|
Bàn Tay Năm Ngón
Truyện
ngắn mới
nhất của Thảo Trường
Happy
birthday, Len Deighton: we need you now more
than ever
Chúc mừng sinh nhật, Len. Tụi
này quá cần bạn vào lúc này.
"It was the morning of my hundredth
birthday." So begins Len Deighton's Billion
Dollar Brain, published in 1966. Yesterday Deighton himself turned 80.
Last
year, the centenary of Ian Fleming
saw a resurgence of interest in James Bond's creator – could
it be Deighton's turn?
HarperCollins has announced that it will reprint eight
of his novels this year, including The Ipcress File, Funeral in Berlin and
Billion
Dollar Brain, all with new introductions by the author. Quentin
Tarantino has
also said he is contemplating filming the Game, Set and Match trilogy,
featuring Deighton's embattled British agent Bernard Samson.
Now is the perfect moment for a Deighton revival. In
the current political climate, his novels – particularly his cold war
spy
stories – act as a refresher course in what happened last time round.
Unlike
John le Carré's work, they don't make for bleak or melancholic reading,
and are
often rather jaunty in tone. But running through them is a deep
mistrust and
cynicism of the powers that be. His protagonists are
anti-authoritarian,
laconic, past their best, bitter and seething at the absurdity of their
business.
Gấu có vài kỷ niệm về tay này, cùng với Mai Thảo, và Quán Chùa, và Sài
Gòn. Đã kể ra trong Tản mạn về phim & Những ngày ở
Sài Gòn
Và có một kỷ niệm về ông, những ngày mới tới xứ lạnh, đi học ESL, và bà
giáo già, khi thấy Gấu cặp theo một cuốn của ông, đã nói, tôi mê tay
này lắm, không ngờ lù khù, lớ ngớ, ngớ ngẩn, không rành tiếng Anh, như
anh, mà cũng mê ông ta!
Quả là thế thật! Ấy là vì bà gọi Gấu lên lau cái bảng, mà Gấu ngớ ra,
chẳng hiểu bà nói gì!
Len được coi là thi sĩ của những câu chuyện điệp viên.
A Dickensian tale of
provincial China
Yiyun Li's novel gives
chilling insights into the mechanisms of totalitarianism
The
counter-revolutionary's
tale
Christopher
Tayler applauds a
first novel by a skilled storyteller
Yiyun
Li's 2005 story
collection A
Thousand Years of Good Prayers - which won four
prizes, including
the Guardian First Book award - was admired for taking a calm,
Chekhovian look
at a changing China
and the lives of Chinese emigrants.
Chúng
tôi hô khẩu hiệu khi
đạn vô sọ anh ta.
Yiyun
Li: A
thousand years of good prayers
Nhân
nhắc tới Yiyun Li, Gấu lại nhớ tới cái cú chuyển dịch [ra tiếng]
Vịt của eVăn.
Chuyển Dịch Vịt
British
author Geraldine
Bedell banned from Dubai
book festival
British
author Geraldine
Bedell has been banned from a book festival in Dubai because one of the
characters
in her
new book is gay.
Sách
gay của nữ văn sỡi Anh bị cấm tại Hội Sách
Atwood
pulls out of Dubai
festival in
censorship protest
Atwood,
phó trùm PEN, đếch thèm dự nữa!
Back to Sorento
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn
The myths of Gabriel García
Márquez
An authoritative life of Latin
America's
only truly global writer
Hậu Hiện Đại
Cha đẻ
của từ này, theo
Jordan Davis, khi điểm cuốn “The
Devil gets his due”, the uncollected
essays of Leslie Fiedler,
là Fiedler! [TLS
2.1.2009]
Câu này của ông, chẳng bảnh sao: Phê bình gia đừng lo, đúng, mà
lo, điều mi phán đó, có đáng đọc không? "Critics should be more worried
about being worth reading than about being right"
THE PEN IS CRUELER
THAN THE
SWORD
Salman Rushdie vs Le Carré
Ngòi viết thì độc hơn thịt vịt, sắc hơn gươm giáo: Cuộc tỉ đấu giữa
Salman Rushdie, Le Carré, với me-xừ Christopher
Hitchens đứng ngoài đổ thêm dầu, v/v Quỉ
Thi
Rushdie
không ưa Le Carré.
Trong tập tiểu luận Quê hương tưởng
tượng, ông chê hết lời truyện điệp viên của
ông này. Nhân một bài viết của LC trên tờ Guardian, phàn nàn, ông bị tờ
NYRB gán
cho tội bài Do Thái, thế là R. bèn tố cáo LC, khi xẩy ra vụ Quỉ Thi, đã
đứng về
phe những kẻ tấn công R: Bi giờ đến lượt mi ăn đạn nhé, sướng chưa?
LC trả
lời: Ta đâu có đứng về
phía những kẻ tấn công mi, nhưng ta phán: Làm đếch gì có tiêu chuẩn
tuyệt đối
v/v tự do ăn nói, muốn phạng ai thì phạng, trong bất cứ một xã hội.
Quan điểm của
ta là, chẳng thể có chuyện không bị trừng phạt, một khi mi nhè tôn giáo
mà sỉ
nhục [My position was that there is no law in life or nature that says
that
great religions may be insulted with impunity].
NYRB 10 Tháng Hai, 2005
Kafka Up
Close
Điểm một số sách viết
về Kafka mới ra lò
Franz Kafka: The Necessity of
Form by Stanley
Corngold.
Cornell University Press,
321
pp., $45.00, $16.95
(paper)
Lambent Traces: Franz Kafka
by Stanley
Corngold. Princeton
University
Press, 262
pp., $45.00
Franz Kafka: The Jewish
Patient by Sander L. Gilman.
