|
Thu 2014
Thu 2014

Chạng vạng, Thu
Thu, mưa, tuyết đầu mùa, vườn sau nhà, sáng thứ bẩy, 1.11.2014
28.10.2014
Thu Renaissance
Thu sau nhà
Thu 2014
World Fall 2014
Poems March
3, 2008 Issue
A Single
Autumn
By W. S.
Merwin
The year
my
parents died
one that summer one that fall
three months and three days
apart
I moved into the house
where they had lived their last
years
it had never been theirs
and was still theirs in that way
for a while
echoes in every room
without a sound
all the things that we
had never been able to say
I could not remember
doll collection
in a china cabinet
plates stacked on shelves
lace on drop-leaf tables
a dried branch of bittersweet
before a hall mirror
were all planning to wait
the glass doors of the house
remained closed
the days had turned cold
and out in the tall hickories
the blaze of autumn had begun
on its own
I could do anything
Thu 2014
NOVEMBER 8 [1998]
A Canadian
Poet: Roo Borson
The Toronto
poet Roo Borson was born in California but has lived her adult life in
Canada
and publishes her books there. They are not easily available in
American
bookstores, though she's become one of the best-known Canadian poets of
her
generation. She's a clear writer, clear-minded with a dark and musical
imagination. I look forward to each of her books. Her latest, Intent, or The Weight of the World, is
published by McClelland
and Stewart in Toronto. Ask your local bookstore to order it.
Autumn
One night
goes on longer than the rest, never so long,
whiled away. Then dawn.
Goodbye,
insects. Hollow casings on the windowsill,
a dainty leg
among the spice jars.
Goodbye,
marigolds, the earth will not wait for you.
Trains hurtle by at the edge of
cities,
the taste of bourbon, a mouthful of leaves.
Above
everyone's dining-table a chandelier burns.
Now the
luxurious old wine can be uncorked,
the slicing
of meat and bread, uncorked,
and in the
black panes life goes.
And here's
one, a quick notation for the end of daylight savings:
2A.M.
2 A.M., and
the clocks have been turned
one hour
backwards. Summer's gone,
like rage or
pleasure, the
possum we
caught rolling,
drunk on
garbage,
over the
fence one morning,
and now the
rain:
a glimpse,
sometimes,
as of a
second chance-
not fully
fallen into sleep,
to be
awakened.
Robert Hass: Now
& Then
Lê Minh Hà & Thảo Trần
[Đức quốc, cuối thế kỷ,
1999]
Sent by Gấu Cái!
Sáng Thứ Bảy, cà phe Quán
Chùa, trở về nhà, Oct 4 2014
LaPham's Time
Pablo Neruda
Spanish
1904-1973
AUTUMN
RETURNS
A day
dressed in mourning falls from the bells
like a
fluttering veil of a roving widow,
it is a
color, a dream
of cherries
sunk in the earth,
a tail of
smoke restlessly arriving
to change
the color of water and of kisses.
I am not
sure that it understands me: when night
approaches
from the heights, when the solitary poet
at his
window hears the galloping horse of autumn
and the
trampled leaves of fear rustle in his arteries,
there is
something over the sky, like the tongue of an ox,
thick,
something uncertain in the sky and the atmosphere.
Things
return to their place,
the
indispensable lawyer, the hands, the oil,
the bottles
all the
signs of life: the beds, above all,
are filled
with a bloody liquid,
the people
deposit their secrets in sordid ears,
the
assassins come down stairs,
but it's not
that, but the old gallop,
the horse of
old autumn, which trembles and endures.
The horse of
old autumn has a red beard
and the
froth of fear covers his cheeks
and the air
that follows him is shaped like an ocean
and smells
of vague buried decay.
Every day a
color like ashes drops from the sky;
the doves
must divide it for the earth:
the rope
which is woven by oblivion and tears,
time which
has slept long years in the bells,
everything,
the worn-out
clothes, the women watching the snow fall,
the black
poppies that no one can look at without dying,
everything
falls into the hands that I raise
into the
midst of the rain.
1959
W.S Merwin: Translations
Ancient
Autumn
Is that
foolish youth still sawing
The good
branch he's sitting on?
