|
Đỉnh
cao chói lọi
Một trong những số báo dài hạn đầu tiên.
Tháng 10, 1996.
Gấu tới Xứ Tuyết, 11, 1994. Đúng
vào một bữa lạnh dưới 40 độ.
Xe đưa tới shelter, số 100
Lippincott, Toronto.
Sáng bữa hôm sau, mới sáng sớm, lặn lội trong tuyết, đi tìm tiệm phở,
khu
Spadina, kế ngay đó, nhưng chẳng tiệm nào mở cửa vào giờ đó. Về lại
shelter, đợi đến 8 giờ sáng, nhân viên văn
phòng mới
bấm cửa cho vô. Đến lúc đó mới hiểu được ra thì dễ, vô vô phương!
Rồi một hai văn hữu Làng Văn,
Hội Văn Bút địa phương ghé thăm.
Tiệm sách cũ, trên
đường College,
nằm ngay đầu đường Lippincott. Bao nhiêu năm vẫn thường đi qua con phố
cũ. Shelter
vẫn là shelter, nhà tạm trú dành cho những người mới tới, nhưng không
còn người
Việt tái định cư nữa.
Rồi
cô bạn cũ, đi cùng ông chồng ghé thăm. Cô tháo găng, bắt tay, tự nhiên
như người Hà Nội, nhưng anh cu Gấu ngày nào thì run như cầy sấy, thảm
thật. Ấy là vì Gấu nhớ lại lần đầu được cô cho phép cầm tay, nhờ thằng
em trai chết trận, nhờ đến lượt Gấu đi trình diện nhập ngũ. Gấu đã viết
về cái cú trời sập này, trong Cầm Dương Xanh.
Sau này, cô than, trời ơi là trời, sau bao nhiêu năm trời như thế, mà
"cảm tình" của anh dành cho tôi vẫn y hệt ngày nào.
Sắp đi rồi, mà Gấu vẫn bần thần, không hiểu "cảm tình", hay "tình cảm"
của Gấu, ngày nào đối với cô, vẫn như vậy?
Tiếng Việt sao mà khó quá, khổ quá, như thế!
&
Bài viết về Ilya Ehrenburg cho mục Tạp Ghi trên báo Văn Học của NMG, là
lấy từ số báo trên. Richard Pipes đọc cuốn Tangled Loyalties: Đời và thời của Ilya
Ehrenburg, của Joshua Rubenstein
Thời
gian của người
Đây là lúc
để thừa nhận -
để rú
lên, hay để gào khóc -
Ta đã
sống đời ta như một con chó...
Ilya
Ehrenburg
Cùng số báo trên, có
bài Một
người Algerian ở Paris, Edward Hughes
đọc Camus:
Une Vie,
của Olivier Todd,
trong có nhắc tới câu nói trứ danh của Camus, Tôi tin vào công lý,
nhưng tôi chọn
mẹ tôi thay vì công lý [Je crois à la justice, mais je défendrai ma
mère avant
la justice: Tôi tin vào công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công
lý]. Phải
nhìn lại cái thời của Camus vào lúc đó, thì mới thấy ông chơi một quái
chiêu,
khi đưa ra hai từ thật ngược ngạo, thật chỏi nhau: là mère/la justice.
Và độc giả
của ông sau này, đọc ông, là cũng trong tinh thần đó: Thảm kịch của
những chọn
lựa bất khả, the drama of impossible choices is something that readers
of Camus’s
fiction are very familiar with: Rambert trong Dịch Hạch bị bắt buộc phải
chọn lựa giữa tình yêu riêng tư của ông,
và những đòi hỏi của xã hội của một thành phố bị vây hãm bởi dịch hạch,
anh giáo làng bắt buộc phải làm ‘quản giáo’ trong Người Khách, trong cuốn Lưu Đầy
và Quê Nhà...
Giấc Mơ BHD
Và tôi nhớ ra rằng
thì là
Giorgio
Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta,
sẽ xẩy
ra một cái ngày, vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.
Cuộc Tình
Bỏ Đi
Phỏng
vấn PHT
Dọn
Tiếc gì một lời khen cho
nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương. Người ta nỗ lực để dìm chết tên
tuổi và những sáng tác của chúng tôi. Người ta không muốn chúng tôi
sống. Người ta từ chối sự hiện hữu của chúng tôi.