Routledge,
328 pp., $31.95
(paper)
Kafka: Gender, Class, and
Race in the Letters and Fictions by.Elizabeth Boa.
Clarendon
Press/Oxford
University Press, 304 pp., $90.00
K.
by
Roberto Calasso,
translated from the Italian by Geoffrey Brock. Knopf, 327 pp., $25.00
Frederick Crews
….
In
emphasizing solemn themes
and prophetic insight, Kafka's early admirers courted a backlash, and
it
arrived in the form of a challenge by Edmund Wilson in a New Yorker
essay of
1947. [See Edmund Wilson, "A Dissenting Opinion on Kafka," reprinted
in Classics and Commercials (Farrar, Straus and Cudahy, 1950)]. Wilson argued
that the
Kafka cult was being promulgated by weak and self-hating intellectuals
who
resembled Kafka himself in that regard. It was strange, he wrote, that
a
so-called master novelist hadn't completed a single novel or indicated
how the
structural dilemmas in his uneven fragments could have been resolved
even in
principle. And he concluded: "What [Kafka] has left us is the
half-expressed gasp of a self-doubting soul trampled under. I do not
see how
one can possibly take him for either a great artist or a moral guide."
Wilson phán: Chỉ đám văn nhược mới mê Kafka, và nghĩ họ, giống K!
Uống rượu một mình
Thơ Hoàng Lộc
Quê hương
tưởng tượng
Comment
échapperions-nous à
notre passé nous qui nommons “passé” le pauvre souvenir qui nous en est
resté?
William MATTHEWS, Flood.
[Làm sao thoát khỏi dúm
kỷ niệm khốn khổ còn lại mà chúng ta gọi là 'quá khứ'?]
*
Nhưng
con người, thứ nhân
sinh hèn mọn không làm sao nhìn trọn sự vật: chúng ta đâu phải là thần
thánh, mà
chỉ là những sinh vật bị thương, những gương kiếng bể vỡ, chỉ có những
cái nhìn
thủng lỗ, hay, chỉ có thể nhìn qua lỗ thủng! Những sinh vật mảnh,
miểng, manh mún,
vụn vặt… với tất cả những ý nghĩa của những từ này. Nghĩa, ý nghĩa.. là
một thứ
khung, giàn, công trình… mà chúng ta xây dựng lên, từ những mảnh vụn,
những định
kiến, những giáo điều, những vết thương dậy thì, [childhood injuries],
những mảnh
tin tức báo chí, những nhận xét may mắn đọc được ở đâu đó, những phim
ảnh coi từ
hồi nào, những thành công nho nhỏ, những con người yêu thương, hoặc hận
thù; có
thể chính là vì chúng bất toàn, manh mún, tủn mủn như thế, cái công
trình mà chúng ta gọi là "‘đời của mi' đâu rồi hôm nay không đi đón mi"
(1), mà chúng
ta đã chiến đấu bảo vệ nó một cách kiên cường, dũng mãnh, và nếu cần,
đem cả cái
chết ra để mà bảo vệ! Cái vị trí toàn cảnh như me-xừ Fowles đòi hỏi
như thế đó,
theo tôi, là một cách chịu thua, đầu hàng một ảo tưởng mà chúng ta gọi
là guru-illusion, qua đó, tác giả ông
nhà văn, nghĩ mình là một thứ Thượng Đế.
(1) "Đời
của tôi", Bích Nga thường gọi chàng bằng những tiếng kỳ cục, "Đời của
mày hôm nay đâu rồi, sao không đi đón mày?"...
Lan Hương
Kỷ
niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Tổ Quỉ
Cuộc Tình
Bỏ Đi
Phỏng
vấn PHT
From:
To:
Tuesday, February 18, 2003
10:54 PM
Today's my birthday. U make
me happy. Tks for nice
message.
----- Original Message
-----
From:
To:
Sent: Tuesday, February 18,
2003 10:50 PM
Subject: Re:
Tks, I miss you, really, nqt
*
Happy Birthday to U,
NQT
18. 2.2009
Miếng bấc
hòn chì thì là quê mẹ.
John
Fowles, nhà văn Anh, khi
được hỏi tại sao ông lại gọi cuộc phỏng vấn ông, là một "Unholy
Inquisition" (Pháp Đình Tà Ma), đã trả lời: Thì cũng giống một chiến sĩ
bị
mật vụ Đức Gestapo, hay một kẻ vô thần bị mấy ông phán quan của Chúa,
tra hỏi.
Đâu có ai muốn "hoạn nạn" như vậy!
Tuy là
một nhà văn Anh, nhưng
ông cho biết, điều này tiếng nọ làm cho tôi cảm thấy mình là một kẻ lưu
vong
tại Anh. Vài năm trước đây, tình cờ tôi đọc được một câu trong một cuốn
tiểu
thuyết u tối viết bằng tiếng Pháp: Miếng bấc hòn chì thì là quê mẹ.
(L’opinion
est comme une patrie: Quan điểm thì cũng như đất mẹ) Kể từ đó, đây là
"niềm tin" về quốc gia dân tộc của tôi. Niềm tin, là nói quá: một khi
bạn chẳng còn có được cảm tưởng thế nào là tình tự quốc gia dân tộc,
một khi
những niềm tin của đồng bào của bạn thì đều khùng khùng điên điên, hoặc
bị quỉ
ám, bạn thật khó mà có niềm tin, và đành chọn cho mình nỗi cô đơn như
là hậu
quả tất nhiên của nó.
