sau đó
lòi ra cuốn La
Transcendance de l’ego; buổi chiều dành
cho “factum’.
Chiến
dịch thứ ba, vào năm
1935, kéo dài 1 năm, và đưa đến hoàn
thành bản
thảo. Cái tít thay đổi, ‘Factum sur la contingence’ sửa thành “Nỗi
buồn”, “Melancholia”.
Trong chiến dịch thứ ba, có Olga, nữ đệ tử của de Beauvoir, và là người
Sartre chết mê chết mệt, tham dự.
Và
thời gian thứ tư [chiến dịch
thứ tư] của sự phát triển một cuốn sách thường là của sự bi quan, chối
từ, phủ định,
le quatrième temps de l’élaboration du livre est négatif: c’est celui
de l‘autocensure,
theo như nhận định của Michel Contat và Michel Rybalka. Thời gian này,
kéo dài
hai năm, từ 1936 tới 1938. Sau đó, Nizan trịnh trọng mang bản
thảo tới trình Gallimard. Bị từ
chối.
Sartre đau quá, sụm luôn!
*
Phong
thần bảng
Anh
Môn
Hà
Nội là cái quái gì!
Tôi
còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
Thanh
Tâm Tuyền
Le
Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như
trên, là “bản gốc”,
cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác
giả cuốn
Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu
nhà văn nổi tiếng
Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh
Môn, trước khi viết Gatsby?
“Bạn nào biết,
làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn
làm phiền
tôi lắm lắm…”.
Nhưng
đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả,
Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho
nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn
Hồng Mao,
có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có
tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine,
như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một
câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
"Tôi
mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi,
chứ
không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha
nó”.
[I
like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not
when it
usepts or exceeds it].
Fowles
viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh
Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc
giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm
hiểu nó.
Đúng
là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm
ngưỡng, nhưng
nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó
ra, là một
việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như
thế, là để
thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ!
Tuy
nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn“Anh
Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản
văn tiếng Pháp,
của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986.
*
Le
Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn.
Frédéric
Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”,
“de” là từ tiếng Latinh “siderere”:
ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước
một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ
tôi với”,
nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi
không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như
tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je
cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu].
Ở
miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch
[Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn
này lắm.
Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều,
lại
chính là…. Hà Nội! Người tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như
tôi hiểu
được, qua lời kể của bà xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện
viễn liên,
sau khi Gấu tôi được tin anh mất, và xin được số điện thoại của gia
đình. Gia
đình không còn ở con hẻm đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6
nữa, mà
rời về Phú Nhuận. Cô con gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ.
Chị
cho biết, thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm,
chứ
không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê
thơ, và
rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm
tờ Tập
San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến
mất cũng tại một
quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện
gục xuống,
giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh,
thì chắc
không sao. Họ cuống lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách
nhiệm, hối
chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh
Hiến có một
bài thơ về Hà Nội.
Tôi
hỏi: Anh Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi
bài thơ, không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì
bài thơ
cũng chỉ ở trong đầu anh Hiến…
Chuyện
như thế này:
Vào
những ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh
cứ lẩm
nhẩm ở trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám
bạn bè mới
quen, anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi
xong chưa,
anh nói chưa xong, chưa được…
Rồi
anh mất, và bài thơ đi luôn cùng với anh.
Lạ
một điều hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là
hay đó, chẳng
ai nhớ, dù chỉ một từ, một hình ảnh…
Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những
ngày đầu
hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập
San Văn Chương.
Cũng
là những ngày hai đứa luôn nói về Thơ,
Và,
lẽ tất nhiên, về Huế.
Và
Hà Nội.
*
Frédéric
Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ
tình
thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một
chiều (coup
de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy!
Yêu thì đẹp,
nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như
vậy, một
người đau khổ, và một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ,
nghĩa là kẻ
đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực.
Và
như tất cả những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi
một điều
thật là ác nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa
Lạ của
Camus, Ông Hoàng Nhỏ của
Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond
Radiguet,
20 tuổi… Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng
Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín năm 1914.
Fowles
đọc Anh Môn hồi còn trẻ, và
sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay
của
riêng mình, Magus, dưới bùa
chú của Anh Môn [“ảnh hưởng
rất nhiều bởi Anh Môn”:
very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên].
