Sắp
tới ngày mất của ông anh nhà thơ, 22 Tháng Ba,
2006. Thấy mấy đấng bạn quí của ông tưởng niệm ông, thằng
em đành đứng né qua 1 bên. Để dịp khác, ngày
khác, viết cũng được.
Và, thay vì vì, thì đi 1 đường tưởng niệm
Roland Barthes.
Tụi Tẩy đang ì xèo tưởng niệm 100 năm năm ông
ra đời.
Face à face sur le plateau
d' « Apostrophes », le 30 mars 1979, Anthony Burgess et Gunter
Grass (au premier plan), Alberto Moravia et Bernard Pivot.
Nhìn
cái hình những nhà văn nhớn xuất hiện trên
chương trình văn học “Apostrophes” của Pivot, trên TV Tẩy,
thì lại nhớ, đọc đâu đó, cái vụ "em" TK gọi
điện thoại TTT, xin nói chuyện, và chắc là cũng có
ý phỏng vấn phỏng viếc gì đó, cho đài phát
thanh Tẩy, ông đếch thèm trả lời. Nghe nói, em quê
quá, gần như phát điên, hà, hà!
GCC
cũng bị 1 lần như vậy!
Lần
đó, NDN từ Montreal xuống, bàn chuyện làm nhà
xb, GCC xăng xái, để xin ý kiến, và có thể,
xin bài, xin sách TTT.
Gọi, gặp bà xã, chị Mai Hoa. Chị vui vẻ nói,
anh ra ngoài, mua tờ báo, chú chờ anh về, gọi lại.
Chờ, gọi, phôn reo, không ai trả lời.
Bữa hôm sau, GCC phôn, xin gặp ông anh, ông
bực quá, phán, không được cho bất cứ ai, số điện thoại
của tao nhe!
Rồi
lần bị ông em TTT, bạn C. ra lệnh, cấm không được viết, ba
thứ kỷ niệm về TTT nữa!
GCC có rất nhiều kỷ niệm thú vị về ông anh, và
những kỷ niệm này, nếu gặp tay giỏi, có thể lần ra sợi dây
liên lạc giữa con người và tác phẩm, qua đó,
nhưng lần đó, do ông anh mới mất, khi viết, GCC không
đủ bình tĩnh, để lọt một số chi tiết quá riêng tư,
đúng ra không được viết ra.
Nhân
đây, xin lỗi bạn C. và gia đình.
NQT
V/v
R. Barthes. Trên Blog Đồng Nhơn, có post 1 bài về
ông.
Barthes
có 1 cuốn GCC thú lắm, trong những cuốn thú lắm,
viết về sử gia Tẩy: Michelet. Tuyệt cú mèo. Không
biết ông bạn Tạ Chí Đại Trường đã từng đọc? Nghe nói
anh bị bịnh, và bị 1 ông bạn VC loan báo ngỏm! Xin
chia buồn, về đấng bạn quí, và cầu mong chóng mạnh,
lành. NQT
Viết
Tôi là kẻ may mắn
sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà văn
nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì
tôi có thể?
Đây là vấn nạn
của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài viết trên
Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra trình chiếu ở
Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì
nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù,
và luôn cả trại tù VC kể như không có!
Đâu có phải tự
nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít
quí trọng, ngay cả VC cũng quí, có thể còn hơn
cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1
lần nữa Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng
bao giờ xẩy ra nữa!
Nhân
cái vụ Hà Nội chặt cây, GCC lại nhớ đến lần Gấu về
lại làng cũ.
Khi
Gấu bỏ chạy vô Nam, mỗi lần nhớ làng cũ, thì hình
ảnh đầu tiên bò về, là những rặng tre xanh.
Về, không còn 1 cây. Ba cái ao nhỏ trong
làng cũng mất tiêu. Nhìn 1 phát, là tới
liền khu nhà có nhà thờ tổ họ Nguyễn, mà theo
như trí nhớ, trí tưởng tượng, và thực tế, những ngày
còn nhỏ, nó ở giữa 1 khu đồng chiêm, mãi tít
bờ biên của làng!
Ui chao, bữa đó, lúc đó, là giữa trưa,
nắng chang chang, chói loà con mắt, và khủng khiếp
thay, G bèn nhớ đến cái lần vô xóm, ở Xề Gòn,
gặp 1 em bạch bản.