"Tại
sao tôi không thể
tin, những gì chúng tin... Nếu chúng chiếm được cuộc đời, tôi đành chọn
hư
vô" (Thanh Tâm Tuyền: Cát Lầy).
Lạ một
điều, khi thơ tự do
vừa mới xuất hiện tại miền nam, thời kỳ 1954, tác giả của nó cũng bị
đánh phá
tơi bời trong khi tên tập thơ đầu tay của ông: Tôi không còn cô độc!
Nhà thơ
khốn khổ, khốn nạn,
nhà thơ trời đánh (poet maudit). Nhà thơ bị ám sát (poet assassiné).
Nhà thơ
hoạn nạn, nhà thơ "lưu vong trên đất mẹ": đây là một tên bài viết của
Phan Huyền Thư, nhưng sau tác giả đành phải đổi lại là: Thơ của tôi
không dành
cho bạn. Người ta đã cho rằng đặt một cái tít như vậy, là đụng chạm tới
chính
trị, coi quê hương là "unholy"...
Nhưng,
thì vẫn là quê mẹ (cà
cuống chết đến đít vẫn còn cay): nhìn từ một góc nào đó, lưu vong, hoạn
nạn, là
thách đố mà nhà thơ nhà văn nào cũng phải chấp nhận, khi muốn làm mới
thơ, làm
mới ngôn ngữ. Proust nói: Những tác phẩm lớn được viết bằng một thứ
ngôn ngữ
ngoại (bản tiếng Anh: Great books are written in a kind of foreign
language).
Hoặc Kafka, khi để cho một nhà vô địch về bơi lội nói: Tôi nói cùng một
thứ
tiếng với bạn, vậy mà tôi không hiểu dù chỉ một từ bạn nói. (Tôi là nhà
vô địch
về bơi lội mà lại không biết bơi, tôi là nhà văn nhà thơ viết bằng
tiếng mẹ đẻ
vậy mà không biết tiếng mẹ đẻ!). Hoặc Roland Barthes: khi nhà văn xuất
hiện là
mở ra trong mình, một vụ án văn chương. Đây là hậu quả của văn chương
lên ngôn
ngữ mẹ: nó mở ra một thứ ngôn ngữ ngoại ngay trong lòng ngôn ngữ mẹ. Nó
làm cho
tiếng mẹ đẻ trở nên khác đi, để vẫn còn là tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa đó,
cách tốt
nhất để gìn giữ tiếng mẹ đẻ là tấn công nó, và mỗi nhà văn phải sáng
tạo cho
riêng mình một ngôn ngữ.
Sẽ có
rất nhiều người hỏi:
buồn tập tễnh là buồn thứ chi chi?
Hoặc
người ta nói "đôi
môi", chứ có ai nói "môi môi" bao giờ?
Hoa sữa
lọt áo em bối rối
Hương
của hương say môi môi
Vi Thùy
Linh
Mưa gõ
mõ cầu siêu
Hồn
phiêu diêu đèn nhang cửa
ngỏ
Buồn
tập tễnh
Về ăn
giỗ mình
Đầu
giường sằng sặc giấc mơ
mới
Phan
Huyền Thư
[Lần
đầu đụng câu thơ
"về ăn giỗ mình", cũng là lần đầu trở lại đất bắc, Hà Nội, sau hơn
một nửa thế kỷ xa cách, tôi cứ tưởng tượng đây là bữa giỗ của chính
mình].
Và buồn
tập tễnh.
Câu thơ
có nghĩa: Buồn nên
đành đi tập tễnh về ăn giỗ mình?
Nếu coi
tập tễnh
"đi" với động từ "về" sau đó, thì lại không xứng với hình
ảnh "mưa gõ mõ" ở trên:
Mưa gõ
mõ - cầu siêu
Hồn
phiêu diêu- đèn nhang
Buồn
tập tễnh -giỗ mình.
Đỉnh
cao chói lọi
Uchronie?
Uchronie, theo từ điển Le
Nouveau Larousse Illustré 1913: Danh từ giống cái. Không tưởng,
utopie, áp dụng vào lịch sử; lịch sử làm lại một cách hợp lý như là nó
có thể. Thí
dụ: Cái mũi của Cléopatre: Nếu ngắn đi một tí, thì bộ mặt thế giới đã
thay đổi.
Bằng thủ pháp uchronie, nhà
văn thay đổi dòng chảy của lịch sử. Một ông Quang Trung của NHT ra Bắc
nhét kít
vô miệng sĩ phu Bắc Hà, và thế là lương tâm kẻ sĩ xuất hiện đè bẹp dí
Cái Ác Bắc
Kít, và thế là cuộc chiến giữa Mít Bắc và Mít Nam đổi khác!
Chỉ có những nhà văn mới có
thể làm được điều trên đây.
Thời điểm thay đổi số mệnh của
họ.
Với Eric-Emmanuel Schmitt, tác giả Nửa
kia của Hitler, La Part de l’autre:
Phần của kẻ khác, đó là lúc ông cho Hitler
thi đậu vô trường Mỹ Nghệ và trở thành họa sĩ.
Chúng ta cứ giả dụ, ông Hồ được
Tây mũi lõ cho một chức quèn, thư ký thư kiếc gì đó, như ông đã từng
làm đơn
xin xỏ, thì biết đâu, lịch sử Mít đã khác?
Gấu chưa dám đọc Đỉnh Cao Chói
Lọi, thành thử không hiểu thời điểm thay đổi số mệnh của Bác,
theo DTH, là thời
điểm nào?