Cả một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời. Cả thế giới còn lại cũng xem
thơ văn
của chúng tôi như không. Ne pas. Ai muốn nhận tên nhận tuổi thì
hãy leo vô diễn
đàn tiếng Anh tiếng Pháp mà viết. Nam Le, Le Thi Diem Thuy, Linda Le
viết tiếng
Anh tiếng Pháp thì OK. Mấy cái tờ báo Mẽo và Tây còn điểm sách, mấy cái
đài thổ
tả như BBC, VOA còn nhắc đến. Rồi cù lần Việt cứ thế mà theo đuôi hô hò
theo.
Còn cái bọn gio-o này không
ai muốn nhìn nhận.
Lê Thị Huệ, gió-o
Tiếc gì một lời khen cho nhau
khi chúng tôi đã bị đuổi xua ra khỏi quê hương.
Cái trò áo thụng vái nhau,
hay ngược lại, ỉa vào miệng nhau, là chuyện thường ngày ở huyện, trong
giới cầm
bút, mắc mớ gì đến chuyện bị xua đuổi ra khỏi quê hương? Viết như thế,
thì đâu
cần gì đến tài năng? Cứ áo thụng vái nhau thôi. Vả chăng, hữu xạ tự
nhiên hương,
một khi viết như thế, là đã hơi bị yếu, là đã thú nhận, văn chương của
chúng
tôi thì cũng thường thường bậc trung mà thôi.
Được như vậy, theo tôi, là cũng tuyệt vời rồi, cớ sao than để VC...
cười cho.
Đọc, bỗng nhớ đến thái độ của nhà thơ Nga, Brodsky, thi sĩ chẳng bao
giờ là nạn nhân. Nhà văn, nhà thơ, bảnh ở chổ, đếch bao giờ cho thiên
hạ thấy nỗi đau của mình.
Vả chăng, nếu văn chương chỉ là chuyện áo thụng vái nhau, hoặc ị vào
miệng nhau, thì tốt hơn hết, đừng vái, đừng ị, hoặc, cần quá, thì làm
những công việc đó, ở chỗ khác.
*
Bác
ạ, dịch The Grapes of Wrath
thành "Chùm nho
phẫn uất/nộ" là sai phải không bác?
Đâu có sai, Tây mũi lõ dịch là Les
Raisins de la
colère, Chùm nho giận dữ, cũng ý đó. Thân, NQT
Cháu hỏi bác vì.... cái nhan đề Chùm
nho phẫn nộ này cũng bị cụ DT phẫn nộ, chửi toáng lên
không biết thằng nào dịch mà ngu thế...
Lí giải của bác DT thế này:
...là tên cuốn sách dịch từ The
Grapes of Wrath của John Steinbeck, in đi in
lại ở VN kg biết bao nhiêu lần rồi. Cụ DT nói đó là một thành ngữ
trong Kinh Thánh, mang nghĩa ẩn dụ...
...Steinbeck
had unusual
difficulty devising a title for his novel. The Grapes of Wrath , suggested by
his wife, Carol Steinbeck, was deemed more suitable than anything the
author
could come up with. The title is a reference to some lyrics from The Battle
Hymn of the Republic , by Julia Ward Howe:
Mine eyes have seen the glory of the coming of the Lord:
He is trampling out the vintage where the grapes of wrath are stored;
He hath loosed the fateful lightning of His terrible swift sword:
His truth is marching on.
These lyrics refer, in turn, to the biblical passage Revelation 14:19-20, an
apocalyptic appeal to divine justice and deliverance from oppression in
the
final judgment.
And the angel thrust in his sickle into the earth, and gathered the
vine of the
earth, and cast it into the great winepress of the wrath of God. And
the
winepress was trodden without the city, and blood came out of the
winepress,
even unto the horse bridles, by the space of a thousand and six hundred
furlongs. [Wikipedia]
Cháu đọc đi đọc lại, vẫn thấy chuyển dịch The Grapes of Wrath thành Chùm nho
phẫn nộ chẳng có gì là sai cả, như ông DT nói. Phải không bác?
Hay cứ phải cái kiểu Đại gia Gastby mới được, bác nhỉ?