Do the hills
wheeze like old men
And the few
remaining apples sway?
Can he see
the village in the valley
The way a
chicken hawk would?
Already
smoke rises over the roofs,
The days are
getting short and chilly.
Even he must
rest from time to time,
So he's lit
a long-stemmed pipe
To watch a
chimneysweep at work
And a woman
pin diapers on the line
And then
step behind some bushes,
Hike her
skirt so her bare ass shows
While on the
common humpbacked men
Roll a
barrel of hard cider or beer,
And still
beyond, past grazing cattle,
Children
play soldier and march in step.
He thinks,
if the wind changes direction,
He'll hear
them shouting commands,
But it
doesn't, so the black horseman
On the
cobbled road remains inaudible.
One instant
he's coming his way,
In the next
he appears to be leaving in a hurry ...
It's such
scenes with their air of menace,
That make
him muddled in the head.
He's not
even aware that he has resumed sawing,
That the big
red sun is about to set.
Charles
Simic
Thu Cũ
Liệu cái tuổi
trẻ khùng điên ba trợn vưỡn kưa kưa
Cái cành cây
bảnh nhất anh đang ngồi?
Những ngọn đồi
vưỡn khò khè như những ông già
Và mấy cây
táo còn lại, vưỡn “nắc nư”?
Liệu anh có
thể nhìn ngôi làng ở bên dưới thung lũng
Vưỡn cái
nhìn của con chim ưng thèm gà con?
Khói đã bốc
lên từ những mái nhà
Ngày mới ngắn
và lạnh làm sao
Ngay cả như
thế thì anh vưỡn thèm ngồi lại
Thì cũng phải
nghỉ ngơi, lúc này lúc nọ
Và thế là anh
lấy cái tẩu dài thòng ra
Và đốt thuốc
Trong khi
nhìn một tay thông ống khói làm việc
Và 1 người
đàn bà treo mấy cái tã con nít lên sợi dây
Và rồi lui lại,
sau mấy bụi cây
Kéo cái váy
lên, phô cái chảo trắng ngần ra
Trong khi ở chỗ
công cộng những người đàn ông gù
Vần 1 cái thùng
tô nô rượu táo, thứ nặng đô, hay là bia
Và vẫn quá,
quá bầy trâu bò gặm cỏ
Lũ con nít chơi
trò lính tráng, xếp hàng diễn hành
Anh nghĩ, nếu
ngọn gió đổi chiều
Thì có thể
nghe chúng hô, Bác Hồ muôn năm, một, hai, một, hai
Nhưng gió không
làm cái chuyện bậy bạ như thế
Và thế là người
kỵ sĩ đen
Trên con lộ
sỏi
Không làm sao
nghe được
Trong 1 thoáng,
người kỵ sĩ đi theo con đường của anh ta
Trong thoáng
kế, anh ta có vẻ bỏ đi trong vội vã
Những xen như
thế thật đe dọa
Khiến cho
anh mụ cái đầu
Anh cũng chẳng
nhận ra là mình lại tiếp tục kưa kưa
Và cái ông mặt
trời đỏ bự thì đang tính đi ngủ.
Robert Hass
SEPTEMBER 19
Rainer Maria Rilke: Herbsttag
Rainer Maria Rilke is one
of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most
popular. He's been translated again and again, as if some ideal English
version of his German poems haunted so many minds that writers have had
to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some
translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on
September 21, 1902.
Rilke là 1 trong những nhà
thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch
đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều
cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho
mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.
Ngày Thu
Chúa ơi: Đúng là lúc này
rồi. Hè mới bao la làm sao
Hãy trải cái bóng của mi xuống sundials
Và cho gió tung tăng trên cánh đồng.
Hãy biểu những trái cây
sau cùng, hãy chín mọng, cho kịp những chầu rượu;
Cho chúng thêm hai ngày hè
Để có được cái tuyệt hảo - như da thịt ngọt ngào của em - trộn hơi rượu
nồng
Kẻ nào đếch có nhà lúc
này, thì đếch cần dựng nhà nữa
Kẻ nào sống mình ên, thì xin cứ tiếp tục sống một mình
Vươn vai đứng dậy, đọc, viết những lá thư dài, cho Hải Âu, thí dụ vậy
Lang thang, lên xuống, những con phố
Đếch thèm nghỉ ngơi cái con mẹ gì, giữa lá bay đầy trời, trong gió loạn.