VTH, trả lời diễn đàn X-Cà
phe, phán về Bác:
Ông Hồ Chí Minh là một người
đàn ông, chuyện vợ con của ông tôi không quan tâm. Nhưng trong câu
chuyện bi
thảm này, những người có lương tri đều lên án ông, ngay cả trong trường
hợp ông
không trực tiếp ra lệnh giết người phụ nữ bất hạnh, người đã “đầu gối
tay ấp”,
có con bồng con mang với mình. Ông biết, ông tất nhiên phải biết, nhưng
ông đã
im lặng, đã quay mặt đi trước tội ác. Người không nhân hậu với người
thân của chính
mình thì nhân hậu được với ai?
Liệu chúng ta có thể lấy thời
điểm, “ông Hồ ôm lấy vợ con” này để thay đổi, modifier, dòng chảy lịch
sử nước Mít
chúng ta?
*
Ho Chi Minh
He married nationalism to
communism and perfected the deadly art of guerrilla warfare
By STANLEY
KARNOW
An
emaciated, goateed figure
in a threadbare bush jacket and frayed rubber sandals, Ho Chi Minh
cultivated
the image of a humble, benign "Uncle Ho." But he was a seasoned
revolutionary and passionate nationalist obsessed by a single goal:
independence for his country. Sharing his fervor, his tattered
guerrillas
vaulted daunting obstacles to crush France's
desperate attempt to retrieve its empire in Indochina; later, built
into a
largely conventional army, they frustrated the massive U.S. effort to prevent Ho's communist
followers
from controlling Vietnam.
For Americans, it was the longest war-and the first defeat-in their
history,
and it drastically changed the way they perceived their role in the
world.
To
Western eyes, it seemed
inconceivable that Ho would make the tremendous sacrifices he did. But
in 1946,
as war with the French loomed, he cautioned them, "You can kill 10 of
my
men for every one I kill of yours, yet even at those odds, you will
lose and I
will win." The French, convinced of their superiority, ignored his
warning
and suffered grievously as a result. Senior American officers similarly
nurtured the illusion that their sophisticated weapons would inevitably
break
enemy morale. But, as Ho's brilliant commander, General Vo Nguyen Giap,
told me
in Hanoi
in
1990, his principal concern had been victory. When I asked him how long
he
would have resisted the U.S.
onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100 years-as long as it
took
to win, regardless of cost." The human toll was horrendous. An
estimated 3
million North and South Vietnamese soldiers and civilians died.
“France
undervalued… the power [Ho] wielded.
There's no doubt that he aspired…
to become the the Gandhi of Indochina.
JEAN
SAINTENY, De Gaulles’s
special emissary to Vietnam,
1953
*
1890 in Hoang Tru in rural Vietnam
1911 Sails to France
to study
and work
1941 Forms the Vietnam
Independence
League, or Viet Minh
1954 Defeats the French at Dien Bien Phu.
Vietnam
is divided,
and Ho becomes
first President of North Vietnam
1959 Begins armed revolt
against South
Vietnam
1967 Tells L.B.J .. "We
will never negotiate"
1969 Dies of a heart attack
in Hanoi
*
The
youngest of three children,
Ho was born Nguyen Sinh Cung in 1890 in a village in central Vietnam.
The
area was indirectly ruled by the French through ~ puppet emperor. Its
impoverished peasants, traditional dissidents, opposed France's
presence; and Ho's father, a functionary at the imperial court,
manifested his
sympathy for them by quitting his position and becoming an itinerant
teacher.
Inheriting his father's rebellious bent, Ho participated in a series of
tax
revolts, acquiring a reputation as a troublemaker. But he was familiar
with the
lofty French principles of liberté, égalité, fraternité and yearned to
see them
in practice in France.
In 1911 he sailed for Marseilles
as a galley boy aboard a passenger liner. His record of dissent had
already
earned him a file in the French police dossiers. It was scarcely
flattering:
"Appearance awkward ... mouth half-open."
In Paris, Ho worked
as a photo retoucher. The city's
fancy restaurants were beyond his means, but he indulged in one luxury
American
cigarettes, preferably Camels or Lucky Strikes. Occasionally he would
drop into
a music hall to listen to Maurice Chevalier, whose charming songs he
would
never forget.
In
1919, Woodrow Wilson
arrived in France
to sign
the treaty ending World War I, and Ho, supposing that the President's
doctrine
of self-determination applied to Asia, donned a cutaway coat and tried
to
present Wilson with a lengthy list of
French
abuses in Vietnam.
Rebuffed, Ho joined the newly created French Communist Party. "It was
patriotism, not communism, that inspired me," he later explained.
Soon Ho
was roaming the earth
as a covert agent for Moscow.
Disguised as a Chinese journalist or a Buddhist monk, he would surface
in Canton, Rangoon
or Calcutta
- then vanish to
nurse his tuberculosis and other chronic diseases. As befit a
professional
conspirator, he employed a baffling assortment of aliases. Again and
again, he
was reported dead, only to pop up in a new place. In 1929 he assembled
a few
militants in Hong Kong and formed the
Indochinese Communist Party. He portrayed himself as a celibate, a pose
calculated to epitomize his moral fiber, but he had at least two wives
or
perhaps concubines. One was a Chinese woman; the other was Giap's
sister-in-law, who was guillotined by the French.
In
1940, Japan's
legions swept into Indochina and French
officials in Vietnam,
loyal
to the pro German Vichy administration in France, collaborated with
them.
Nationalists in the region greeted the Japanese as liberators, but to
Ho they
were no better than the French. Slipping across the Chinese frontier
into Vietnam-his
first return home in three decades she urged his disciples to fight
both the
Japanese and the French. There, in a remote camp, he founded the Viet
Minh, an acronym for the
Vietnam Independence League, from which he derived his nom de guerre,
Ho Chi
Minh roughly "Bringer of Light."