Hơn thế
nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác
giả của
nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình
gần gụi
với Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Cũng
là thường tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của
một cuốn
sách mà bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn
cay đắng
khắc nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời
với mối
tình đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa
chú, bởi
vì, trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ
bạn đã từng
say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ
sao…
Con
gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn
chương
mà tới tuổi đầu đời, khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của
sự vật:
thời đại hoàng kim của nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans
littérature].
Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ
ra, chính
là một trong những phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái
nhìn
chó đái cũng cười, vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một
dòng nước
nong nóng, hồng hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng
mình đã ra
khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi
qua đi và
không hề trở lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là
cái tuổi
mà chúng ta biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ
mộng, rằng
nước mắt là bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần
tới nó”
như cô viết trong truyện ngắn Những
Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn gọn: đột
nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn
nằm ở
ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó […
that the
satisfaction of the desire is also the death of the desire].
Em
cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!
Như
bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.
Như
Hà Nội chẳng bao giờ tới được…
Merde!
The other voice: Một tiếng nói
khác
Bài viết mà có thể gọi là
‘essay’ đầu tiên của Gấu, là về Sartre, về hiện sinh, “Thế nào là văn
chương
dấn thân?”, đăng trên tờ Nghệ Thuật. Mới đây, qua Cali, gặp anh Trần
Văn Nam,
anh nhắc tới bài viết, còn nhắc tới trang báo Nghệ Thuật đăng bài viết
nó ra
làm sao!
Một độc giả khác nữa, là
Thạch Chương, tức Cung Tiến. Ngay lần gặp đầu tiên, từ hồi còn Quán
Chùa, anh
đưa ra nhận xét, "cách viết, cách sử dụng tiếng Việt của anh khác của
tôi.
Cách viết của tôi có tính mô phạm, trường lớp, còn của anh là thứ tiếng
Việt
thật bình dị, không có vẻ lên lớp". Ý của anh là như vậy, nhưng lâu
quá,
không nhớ đúng y chang câu của anh.
Nhưng về 'không có
vẻ lên lớp’,
thì một độc giả khác nhận xét về Gấu thú hơn nhiều:
V.
bảo chú Trụ dịch và viết
thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi
cọ. Có lẽ
văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ, phải dạy
người ta
một diều gì đó nhưng không dạy đời.
*
Tiếng
Việt, do văn phạm ‘lỏng
lẻo’, do một từ có thể dùng thay nhiều cách, khi thì là động từ, danh
từ, trạng
từ… vẫn chỉ một chữ đó, trong khi tiếng Pháp, tiếng Anh, thí dụ, nhìn
một cái,
là đã biết nó là tiếng gì rồi. Mỗi từ là có cả một lô họ hàng của chúng.
Tình
cờ đọc bài viết của Paz,
có nhắc tới Satre, và văn chương dấn thân, post ra đây, trình độc giả
Tin Văn
Phi lý của Camus ở
đâu mà ra?
Ngoài phát giác về
phi lý ở nơi
Camus, cha tôi còn sững sờ vì một Camus huyền thoại văn học, và càng
sững sờ hơn khi nghe tin ông chết vì tai nạn xe hơi, và đành coi đây là
‘phi
lý’.
Như
mọi người, cha tôi nhìn
ra hào quang của tuổi trẻ ở nơi văn xuôi của Camus. Tôi cũng cảm thấy
điều này, mặc dù bây giờ câu văn phản ảnh nhiều về thời đại, và cái
nhìn ra
thế giới bên ngoài của tác giả, so với trước đó. Khi tôi đọc tác phẩm
của ông,
có vẻ như đối với tôi, Âu Châu ở trong những cuốn sách của Camus vẫn là
một nơi
chốn trẻ, và mọi chuyện vẫn có thể xẩy ra. Như thể những nền văn
hóa của nó chưa rạn nứt, như thể nhìn ngắm thế giới vật chất bạn vẫn có
thể lọc
ra yếu tính của nó. Có thể điều này phản ảnh không khí lạc quan thời
hậu chiến,
khi nước Pháp chiến thắng tái khẳng định vai trò trung tâm của nó trong
văn hóa
thế giới và đặc biệt là trong văn chương. Đối với giới trí thức từ các
phần khác
trên thế giới, nước Pháp hậu chiến là một lý tưởng bất khả, an
impossible
ideal, không hẳn chỉ vì văn chương, mà còn do lịch sử của nó. Bây giờ,
chúng ta
nhìn ra thật rõ ràng, chính là tính ưu việt về văn hóa của nước Pháp đã
đem đến
cho chủ nghĩa hiện sinh và triết học của sự phi lý một thế giá bảnh bao
như vậy
ở trong nền văn hóa văn học, the literary culture, của thập niên 1950,
không chỉ
ở Âu Châu mà còn ở Mỹ, và những xứ sở không phải Tây phương.