Đèn đuốc sáng chưng, em phơi bướm, trắng toát
1 cõi, trên giường, y chang bữa về làng cũ!
Thê thảm thực!
Nhà thờ tổ họ Nguyễn là nơi, mỗi năm cử hành
lễ lớn của họ.
Bởi thế, bà nội Gấu mới bảo thằng cháu, ăn no, chóng
lớn, đến 15 tuổi là mày có phần thịt đấy, cháu
ạ!
Ba
Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm 78 ở Lào
Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết
tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái
đã về quê ngoại sống, không còn
ở Sài Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc
hôn thụy.
Bài Nhớ Thi Sĩ
viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi
nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong
những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời
thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền:
Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng
niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân
1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc
trong nhà giam
Anh nhớ những câu
thơ viết thời trẻ
Bừng cháy
trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh
mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức
mù tối
Trễ muộn mùa xuân
trên miền cao
Đang lay thức rừng núi
biên giới
Đã qua đã
qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô
hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon
von mê hoặc
đầu óc quái
gở
Từng thiêu đốt anh
trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn
đau
Từ bao giờ anh đứng trân
trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo
hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo
nguồn
chốn bình minh lẩn
lút
(Bình minh bình
minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa
Mai về
tình thơ hôm
nay)
Em, em có hay kẻ
tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô
hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày
khốn đốn
Em, soi bóng em
hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm
lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ
Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác
giả:
Già Ung: Giuseppe
Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.
SN_GCC_2017
Hoàng Ngọc
Hiến
Lời dẫn: Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện
của tôi, được trích từ một bài viết về Văn Học
Việt
Nam
tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến, nhà phê
bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà Nội.
Tôi
chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng
Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép trích
đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép tác
giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt Báo
Online đã đăng bài phê bình này trong
nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn
văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30
tháng 7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích
trang net của Song Thao].
Gấu là thằng liều cùng mình, về Hà
Nội, khi chưa tên nào dám về, đem bài viết
ra hải ngoại, type, post trên VHNT của PCL, cùng lúc,
trên Việt Báo online. HNH chẳng hề biết gì về chuyện
này.
Tên khốn này, cũng dân Canada, biết GCC,
biết trang Tin Văn, Gấu quen cả băng, và đã từng làm
MC quảng cáo sách của chúng. Nhưng hắn vờ hết,
chỉ cám ơn HNH, nhưng sợ lũ Khiến Chán, thanh minh thanh
nga, tôi không quen ông ta!
Sến, lần đăng bài của Gấu, viết về Joseph Huỳnh Văn,
cũng từ nguồn Việt Báo online, cũng không hề nhắc tới trang
Tin Văn.
Trường hợp nào thì cũng do não bị thiến
1 mẩu, đúng mẩu có tí can đảm, tí đạo hạnh.
Sến, thì còn do ngạo mạn.
Tên số 2 Trùm bộ lạc Cờ Lăng, cũng dân Canada,
được Canada cho cơ may lại làm người, nhờ có bà con,
thân nhân bảo lãnh, chưa từng ở Trại Tị Nạn nên
chưa biết cái sợ bị trả về xứ Mít, có thể vì
thế, chúng chưa từng nói 1 lời cảm ơn cái xứ sở đã
chấp nhận chúng, và, có thể là vì Mẽo
mới là thiên đường của lũ này, thế là tìm
đủ cách qua Mẽo sống, và, như thế là được Trời cho
đủ hết, trừ 1 câu thơ, thế là bèn thuổng.
Bạn thử chỉ cho Gấu, 1 tên, chỉ 1 tên thôi, trong
đám Mít lưu vong, cầm bút, có chút
bản lãnh, tiết tháo, hay đạo hạnh?
Lần
về HN lần đầu, 2001, DMT đèo xe máy đưa G tới gặp HNH,
tại tư gia, đúng thời gian HNH bị tố ngụy tạo tài liệu,
bởi vậy, khi bà vợ ông mang nước trà ra đãi
khách, đã hỏi khéo, hải ngoại có còn
chửi ông chồng tôi nữa không.
Bà lầm G với ông cớm văn nghệ, vì nghĩ hải ngoại
bé tí, không nó, thì là bạn của
nó!
G nhớ là, HNH mặt một đống, lấy tay xua bà vợ, ra
ý thôi đi chỗ khác, U Tha Cho Mi [Bà tha cho
tôi, thưa bà!].