What he brought was a spirit
of rebellion-against first the French and later the Americans. As Ho's
war
escalated in the mid-1960s, it became clear to Lyndon Johnson that Vietnam
would
imperil his presidency. In 1965, Johnson tried a diplomatic approach.
Accustomed to dispensing patronage to recalcitrant Congressmen, he was
confident that the tactic would work. "Old Ho can't turn me down,"
L.B.J. said. But Ho did. Any settlement, he realized, would mean
accepting a
permanent partition and forfeiting his dream to unify Vietnam
under
his flag.
There was no flexibility in
Ho's beliefs, no bending of his will. Even as the war increasingly
destroyed
the country, he remained committed to Vietnam's independence. And
millions
of Vietnamese fought and died to attain the same goal.
Ho died on Sept. 2, 1969, at
the age of 79, some six years before his battalions surged into Saigon. spiring to bask in the reflected glory
of his posthumous triumph, his heirs put his embalmed body on display
in a hideous
granite mausoleum copied from Lenin's tomb in Moscow. They violated his final
wishes. In
his will he specified that his ashes be buried in urns on three
hilltops in Vietnam,
saying, "Not only is cremation good from the point of view of hygiene,
but
it also saves farmland." •
Stanley
Kamow, who won a
Pulitzer Prize in 1990 for In Our Image: America's
Empire in the Philippines,
is the author of Vietnam: A History
Time April 13
1998, Special Issue Leaders and Revolutionaries of the 20th century
Người bạn
của nhân dân:
Trùm Mật Vụ Yezhov, "Quả đấm bằng sắt" của Stalin.
"He was liquidated
because he had come
to suspect even Stalin of treason"
Ông Trùm bị hành quyết vì dám nghi ngờ đồng chí Stalin phạm tội
phản quốc!
BIOGRAPHIE
A friend of the people
VLADIMIR TISMANEANU
J. Arch Getty and Oleg V.
Naumov
YEZHOV
The rise of Stalin's
"Iron Fist"
283pp. Yale
University
Press. £25 (US $35). 978 0 300 09205 9
In a century stained with the
blood of millions, Nikolai Yezhov, Stalin's People's Commissar for
Internal Affairs
from 1936 to 1939, was definitely one of the worst mass murderers. He
served
his master unswervingly and presided, in cold blood, over the Great Terror. J.
Arch Getty and Oleg
V.
Naumov, authors of The
Road to Terror (1999), here offer provocative and illuminating analysis
of the
way Yezhov rose to become the second most influential man in the Soviet Union. This study adds significantly to
the
previous Yezhov biography by Marc Jansen and Nikita Petrov, Stalin's
Loyal Executioner: People's
Commissar Nikolai Yezhov (2002), which focused on his role as the
main
architect of terror.
Certainly,
the intensity of
the terror, its the amplitude and recklessness were directly linked to
Yezhov's
paranoid mentality. Nonetheless, for most of his career he was a dull,
unobtrusive,
disciplined party apparatchik. Strikingly short in stature,
unflinchingly dedicated
to the Bolshevik cause, Yezhov did not reveal, early on, any sadistic
proclivities. On the contrary, he appeared to be relatively balanced in
dealing
with his comrades' real or imaginary sins.
As Getty and Naumov show,
this relatively unimportant apparatchik made it to the top by clever
use of the
bureaucratic machinery. An industrial worker from Petrograd,
he had joined the party a few months before the October Revolution, so
he could
claim, like other Stalinist magnates, Old Guard credentials.
After working in the
provinces and Central Asia, Yezhov went to Moscow, studied the basics of
Leninism, and
was recruited by the chief of the party's cadres department Ivan
Moskvin as an
instructor in that crucially important sector. Under Moskvin's
protection, he
cultivated relations with Vyacheslav Molotov and Lazar Kaganovich. It
appears
that he did not establish personal connections with Stalin until the
late 1920s
or early 30s. Yet Stalin was certainly aware - of the young
functionary's
impeccable credentials as an organizer. Yezhov symbolized the ascent of
the
provincial cadres in the Soviet hierarchy. He owed everything to Stalin
and his
camarilla and knew how to exploit the increasingly fierce struggle for
power in
the dictator's inner circle.
The murder of Sergei Kirov by
a disgruntled militant in December 1934 was a godsend for Yezhov. He
accompanied
Stalin to Leningrad and conducted the
investigation of those suspected of having organized the assassination
of the Leningrad
party leader
(and Stalin's presumed rival). In the meantime, Yezhov had become the
head of
the Party Control Commission, a decisive instrument used to discipline
and
supervise the apparatus. Moreover, he was a Central Committee Secretary and head of the party's Organizational
Bureau. Altogether, he had amassed
more
power in his hands than
any other of Stalin's associates (except perhaps Molotov).
Getty and Naumov see Yezhov
as instrumental in playing on Stalin's anxieties, fears and phobias. He
appeared convinced that the "enemy" was conspiring everywhere, that
the "Fatherland of socialism" was in mortal danger and that terror
was morally justified. His mindset was typically Bolshevik: the world
was divided
into friends and foes, and the latter needed to be weeded out
mercilessly. In
his correspondence with Stalin, Yezhov used precisely the same terms
about the
"enemies of the people" as in his public utterances. In this respect,
there was no real difference between the Stalinists and the Nazis: they
meant
what they said, and ideology was not just a smokescreen. As the authors
put it:
"The Stalinists said the same thing to each other behind closed doors
that
to they said to the public: in this regard their 'hidden transcripts'
differed
little from their public ones .... Small political deviations were
portrayed,
and sincerely understood, as attacks by enemy forces". Still, one
wonders
whether Stalin himself ever considered someone like Nikolai Bukharin a
genuine
enemy of the people, or whether he accepted Yezhov's convenient
scenario in
order to eliminate a major figure in the Leninist tradition.