Chính là từ một thứ
lạc quan
thời trẻ tuổi [của bất cứ ai trong chúng ta], đã khiến Camus tạo ra cú
làm thịt
anh chàng Ả Rập, và coi vụ “giết người không suy tư” này, the
thoughtless
murder, là một vấn đề mang tính triết học hơn là thực dân thuộc địa.
Pamuk: Albert Camus
Kẻ
Xa Lạ
Tông tông Pháp hết lời nâng bi Camus
Những
con thú ăn mồi
sống
Nhà văn Bắc Mỹ Paul
Theroux,
tác giả The
Mosquito Coast, một cuốn tiểu
thuyết thú vị, và
nhiều cuốn
sách du lịch rất ăn khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm sách ở Anh
rao bán
một số tác phẩm của ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ bút của tác
giả, là
những dòng đề tặng Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên, ông bèn
viết thư
cho nhà văn Nobel, và ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ ra đầu
ngõ, vén
váy, đi vài đường bồm bộp [nguyên văn, thay vì đích thân trả lời,
Naipaul trao
trách nhiệm này cho bà vợ mới, một ký giả Pakistani, “đần độn như là
nhan sắc
đẹp đẽ” của bà, nhưng cho dù đần độn, mớ chữ ít ỏi của bà cũng đủ để đi
vài
dòng chế nhạo].
Sự
trả thù của ông Theroux mới khủng khiếp làm sao: Chẳng thua gì giáo
sư
Nguyễn Đăng Mạnh!
Llosa,
tác giả bài viết The Predators mà Gấu đang đi một
đường
giới
thiệu độc giả Tin Văn, khuyên độc giả chớ có mua cuốn sách vừa tai
tiếng vừa
rất ư cụp lạc, Sir Vidia’s Shadow:
A Friendship across Five
Continents
[Cái bóng của Naipaul: Một tình bạn xuyên qua năm lục địa]. Bởi vì vừa
đọc vài
dòng, là bạn không thể nào rứt ra nổi!
Theroux,
đệ tử, nhỏ hơn Naipaul chừng 10 tuổi, gặp sư phụ ba chục năm
trước đây
tại Keynia, Đại Học Makerere, nơi cả hai cùng làm việc. Đệ tử bị sư phụ
hớp
hồn, cả về tài năng lẫn nhân cách, vào lúc đó, Naipaul đã nổi như cồn
với những
tác phẩm như A Bend in the River, hay A House for Mr.
Biswas. Theroux
trở thành đệ tử, tài xế, và tà lọt, và để tưởng thưởng, Naipaul thỉnh
thoảng
cũng đưa ra vài ngón nghề, của một thiên tài văn chương, và, lâu lâu,
giống như
quẳng cho một người ăn xin vài đồng lẻ, Naipaul cũng lèm bèm cùng đệ
tử, về
quan niệm của ông về thế giới, về con người, về Phi Châu, về lịch sử.
Những
bài học này thật bảnh,
thật sáng chói, chắc hẳn, bởi vì đệ tử ghim vào ruột, chẳng bỏ qua một
chi tiết
nào, để rồi bao nhiêu năm sau, gậy ông đập lưng ông, đem ra xài, và [vẽ
rắn]
thêm chân cho chúng.
Đương
nhiên là, những quan
điểm của Naipaul, trong những lúc phởn phơ như thế, không thể nào in ra
được.
Lúc đó chưa có net, và, như trường hợp hồi ký NDM, không có một thằng
phải gió
nào, không hiểu sao vớ được, và hê ầm lên. Gấu này nghi, chính me-xừ
NDM cố
tình làm ra như vậy! Bởi vì một khi viết ra được một câu sướng đến phát
điên
lên, thí dụ, tả cảnh NDT run như cầy sấy trước TH, như con ếch nhìn
thấy con
cua, mà lại không công bố cho mọi người cùng thưởng thức sao?