Nhìn vẻ mặt của HNH lúc đưa bài viết, thì
rõ ra là, ông muốn G đi một đường giới thiệu.
Phải nói rõ ra như vậy, vì sau đó, bài
này được đăng trên talawas, và khi G mail hỏi, có
gì khác so với bài trên TV, thì SCN
mail trả lời, HNH cho biết, chưa cho phép ai đăng bài này
hết.
Khi trả lời như thế, là SCN muốn chỉ ra tôn chỉ của
talawas, không đăng bài đã đăng rồi, trên các
diễn đàn khác. Ðồng thời tố cáo G ngụy tạo tài
liệu!
Bắc Kít nhiều đòn lắm, phải 1 thằng Bắc Kít
khốn nạn cỡ G thì mới hiểu được lòng dạ của chúng!
Chứng cớ, sau đó, HNH từ chối không cho phép
talawas đăng bài phỏng vấn ông.
Là vì ông bắt buộc phải từ chối, nếu xin phép
ông!
Vụ này, G có giải thích trên TV rồi,
để coi lại coi trong bài viết nào.
Vì vậy, khi trở về Canada, Gấu đã mất công gõ
bài viết, cho đăng cùng 1 lúc trên trang Tin
Văn, và trên tờ Việt Báo online. Mấy anh nhà
văn Mít hải ngoại thấy đại giáo sư VC nhắc đến mình,
sướng điên lên, bèn trích lại, đăng búa
xua trên trang nhà, nhưng lại rét, vì thời gian
đó, chính G cũng bị đám Chống Cộng Ðiên
Cuồng dọa xin tí huyết [nói đùa cho dzui thôi],
thế là bèn đăng thì đăng, nhưng chú thích
nguồn, là tờ Việt Báo, và thanh minh thanh nga, tôi
không có hân hạnh được quen ông HNH!
Nghĩa là đếch thèm cám ơn thằng cha G đã
mất công gõ bài!
Tư cách như thế mà viết lách cái chó
gì không biết!
Source
Đọc trên
trang LH, thì ST, cựu học sinh Dũng Lạc, Hà Nội, một trường tư,
không bảnh bằng Chu Văn An, số 1, và Nguyễn Trãi số 2.
Theo gia đình di cư 1954, học hành, đỗ đạt, làm 1 viên
chức lớn (Chánh Sự Vụ) trong chế độ VNCH,
sau 1975, đi cải tạo 1 năm, được Đảng tha về, mở quán cà phê,
1985 qua Canada theo diện bảo lãnh.
Ông không
biết gì đến hận thù Quốc Cộng, không nhà tù,
“ghét tô” nào giam giữ ông. Có thể như thế mà ông viết như chẳng có
gì xẩy ra. Và ông coi cái đất nước nhận ông,
chẳng có ơn nghĩa gì, vì mày không
nhận tao, thì tao ở VN, mà làm sao mày không
nhận tao được, nếu tao đủ điều kiện để vô nước mày theo
chính sách của mày, về đoàn tụ gia đình?
Nhưng, đó
chính là câu trả lời của đám tù thanh
thiếu niên, phần lớn Bắc Kít, mà GCC đã từng
đi uý lạo, với tí quà bánh của HNV, trong 1
dịp lễ lạc nào đó, của Canada, hay của xứ Mít không
còn nhớ, trong 1 nhà tù thành phố. Một trong
đám này biểu Gấu, mi về nói với chính quyền Canada tại làm sao lại
bắt tao, mà còn tính trả tao về Việt Nam? Tao đâu
có muốn đến Canada đâu. Khi ở Trại, họ năn nỉ chúng tao
tới Canada [quả có thế, vì Canada cần lấy đủ người theo “quota”
với Cao Uỷ Tị Nạn, những người Miền Nam, Mẽo OK; Bắc Kít, No, thành
thử đa số Bắc Kít chọn Canada là như vậy]. Bây giờ
lại đuổi chúng ta về VN, là sao?
Mấy ông
tướng này, qua Canada không lo làm ăn mà chỉ lo
làm bậy, bị bắt, nhiều lần, Canada đành năn nỉ VC nhận lại
giùm…
ST
cũng đã từng được chấp nhận làm nhân viên của Mẽo,
nhưng sau chót, hỏng cẳng, theo bài viết của LH, về ông.
Hóa ra ông chẳng hề muốn sống ở Canada, thật, như bạn của ông
là ông số 2!