Đúng như thế. Cứ phải dịch như
thế, rồi đi một đường tiểu chú. Cái tít Âm thanh và Cuồng nộ, mà không đi
một đường
tiểu chú thì bố ai mà hiểu được. Ở đây cũng vậy. Cái tít Light in August, của
Faulkner, the title of the book was inspired by the special light
that illuminates Mississippi in August, which seems to come from the
far
past. This underlines Faulkner's interest in the weight of history and
the
manner in which we relate to our pasts, [Wikipedia], nhưng theo như Gấu
này, đã đọc được ở đâu
đó, nó còn là một ‘phương ngữ’ có nghĩa là “đi đẻ, bể bầu”, câu chuyện
một cô gái
đi tìm thằng Sở Khanh, cha đứa trẻ sắp sinh của cô.
Nói chung, cái tít là khó nhá
nhất, chứng cớ nhãn tiền Đại gia
Thăng Long [TL].
Vũ Bằng, tuy nằm vùng, nhưng cũng đã từng chọc quê
nhà nước ta, về cái tít cuốn sách của ông, được Đảng o bế, kể câu
chuyện đám
cai thầu bóc lột công nhân, và đã từng được đưa vô finalist giải thưởng
Hội Nhà
Văn, khiến ông hoảng quá, bỏ chạy vô Nam, vì cuốn Cai của ông, chỉ có nghĩa
là cai thuốc phiện!
Văn chương và siêu hình: Về
cuốn Linh Sơn
May
1991, Stockholm (bài đọc tại Viện
Đông Á,
Đại học Stockholm).
Cao Hành Kiện
TQ là một nhóm ngôn ngữ rộng lớn trên thế giới hiện nay nếu tính đến
con số
những người nói thứ ngôn ngữ này, nhưng với một người sử dụng nó, người
đó có
được bao lăm tự do. Trước hết, đây là một vấn đề chính trị, rồi tới
những sức
ép xã hội, chúng gây tự chế ở nơi nhà văn, và sau hết, đây là một vấn
đề tự
thân của chính ngôn ngữ. Nhà văn đối đầu chỉ với ngôn ngữ, trong những
gì ông
viết ra, nhưng trước tiên người đó phải đụng [deal] tới không biết bao
nhiêu là
sức ép và tìm kiếm cách để vượt qua [transcend] chúng. Nhà văn viết
bằng tiếng
TQ thường xuyên chiến đấu một cách vô vọng với những gánh nặng cực kỳ
nặng này,
bởi vậy, tới khi ông phải đương đầu với nghệ thuật ngôn ngữ, thì đã mệt
nhoài,
hết hơi. Người ta có thể nói nhà văn TQ quả là có quá nhiều điều để mà
vật lộn
với chúng.
Vào năm 1981, tôi được một người bạn khuyến khích cho xuất bản một cuốn
sách
mỏng, về nghệ thuật ngôn ngữ, cho tầng lớp đông đảo độc giả, có tên là
Những
thám hiểm, khai phá sơ sơ về Nghệ thuật Giả tưởng Hiện đại, Preliminary
Explorations into the Art of Modern Fiction. Tôi nghĩ thật khó xuất
bản,
nhưng cứ thử mở ra một con đường cho nó. Tôi đã từng gửi một tuyển tập
truyện
ngắn tới năm nhà xb ở TQ, và sau cùng ở Hongkong, nhưng chẳng nơi nào
in.
Lạ làm sao, cuốn sách mỏng dính đó, chẳng mắc mớ gì đến chính trị lại
lôi kéo
thật nhiều bàn cãi, tranh luận, và nổ lớn mãi ra, về chủ nghĩa hiện đại
vs chủ
nghĩa hiện thực. Nó gây đủ vấn đề cho tôi và gây rắc rối cho rất nhiều
bạn của
tôi, và một số nhà văn lão làng tỏ ra quan tâm tới tôi như Ba Jin, Xia
Yan, Ye
Junjian, Yan Wenjing, và Dhong Dianpei. Tệ hại đến nỗi, Wang Meng,
người viết
một thư ngỏ cho tôi, trở thành mục tiêu tấn công. Thành thử có thể nói,
bàn về
nghệ thuật ngôn ngữ không dễ dàng, mà còn là quá khó khăn tại TQ.