A consummate schemer, the
austere, self-effacing Yezhov managed to slander and replace Genrikh
Yagoda as
head of the secret police. He pursued his career fully convinced that
the party
and society as a whole needed to be continuously purged. There are no
indications of personal viciousness. Like many Nazi criminals, Yezhov
appeared
calm, quiet, approachable, even dispassionate.
By the end of 1938, Stalin
had got what he wanted from the Great Terror, and had no use for the
hysterically unpredictable Yezhov. The time of frantic mobilization had
passed
and Yezhov had become an embarrassment. In 1939, Lavrenty Beria
replaced him as
head of the NKVD and a few months later Yezhov was arrested. He was
executed in
1940 under surreal charges of moral decay and treason. When my parents
arrived
in the USSR
in late 1940 (they had both fought with the International Brigades in
the
Spanish Civil War), they asked a veteran Comintern executive what had
happened
to Yezhov. The old man whispered: "He was liquidated because he had
come
to suspect even Stalin of treason".
TLS 12 Tháng Hai 2009
Gấu nhớ
là, bà chủ quán cá có
lần kể về cái vụ lần đầu vô Nam tìm đọc Bùi Giáng, và được một nhà văn
Ngụy khuyên
can, chớ chớ, thứ đầu óc ‘duy [thực] vật' như của những nhà
văn Miền Bắc, không thể nào đọc nổi Bùi Giáng!
Cũng vậy, là, chưởng!
*
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời.
LTH
Vào năm
1981, Bai Hua, một nhà
văn quân đội của TQ, bị đả kích nặng nề vì đã để cho một nhân vật của
ông, [trong
phim Tình Yêu Không Được Đền Đáp, Unrequited Love], một cô gái nói với
ông bố sắp
chết: “ Bố yêu xứ sở của bố, nhưng xứ sở của bố có yêu bố đâu”. Giai
thoại kể là,
Đặng Tiểu Bình có coi phim, chiếu riêng cho ông, và ông bực quá, sủa,
đếch được,
“this won’t do”.
Thành
thử, câu của bà Huệ, nên
để cho những nhà văn trong nước nói ra, thì bảnh hơn. Mấy ông nhà văn,
nhà báo
trong nước đi biểu tình chống cắt đất, cắt biển dâng Tầu, nghe con cái
của họ
chửi, "bố yêu nước Mít, nhưng nước Mít đếch có yêu bố, đếch coi bố có
mặt ở trên đời", thì mới hợp
tình hợp cảnh
hơn là đám bỏ chạy!
Và đám bỏ chạy, hình như chúng nó chỉ mê có một nửa đất nước đếch còn
nữa mà thui!
*
Giai thoại trên, về Deng, Gấu
đọc, trong bài viết của Jonathan Mirsky, Những nhà văn trong một trận
gió lạnh
[Writers in a Cold Wind, nhái
tít của Le Carré, The Spy Who Came
In From The
Cold], điểm cuốn Những sử
dụng, the uses, của văn chương: Cuộc sống ở trong hệ
thống văn học xã hội chủ nghĩa TQ, của Perry Link [NYRB, 8
March, 2001]. Mirsky
kể là, vào đầu năm 1979, nhà nước TQ bãi bỏ rào cản 19 tác phẩm cổ
điển, và 16
tác phẩm ngoại quốc, trong có cuốn Anna
Karenina, và vào cái ngày đầu tiệm sách
Bắc Kinh bầy bán chúng, thiên hạ rồng rắn
nối
đuôi
nhau chờ mua, và đã xẩy ra đánh lộn, và trong một tuần, tám trăm ngàn
cuốn truyện
về nàng Kha Lệ Ninh đã được bán ra!
Gấu bất giác lại nhớ những ngày
1954, khi mấy anh VC về tiếp quản thủ đô, và lần, mấy rạp ciné cho
chiếu lại một
hai phim Tây phương cũ rich, bị kẹt: Cả Hà Nội xếp hàng đi coi! Gấu
cũng xếp hàng, tất nhiên. Vừa xem xong một cái là chạy vội kiếm đường
chuồn!
*
Hoàng
Xuân Trường, trong bài
viết trên Thế Kỷ 21, số tháng Tám, 1997, kể về một trong những lý do
vượt biên
của ông. Có cả ngàn lý do, nhưng thiếu kiếm hiệp cũng là một. Ông cho
rằng, xã
hội cộng sản cấm kiếm hiệp chẳng phải vì nó viễn mơ, không có tính
đảng, tính
giai cấp, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà vì những nhân vật của Kim
Dung
như Hồng Giáo Chủ, Tinh Tú Lão Quái, Đông Phương Bất Bại... đã gợi đến
những
lãnh tụ muôn vàn kính yêu của họ.