Khác
hẳn Gấu. Đã từng làm bồi Mẽo hơn 10 năm ở Miền Nam trước
1975, Gấu tởm Mẽo quá, may được Canada nhận, mừng quá, biết
ơn quá, quá!
Câu chuyện ở Bồng Sơn
Note:
Tks Tuyen Vu.
Merry Christmas to both of U
NQT
-
Đặt chân đến Bồng Sơn, họ vô cùng bất ngờ khi thấy
tấm bảng “Trường tiểu học Bồng Sơn” nằm chễm chệ trên tòa
nhà mà lẽ ra phải là thư viện. Ken và Pat muốn
đặt tên cho thư viện này là “Bong Son – Lucky Star
Library and Learning Center” vì Lucky Star chính là
đơn vị mà Ken phục vụ thời chiến tranh. Chính quyền địa phương
đã tự ý đổi tên và đổi cả chức năng của tòa
nhà mà không hề báo một lời với vợ chồng ông
– những người đã bỏ tiền xây nên tòa nhà
đó – chưa nói đến việc xin ý kiến của vợ chồng ông.
Ken nói với mình “I paid for it, but they changed the name.
I want my money back.”
*
Lèm
bèm ngoài lề:
Cái tên, là, rất quan trọng. Nó như dấu
ấn của 1 nhà văn. Đọc 1 nhân vật tự xưng là Nguyễn,
thí dụ, là biết ngay của Nguyễn Tuân rồi.
Chính vì thế mà không ai dám đặt
tên cho mình, hay nhân vật của mình là
Nguyễn nữa.
Ngoại trừ nhà thơ NXT!
Đây là 1 sự kính nể những người đi trước nữa.
Một khi bạn cố tình vi phạm, là phải có vấn đề.
NMG, khi chọn cho nhân vật của mình là Tường,
là phải có vấn đề, không thể khơi khơi nói
tôi hư cấu được, thứ nhất cuốn tiểu thuyết của ông viết đúng
vào thời kỳ có ông Tường đó đó.
Bởi thế, có 1 bạn văn cũng khá thân quen, có
vẻ bực mình, vì GCC đặt vấn đề này, nghĩ là
GCC không ưa NMG.
Phải nói ngược lại mới đúng.
[Jean-Paul Sartre, viết Những kẻ bị cầm tù ở Altona, Les
séquestrés d'Altona (1959), phịa ra 1 nhân vật, không
ngờ tên của nhân vật này trùng hợp với 1 người
có thực, có thế giá ở ngoài đời, thế là
đành phải lên tiếng xin lỗi, và cho thu hồi toàn
bộ những ấn bản đã cho phát hành. NMG mà không
làm chuyện đó, sợ không còn nhiều thì
giờ! Bởi vì chỉ có cách đó mới bảo vệ sự vẹn toàn của MBD,
như là 1 giả tưởng văn học.]
NMG đã từng bị làm
phiền về chuyện này rồi, khi chính ông T đó
lên tiếng hỏi, tại làm sao ông lấy tên của tôi
đặt cho nhân vật của ông.
NMG trả lời, tôi hư cấu, nhưng ở 1 chỗ khác, ông
lại nhận, có lấy một số chi tiết đời thực của T đưa vô tiểu
thuyết.
Nhảm.
Cực nhảm. Bởi vì chỉ 1 chi tiết như thế, là phải vứt cuốn
sách vô thùng rác. Giống như bạn đánh
cờ, mà chưa sạch nước cản. Bắc Mỹ chia là làm hai,
giả tưởng, và phi giả tưởng, là theo nghĩa đó. Giả
tưởng, tha hồ phịa. Phi giả tưởng, không có quyền phịa, dù
chỉ 1 chi tiết. Ba thứ hồi ký ghi là memoir, là phải
coi như sự thực, không phải giả tưởng.
Ở
những bậc đại tài, một khi mà giả tưởng lừng lẫy quá,
thì, 1 cách nào đó, nó chiếm ngay 1 chỗ
trong lịch sử, trong đời thực.
Đây là trường hợp xẩy ra với “1984”, của Orwell, hay
với mẫu tự K, của Kafka.
Hoặc, với Bếp Lửa của TTT.
Nhắc tới Bếp Lửa 1 phát, là lập tức 1954 xuất hiện!