THE FIRST ELEGY
Who, if I cried out, would hear me among the
Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.
Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những
Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả
nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong
hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là
gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu
đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy
diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng
sợ.
Với tôi người sở hữu
hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng
trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp
hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở
đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống
động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi
chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc
tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm
với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố
hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái
giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies,
bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững
trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó
thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ
xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao
cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi
nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ
của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị
Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro
than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của
mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn
nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức
của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra
từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước
khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm
thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.
Adam Zagajewski
Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ
về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra
- Bếp Lửa, khi cuốn sách được
nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão,
nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp
Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu
đã viết như thế, về Bếp Lửa,
từ năm 1972
Giả
như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá
tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn
còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?
Một nền văn học bảnh tỏng như thế, mà có thằng ngu gọi nó là... bất
hạnh!
Do the hills
wheeze like old men
Những ngọn đồi
vưỡn khò khè như những ông già
Đọc, bật ra câu thơ của TTT:
Những rừng gió kể chuyện bể khơi
Của Duy Thanh
Những rừng gió kể chuyện bể khơi
trời của mây của mùa thu
những chuyến đi xa không hành lý
hành trình tới Paris
suốt đời người
không muốn nhớ tiếng thì thào thăm hỏi
móng tay níu chặt hơi sương khói
ai thổi cơm chiều hay thiêu huỷ tâm tình
hồn tôi đứng thành tượng
mình trần
không bắp thịt
trận bão cơn điên xô ngã
ấy mùa đông
và một phiến đá xanh
TTT
Thơ
Mỗi Ngày
In Its Own
Sweet Time
That one
remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow,
The one they
roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours
While
pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.
Charles
Simic
LRB [London
Review of Books] May 9 2013
Trong thời gian ngọt
ngào của riêng nó
Cái lá còn lại,
lâu lâu khẽ run 1 phát
Từ cái cây
trần-trụi-thùi-lụi
Suốt mùa đông
dài
Là Gấu đấy
Gió đếch làm
sao làm rụng được, ít ra là vào lúc này
Thằng chả ngồi
xe lăn
Được đẩy ra
công viên
Nhìn lũ trẻ
nô đùa
Mẹ của chúng
thì buôn chuyện tối ngày
Về lối xóm
của họ
Khi bồ câu xếp
hàng
Chờ tới lượt
xà xuống
Hay cất cánh
từ một cái xe tang mới tới
Đậu ngay đằng
trước nhà thờ giáo khu
Cũng lết lết
cái nhìn, từ con mắt lé của nó
Như lũ chim.
Jennifer @ Paris
Ancient
Autumn
Is that
foolish youth still sawing
The good
branch he's sitting on?
Do the hills
wheeze like old men
And the few
remaining apples sway?
Can he see
the village in the valley
The way a
chicken hawk would?
Already
smoke rises over the roofs,
The days are
getting short and chilly.
Even he must
rest from time to time,
So he's lit
a long-stemmed pipe
To watch a
chimneysweep at work
And a woman
pin diapers on the line
And then
step behind some bushes,
Hike her
skirt so her bare ass shows
While on the
common humpbacked men
Roll a
barrel of hard cider or beer,
And still
beyond, past grazing cattle,
Children
play soldier and march in step.
He thinks,
if the wind changes direction,
He'll hear
them shouting commands,
But it
doesn't, so the black horseman
On the
cobbled road remains inaudible.
One instant
he's coming his way,
In the next
he appears to be leaving in a hurry ...
It's such
scenes with their air of menace,
That make
him muddled in the head.
He's not
even aware that he has resumed sawing,
That the big
red sun is about to set.