Kinh nghiệm vượt biên của ông
làm tôi nhớ đến của tôi, khi rời bỏ Hà-nội. Năm 1954, dân Hà-nội chỉ
đâu một
hai tuần là quá ớn phim ảnh xã hội chủ nghĩa. Trong tình trạng còn xập
xí xập
ngầu đó, cũng có thể do chủ trương của nhà nước, (thời gian 300 ngày tự
do của
Hải-phòng), một ông chủ rạp đã cho chiếu lại một phim cũ, thuộc loại vô
thưởng
vô phạt. Tôi còn nhớ, đó là một phim của Ý, về một vị nữ y tá, hình như
còn là
nữ tu, muốn rời bỏ tu viện, và bệnh viện, để đi theo bồ. Đúng lúc bà
rời bỏ,
thì những đoàn xe đưa binh sĩ bị thương tới bệnh viện. Và bà đã quyết
định ở
lại. Bữa đó, cả Hà-nội sắp hàng vô coi phim! Còn thằng bé thì sau đó,
tìm đủ
mọi cách xuống Hải-phòng, trước còn xem phim, rồi về, sau đi luôn!
Tây phương vẫy gọi
*
Nhân chuyện thơ Bùi Giáng, chưởng
KD mấy anh mấy chị Bắc Kít không làm sao đọc được, và, suy tư trăn trở
hoài
về vấn nạn này, Gấu ngộ ra chân lý. Đối với họ, văn chương là một
chuyện nghiêm
trọng, không phải chuyện đùa. Trong khi một trong những bí quyết viết
văn, là, “tôi
là kẻ nói dối luôn nói ra sự thực”.
Hay, như John Fowles, một tiểu
thuyết gia Hồng Mao, phán:
Nếu bạn
muốn thực với cuộc đời,
khởi sự nói dối về thực tại cuộc đời.
If you
want to be true to
life, start lying about the reality of it.
Hay,
vẫn ông này, bạn không thể miêu tả thực tại;
chỉ đưa ra những ẩn dụ, metaphors, và chúng chỉ ra, indicate, thực tại.
Tất cả
những kiểu cọ miêu tả (hình ảnh, toán học, và cái còn lại, cũng như là
văn chương)
đều có tính ẩn dụ. Ngay cả một miêu tả chi li nhất, xác thực nhất, có
tính khoa
học nhất, một sự vật, hay một khoảnh khắc, thì cũng là một mớ ẩn dụ.
Fowles,
một cách nào đó, là đệ
tử của Alain-Fournier, tác giả Le Grand Maulnes. Anh Môn Vĩ Đại, "Đại
Gia" Môn!
[Note:
Do quá mê sư phụ, Fowles bị bạn bè chọc quê, biến Le Grand Maulnes
thành 'The Great Moan': Tiếng Rên Rỉ Lớn!]
Chính là vì đám Bắc Kít quá
nghiêm trọng với văn chương, cho nên nó đã bị cả hai bên, nhà văn, nhà
nước lợi
dụng, và lạm dụng. Một ‘đặc sản Nam Bộ’ khó mà ngửi được câu thơ “Đường
ra trận
mùa này đẹp lắm”. Có thể, họ nghĩ, phải đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào,
nhưng vừa thôi
cha nội, đừng xúi con nít ăn cứt gà!. Bắc Kít, không chỉ ăn cứt gà, mà
còn
nhỏ máu tay viết đơn xin được ăn cứt gà! Cái sự nghiêm trọng thái quá
với văn
chuơng nó gây họa khủng khiếp là như vậy đấy!
Trong tập tiểu luận và những
bài viết tình cờ, Lỗ Giun, Wormholes, Fowles dành một bài thật trang
trọng về
Miền Đã Mất của sư phụ Alain-Fournier: The Lost Domain of
Alain-Fournier
(1986). Đọc bài viết Gấu ngộ ra, Fowles, Alain-Fournier, Bùi Giáng, và
Gấu, mỗi
người đều có một ‘lost domain’, và với Gấu, đó là BHD, và qua BHD, Hà
Nội của
tuổi thơ của Gấu. Bài viết thật tuyệt, Gấu cứ tính dịch ra hầu độc giả,
nhưng
do quá nghiêm trọng với cái gọi là Cái Ác Bắc Kít, giờ này, chán quá
rồi, bèn
loay hoay tìm cách trở lại miền đã mất của Gấu, trong khi chờ đợi BHD
ới một tiếng,
là đi!
*
Khủng khiếp nhất, là khi hết còn tin vào cái gọi là "Đường ra trận mùa
này đẹp lắm"! Bởi vậy cứ mỗi lần nghe mấy anh VC huyênh hoang là mỗi
lần Gấu nhột. Cái thê thảm, băng hoại, xuống hố bây giờ là do cái lẫm
liệt ngày nào mà ra. Càng ca bao nhiêu càng nhục bấy nhiêu. Sự thực rõ
ràng như ban ngày, mà hễ nói tới là đổ tội cho bọn Chống Cộng Điên
Cuồng. Quái thật. Bọn Chống Cộng Điên Cuồng chỉ Chống Cộng Điên Cuồng
từ
30 Tháng Tư, 1975. Chúng chống, đâu cho một Miền Nam đã mất, mà cho cả
một nước Việt Nam sẽ hồi sinh. Bởi vậy, khi nghe bà chủ sạp cá phán
trong Còn Lại Gì: “Nhận định
này không đồng nghĩa với việc chia sẻ
hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở
không ít
cộng đồng người Việt tị nạn. Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có thể
viết lại.”, Gấu cứ cười khùng khục. Đâu phải ngu, mà
tâm địa khốn nạn, mới phán như vậy.
Mới đây, Gấu đọc mấy anh VC
ca ngợi Võ tướng quân, về cái chuyện không "khứng" chiến thuật biển
người của Tầu Phù, vì ông rất thương bộ
đội Cụ Hồ, nên đã "cho pháo vô, lại kéo pháo ra", trong chiến dịch Điện
Biên, hay sau này, chống lại chiến thuật nướng anh em VC miệt vườn Miền
Nam của Lê Duẩn, nên mới thất sủng. Tuy nhiên, Võ ông đã từng trả lời
phóng viên Mẽo, "Twenty years,
maybe 100 years-as long as it took
to win, regardless of cost.": Hai
chục năm, 100 năm có thể, đánh đến thắng thì thôi, bất kể tổn thất.