Vào mùa xuân 1982, một biên tập viên của một nhà xb muốn biết liệu mọi
chuyện
có khác đi chút nào, và hoàn cảnh bây giờ chắc là khá hơn, và đề nghị
tôi viết
một cuốn tiểu thuyết, tôi bằng lòng với điều kiện không được cắt bỏ bất
cứ cái
gì. Linh Sơn đã được toan tính cho ra đời là như thế. Tôi cũng
phải nói
thêm, anh ta chẳng chút ất giáp cuốn tiểu thuyết của tôi sẽ như thế
nào, giản
dị là, anh tin tôi. Sau đó, anh đưa tôi chút tiền tạm ứng lấy từ nhà
xb, khi
tôi nói, tôi tính làm một chuyến giang hồ vặt: vào lúc đó, chiến dịch
phạng tôi
đã bắt đầu được tiến hành. Và trong tình hình như vậy, chỉ nội cấu trúc
cuốn
sách không thôi, cũng khó mà in ra được, nhưng lỡ lấy tí tiền còm rồi,
tôi
tính, khi nào có dịp thì cứ đưa cho anh ta mớ bản thảo, thì cũng đặng.
Vậy là
thoát gánh nặng tâm lý.
Vào tháng Chín, 1989, tôi hoàn tất mớ bản thảo tại Paris. Tuy nhiên sự kiện
Thiên An Môn còn nóng hổi, ngay cả chuyện gửi bản thảo cho nhà xb cũng
hơi bị
nguy hiểm không cần thiết cho họ, thế nào tôi quyết định không gửi đi.
Cái sự viết ra được cuốn
sách, ấy là nhờ cái sự cấm trình diễn vở kịch Bus Stop, Trạm ngừng xe
buýt, mà
có được. Nếu chỉ một hài kịch về cuộc đời như vậy [this lyrical comedy
on
life], mà bị coi là một vấn đề chính trị, và bị đưa ra đấu tố trong
chiến dịch
làm trong sạch sự ô nhiễm tinh thần, thì hẳn nhiên, cuốn tiểu thuyết
này sẽ
phạm vào một tội ác nghiêm trọng. Thế là, tôi tự cởi trói cho mình, ra
khỏi xã
hội, nhân dân, đạo đức, và ngay cả cái được gọi là trách nhiệm của nhà
văn, và
tội tổ tông, và cứ thế thoải mái viết, đối mặt với chỉ một, là, tiếng
mẹ đẻ của
tôi, ngôn ngữ Trung Quốc, như nó được trường tồn cho tới bây giờ.
Theo cái nhìn của tôi, thì trách
nhiệm độc nhất của một nhà văn là với ngôn ngữ mà người đó viết. Anh ta
có thể
tái tạo, reform, những sự sáng tạo của anh ta, his creations, nhiều
chừng nào
như anh ta muốn chừng đó, nói hoài hoài, vô tận, viết về không cái gì,
write
about nothing, và chơi đùa, play, với ngôn ngữ, nhưng anh ta phải tôn
trọng,
respect, những luật lệ nội tại của ngôn ngữ, nếu không sẽ chẳng có nghệ
thuật của
ngôn ngữ.
Thời kỳ vận động ngôn
ngữ địa phương 4 Tháng Năm, ngôn ngữ Trung Quốc cổ xưa trải qua một
kinh nghiệm
tái sinh, rebirth, nhờ đó tăng thêm khả năng diễn tả những cảm nghĩ của
con người
hiện đại. Ở một mức độ rộng lớn, sở dĩ được như vậy, là một số nhà văn
nổi tiếng
trong lịch sử Trung Quốc hiện đại. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông, mặc dù
chính ông là
một văn gia, a stylist, sau đó, đã khiến ngôn ngữ Trung Quốc lâm vào
tình trạng
hãi hùng, trong một thời gian dài ông trị vì. Tôi tin tưởng rằng, điều
mà những
tác giả viết bằng tiếng Trung Quốc bây giờ, có thể cùng nhau làm, để
thêm thắt
vào những thành quả cá nhân và những tư tưởng, ý nghĩ của họ, là khai
triển tiềm
năng của ngôn ngữ, nhờ vậy mà nó có thể diễn đạt đầy đủ những cảm nghĩ
của dân chúng, con
người hiện đại. Đây là nhân tố căn bản, dựa trên đó mà tôi viết Linh
Sơn: tôi
muốn chứng minh, rằng còn có chỗ, còn không gian, trong ngôn ngữ, cho
sự sáng tạo
lớn lao hơn.
Tôi
nhận thấy, thứ ngôn ngữ
Trung Quốc Âu Châu hóa, không thể chịu nổi.
|