Cũng
thế, với Naipaul. Khi
những nhà thơ trẻ Phi Châu tới đọc thơ cho ông nghe và xin ý kiến, ông
phán,
vứt ngay vô thùng rác cho ta! [Có thể Sến cô nương đã từng nghe chuyện
này, và…
mô phỏng chăng, khi phán về NDT?] Có khi ông nức nở khen, chữ ai viết
mà đẹp thế! Khi được hỏi về giải thưởng
thơ của Hội
Nhà Văn Mít, ông nhỏ nhẹ khuyên, chỉ nên phát giải ba, giải nhất giải
nhì kể như
không có! Được hỏi về văn chương Phi châu, ông thuổng ngay câu của nhà
văn nhớn
ra đi từ Miền Bắc, Vũ Thư Hiên, khi ông này được hỏi về văn học hải
ngoại: “Này
có thứ đó thiệt hả”? [But does it exist?]
Naipaul
chẳng hề hổ thẹn, khi
phán về văn chương Phi châu, một khi đám trắng bỏ đi, nó sẽ trở về thời
dã
man. Và để chọc quê người bản xứ, ông gọi xứ sở của họ bằng những cái
tên
thời còn thực dân.
Llosa
thú nhận, ông
thừa sức
viết vài cuốn sách như thế, về những văn hữu của ông, những người mà
ông quen
biết, bởi vì lúc này, lúc nọ, ông nghe được cả lố những điều khủng
khiếp từ miệng
của họ thốt ra, thường là vào đêm khuya, khi rượu vào lời ra, khi mầy
tao chi tớ
với nhau, và văng ra đủ thứ. Và gặp một tay có tài như Theroux [số một,
trong số
những nhà văn hạng nhì], bạn vô tình đọc phải, là không thể nào rứt ra
được,
chuyện đương nhiên: nhân vật Vidia S. Naipaul mà ông ta sáng tạo ra, ở
trong cuốn
sách của ông, thì cũng độc địa chẳng kém chi người kể chuyện, tức chính
ngài
Theroux, đích thị Ngài.
“yet from those
flames
No
light but rather darkness visible."
[Tuy
nhiên từ những ngọn lửa đó, không phải ánh sáng, mà là bóng đen, hiển
hiện]
Milton, Paradis
perdu (I, 62)
Catherine Pappo-Musard dịch, ghi chú và viết tựa Trái Tim Của Bóng Đen, bản song ngữ.
L'expérience
congolaise a fait de lui un homme
pour qui désormais les ténèbres sont toujours visibles: les ténèbres,
c'est-à-dire le passé dans le présent, le primitif dans le civilisé, le
mensonge dans la vérité, la corruption dans l'idéal, et la mort dans la
vie.
Kinh nghiệm Congo biến ông thành một người bóng đen luôn hiển hiện:
Bóng đen, đó là quá khứ trong hiện tại, sơ khai man rợ trong văn minh
có học, dối trá trong sự thực, hư ruỗng trong lý tưởng, cái chết trong
sự sống.
Giữa lòng đen
Xa
Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một
điều, giả
như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó
sẽ như
thế nào.
Du
danger de la
prophétie
Thế giới mang họa vì
lời tiên
tri của tay này.
Mít mang họa vì lời
tiên tri
của Bác: Thắng trận này, sẽ xây nhà Mít bảnh bằng 10, bằng 100 trước đó!
Có mấy Trần
Đăng Khoa? (1)
Chân dung Trần Đăng
Khoa
TTD
TDK by NQT
Lê
Lựu đại náo Huê Kỳ
Tố
Hữu:
Phịa như thiệt
"Balzac
mô tả cái nón,
là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn
đuốc
đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một
miền đất
muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải
thích
được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Note: Gấu phán về trận đánh DBP bảnh hơn VC nhiều!
Văn chương
sám hối?
Cái
độc, cái ác trong văn chương.
Chân Dung
Nhà Văn & Lời
Bàn: Gấu, Nhà Văn
Thư
Nhà
Nơi người chết mỉm cười
Hiếp
dâm tiếng Việt
Ngay
cả những tiếng nói thật bình thường, những danh từ xưng hô như
Bác, Cháu,
Anh Hai, Anh Ba.... nhiều khi người được gọi nghe thấy gai trên mấy đầu
ngón
tay...
Salman Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
St-Ex: Yêu
không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một
hướng.
Phi Châu
Truyền Kỳ
Du lịch với
Herodotus [TLS Review]
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
|