Nhân loại, thế giới sợ tướng Võ là ở cái sự vô cảm, hết "nhạy cảm"
đó,
chứ đâu phải ở tài cầm quân? Gấu này lại nhớ đến câu trứ danh của Xì Ta
Lin: Cái chết
của một người, thì là một tai ương, thảm họa. Của triệu người, chỉ là
thống kê.
Giáp đâu có thua Xì?
But, as Ho's brilliant
commander, General Vo Nguyen Giap, told me
in Hanoi
in
1990, his principal concern had been victory. When I asked him how long
he
would have resisted the U.S.
onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100 years-as long as it
took
to win, regardless of cost." The human toll was horrendous. An
estimated 3
million North and South Vietnamese soldiers and civilians died.
STANLEY KARNOW
Cái gì
làm cho Miền Bắc tin
như bắp vào chân lý, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước,
xây dựng
cái nhà to tổ bố? Ngu si thất học, hay quá thông minh, ưu việt? Nhân
vật
nữ trong The Reader của Bernhard Schlink,
do mù chữ, không đọc được báo, nên hụt một việc làm tại nhà máy, và
được đi làm
quản giáo, và dâng hiến đời mình cho việc làm thịt Do Thái. Đa số Nazi đều là thành phần có học. Và với The Reader, đây là
một “tai nạn” của lịch sử tội ác Nazi. Chúng ta tự hỏi, liệu, cái sự
ngu si thất
học là nguyên nhân thắng trận? Những thành phần ưu việt đã xúi đám ngu
si dốt nát lao vào
chiến trường
Miền Nam?
Liệu có người nào làm một cuộc điều tra về chuyện này, như Mẽo đã từng
làm, và
cho thấy, đa số Mẽo tham chiến tại Việt Nam là da đen?
Trên tờ TLS số 2 Tháng Giêng
2009, có bài, Địa lý về sự mất mát, Geogaphies of loss, viết về những tiểu
thuyết mới ra lò của Đức, chúng đều nhắm vào sự hoài nhớ, và tội lỗi,
[Recent
German novels deal with nostalgia and guilt]. Chúng ta thì đều quá rành
về một
Miền Nam Mỹ Ngụy, nhưng còn Miền Bắc?
Tiểu thuyết gia Đức Uwe
Tellkamp, trong Cái Tháp, DER TURM, được giải thưởng 2008 German Book
Prize, đã đưa ra câu hỏi, Đông Đức là cái quái gì? (1), khi
viết về một dúm gia đình trí thức trưởng giả, đúng ra không thể có, tại
đây.
Mít
chúng ta đã biết về những anh nông dân Bắc Kít, như Cu Sài của Lê Lựu,
nhỏ máu ngón
tay viết
đơn tình
nguyện vô Nam chiến đấu, nhưng chưa hề biết về một Miền Bắc, khác?
Liệu có một
Miền Bắc,
khác?
(1) Hà Nội là cái quái gì?
TTT
Der Turm còn một
cái tiểu tít là: Chuyện về một xứ sở đã mất, Tale from a lost country. Chúng
ta, Mít, hình như cũng có một câu chuyện về một xứ sở đã mất, và chắc
chắn, không phải là Miền Nam !
Văn chương và siêu hình: Về
cuốn Linh Sơn
Tôi
nhận thấy, thứ ngôn ngữ
Trung Quốc Âu Châu hóa, không thể chịu nổi.
Thư giãn cuối tuần
Một
người làm trong ủy ban Kế
hoạch Hóa gia đình người Kinh công tác trên miền núi.
Gặp vợ
chồng A Pó mới 25
tuổi, nhưng đã có 6 đứa con.
Anh ta
chê: "Chúng mày kém, nghèo mà đẻ lắm. Chả bằng một góc người Kinh."
Bị chạm
tự ái, A Pó bảo
vợ: "Tao với mày tối nay phải đến
nhà thằng giáo viên người Kinh xem nó "ấy" vợ nó thế nào mà thằng
kia bảo mình không bằng một góc của nó".
Tối
đến, A Pó cùng vợ rình
nhà giáo viên người Kinh.
Nhà sàn
nên hơi cao, A Pó
không nhìn thấy gì bèn bảo vợ đứng lên trên lưng mình để xem.
Vài
phút sau, vợ A Pó trèo
xuống, mặt hơi đỏ.
A Pó
hỏi: "Thế nào? Mày
thấy gì không?"
Chị vợ
thèn thẹn lắc đầu: "Vợ chồng ông giáo 'ấy'
cũng thế.. Chả khác gì lúc mình ‘ấy’ tôi
cả".
A Pó
tức lắm, lầm bầm: "Thằng kia đã bảo khác
là khác. Để ông đứng trên vai mày ông xem".
5 phút
sau, A Pó trèo xuống
đất, mặt xanh mét, chân tay run lẩy bẩy.
Vợ lấy
làm lạ lắm, nhưng
không dám hỏi.
Trên
đường về, A Pó rỉ tai
vợ: "Thôi mình nghèo cũng được, đẻ
nhiều cũng được, chứ tao không bắt chước bọn người Kinh đâu. Chúng nó 'ấy' nhau xong... lột da "thằng
nhỏ" vứt vào sọt rác. Đau lắm,
tao chịu thua".
|