Charles
Simic
@ Wasaga
Beach
Lạc hà
dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất
sắc
Ráng
chiều rớt xuống cùng vào
lúc cánh cò đơn chiếc bay lên
Mặt nước hồ và trời dài thăm
thẳm cùng một mầu
Comme la vie
est lente
Et comme
l'Espérance est violente (1)
How
violently flowers fade.
How awfully slow life is.
Lá thu
vàng
mới hung bạo làm sao
Đời lừng
khừng mới chán chường thế nào!
Robert
Melancon
French,
born 1947
AUGUST
I wander
beneath the serenity
of the moon
as it withdraws
its stars
from the night. A shadow
goes with me
in which I do not
know myself.
Only these trees
nearest to
me, the grass, the washed darkness
exist. A cry
of a night
jar, the murmur of leaves.
Summer
consents absently to the night.
BLIND
PAINTER [XI]
January can
give this grove
the
appearance of a colonnade.
The fall of
the leaves creates
a felicitous
labyrinth, an architecture
to which
only the light comes.
But you
should not linger
in this
metaphorical palace
old as
language. Here are trees
all waiting
to be named.
None looks
like any other.
They will
not consent to be reduced
To the mere
concept of a forest
THE LOVER
[IX]
As long as
the snow lights the winter
as long as
the day alternates
with the
night that pursues and flees it
as long as
the streets fill with sounds
and as long
as the Saint Lawrence flows between
its banks
without waiting for anything
with
Montreal passing upside down in
its mists I
will be yours.
But we will
pass like the snow
like the
light and the darkness
with this
city and its river
which will
flow long after us
as though we
had never been.
1990s
Translated
by
W.S. Merwin
Thu 2014

Granta 125,
Fall, 2013
How long is
the shadow of a battle, an explosion, a revolution? What stories arise
in the
wake of devastation? Lindsey Hilsum returns to Rwanda two decades after
witnessing the beginning of genocide. Patrick French writes of his
great-uncle,
a World War I hero who left behind a 'saturating cult of remembrance'.
From air
raid drills in Paul Auster's America to a calf with a broken foot in
Herta
Muller's Rumania, this is how we live after the war.
PAUL AUSTER
• JEAN-PAUL DE DADELSEN • AMINATTA FORNA PATRICK FRENCH • ROMESH
GUNESEKERA •
LINDSEY HILSUM A.L. KENNEDY • HARI KUNZRU • YIYUN LI • THOMAS MCGUANE
ANGE
MLINKO • HERTA MULLER • ROWAN RICARDO PHILLIPS
With
photography by DAVE HEATH
JUSTIN JIN
Granta Mùa Thu, năm ngoái, 2013.
GCC nhớ là, khi lật vài trang đọc, thì
bèn nghĩ đến sau cuộc chiến Mít, không biết có
“một” tên nhà văn
Bắc Kít nào, viết
về 1 gia đình Ngụy?
Hình như không.
Chán thế.
Bi giờ viết vưỡn còn kịp!
Hà, hà!
How long is the shadow....
Simenon
trả lời tờ Le Magazine Littéraire, vào
năm 1975, được đăng lại trong số đặc biệt
về ông, Tháng Hai 2003
Tất cả cuộc hành trình ký giả, văn sĩ... của Simenon, là để truy tìm
con người
trần trụi, l’homme nu.
"Ngay từ khi 14, 15 tuổi, tôi đã tò mò về con người ta, và sự khác biệt
giữa
một người ăn mặc quần áo, và một kẻ trần trụi."
Do muốn trình ra con người trần trụi mà ông viết bài "Phi Châu nói. Đây
Phi Châu nói với bạn. Nó nói Đ.M. Cứt. Mẹc Xà Lù, Đồ Bú Dù".
[L'Afrique qui parle. "L'Afrique vous parle, elle vous
dit merde"].
Vì bài viết, ông bị tịch thu thông hành, cấm không cho tới Phi Châu.
Đối với
Simenon, chủ nghĩa thực dân thuộc địa đụng tới phẩm giá của con người. (1)
Thu 2014
L'adieu
Apollinaire
(1880-1918)
J'ai cueilli
ce brin de bruyère
L'automne
est morte souviens-t'en
Nous ne
nous
verrons plus sur terre
Odeur du
temps brin de bruyère
Et
souviens-toi que je t'attends
The
Farewell
I picked this fragile sprig
of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together
Translated from the French by Roger Shattuck
Thời Tưởng Niệm
[Time of Grief]
Comme la vie
est lente
Et comme
l'Espérance est violente (1)
How
violently flowers fade.
How awfully slow life is.
Lá thu vàng
mới hung bạo làm sao
Đời lừng
khừng mới chán chường thế nào!
Thu San
Jose
by VBT.
Tks. NQT
Mùa thu chết ; Nhìn những mùa thu đi ( Hoài Hương)
Tình nhớ ; Tình sầu (
Hoài Hương)

LUXEMBOURG
GARDENS
Parisian
apartment houses fear neither wind nor
imagination-
they're
solid paperweights,
the
antithesis of dreaming.
White boats
race the river, packed with crowds
demanding
greetings from the shore-bound;
their
champagne mood liquidates the past.
A pair of
wealthy tourists emerges from a cab
in gleaming
outfits; waiters serve them
wearing
frock coats whose cut is untouched by fashion.
But the
Luxembourg Gardens grow empty now,
and become a
vast, quiet herbarium;
they don't
recall all those who once
strolled
their avenues, who haven't noticed that they're dead.
Mickiewicz
lived here, and over there August Strindberg
sought the
philosopher's stone
he never
found.
Dusk falls.
Sober night approaches from the east,
taciturn and
troubled.
Night comes
from Asia, and asks no questions.
Foreignness
is splendid, a cold pleasure.
Yellow
lights illuminate the windows on the Seine
(there's the
real mystery: the life of others).
I know-the
city no longer holds secrets.
But there
are plane trees, squares, cafes, friendly streets,
and the
bright gaze of clouds that slowly dies.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Vườn Lục Xâm
Bảo
Những căn nhà
chia thành hộ ở Paris thì không sợ gió cũng như là sự tưởng tượng –
Chúng làm bằng
1 thứ giấy dày, cứng, nặng.
Phản đề của
mộng mị
Những con
thuyền trắng chạy đua trên sông, đám đông đầy trên thuyền
Đòi đám đứng
bên bờ bãi chào mừng, cổ võ;
Vị sâm banh
làm thịt quá khứ
Một cặp du
khách phọt ra từ tắc xi
Mặt mày, quần
áo, bộ dạng sáng sủa; đám bồi,
trong những chiếc áo choàng không hề bị
thời trang
làm thay đổi,
hầu họ.
Nhưng Vườn
LXB bây giờ ngày càng trống trơn
Và trở thành
một phòng trồng cây, rộng lớn, im ắng
Chúng chẳng
hề nhớ những người mà đã có lần thong thả đếm những đại lộ của chúng
Những con
người chẳng hề để ý, chúng đã chết
Mickiewicz
đã
sống ở đó,
và ở chỗ kia kìa, August Strindberg đã từng tìm hòn đá triết
gia
Nhưng
đếch làm
sao kiếm thấy!
Chạng vạng rớt
xuống. Đêm khiêm tốn tới gần, từ Phương Đông, lầm lì, và bối rối.
Đêm tới từ Á
Châu, không tra hỏi.
Cái tính ngoại
thì thật là tuyệt vời, một lạc thú lạnh.
Ánh sáng màu
vàng chiếu sáng những khung cửa sổ trên sông Seine.
(niềm bí
ẩn thực: cuộc sống của những người khác).
Tôi biết –
thành phố chẳng còn giữ những bí ẩn.
Nhưng có những
cây bào, những quảng trường, quán cà phê, những con phố bạn bè,
và cái nhìn sáng
ngời của những đám mây,
chầm chậm chết.
Robert Hass
SEPTEMBER 19
Rainer Maria
Rilke: Herbsttag
Rainer Maria
Rilke is one of the great poets of the twentieth century. He's also
one of the most popular. He's been translated again and again, as if
some ideal
English version of his German poems haunted so many minds that writers
have had
to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some
translations of
a poem about the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.
Autumn Day
Rilke là
1
trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông.
Ông được
dịch đi dịc
|
|