Kỳ
tới, GCC sẽ lèm bèm tiếp, về cái sự li kỳ của con
số 1984, và mẫu tự K, qua bài viết của G. Steiner: The Killing Time, Thời Giết Người
Gấu
đi tầu Rắn Biển, Marine Serpent,
khi đó, chắc cũng giống như chú bé trong hình,
nhưng vác theo hai cái rương nhỏ, đựng toàn sách,
mua tại Chợ Trời Hà Nội.
Không nhớ tới Sài Gòn ngày nào,
nhưng nhớ, chuyến đó ở trên tầu hơi lâu, vì
còn chờ Đức Hồng Y Spellman ghé ban phước lành. Cũng
phải những ngày cuối chiến dịch Passage To Freedom, vì phải
chờ đến lúc Hải Phòng sắp hết hạn 300 ngày, Gấu mới
từ giã nổi Hà Nội.
Đâu
có tính đi?
Bài viết bên lề một cuốn sách "Trăng
ơi thơ ấu mãi"
Note:
Link broken, just restored
NCK đi tù VC, có thời gian
cùng trại tù với TTT. Anh là người
có thể là, độc nhất, được TTT cho coi những
bài thơ tù, mà, như ông viết, bẽn
lẽn như hồi mới bắt đầu làm thơ, không dám đưa
cho ai coi....
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn Chí Kham
Người Gác Cổng
TTT
Note: Đây là truyện ngắn "cực"
TTT, ở cái chất đực, "manly", “cẩm” mấy em thèm súng
vs đàn ông thèm bướm!
Gần như không 1 nhà văn Mít
nào viết được như vậy.
Nếu có, thì là thứ nhơ
bửn, thuộc loại “porno”, đực cũng như cái.
Gấu đã từng chỉ ra “đặc tính,
yếu tố, gia vị… ” này, trong bài viết về DNM.
Trong Ung Thư, là cái cảnh Thạch,
trước khi rời Hà Nội, đi tìm Liên, cô
bạn gái, đã có chồng, 1 thằng ghiền, không
thấy, đứng trong ngõ vắng, nhớ Liên quá, cất
tiếng hú, như chó điên, chó dại, hay
cảnh cũng Thạch, nghe thằng chồng ghiền hành hạ vợ, khảo tiền
đi hút, bèn đi tìm, gặp, lôi ra đường, tẩn
cho 1 trận nhừ tử...
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động
Trong 1 truyện ngắn của GCC, Cõi Khác,
cũng có 1 cảnh tương tự như trong Ung Thư. Nhưng của Gấu, là
thực sự xẩy ra, và có tí khác, thay
vì, Gấu hú lên như chó dại, thì là
tiếng mèo kêu thảm thiết... và, khi về già,
ngẫm lại, tự hỏi, hay là TTT, qua nhân vật Thạch, “thế
thân” của ông, cũng đã từng gặp đúng 1 cas,
như vậy?
Cõi khác
Ôi chao, Gấu đó ư?
Hình do cô bạn, đứng từ trong nhà,
chụp ra.
Còn 1 tấm, Gấu đứng bên ngoài, chụp
vô, cô mặc áo trắng, ngắn tay, bỏ lại Sài
Gòn, không đem theo khi bỏ chạy quê nhà
Sau cùng phải cảm ơn cô
bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình.
Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn sợ hãi cái bóng của chính
nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về, thành
phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích
bất thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những
vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải xuống xe dẫn
bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải
đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn
đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen sâu
thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương,
nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu
chẳng may bị cô hất hủi, nói không, nói không
thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là
gì. Nhiều lần tới nhà khi đã quá khuya, trong
nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên
ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng
dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập
cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn,
vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải nói, phải
gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân
vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có
ý định gặp. Không hề trông mong cô sẽ giúp
đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên
hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá
khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái
ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần
rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe hết xăng, đứng xớ rớ ngay
giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một thằng say,
hay một người lính ban cho một cái chết lãng nhách,
nhưng ít ra còn có thể giải thích như một
tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương tình
kéo về tận đỉnh cồn. Nơi làm việc là tầng lầu trên
cùng của một building, bất động sản của người Pháp. Những
đêm trực thường lợi dụng những lúc rảnh rỗi giao Đài
cho người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng. Ghé quán
cà phê khu Đa Kao, nơi đứa em từng ngồi dán lưng vô
tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà phê túi,
hủ tíu Tầu khu ngã Sáu Sài-gòn, hồi
tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé
sạp thuốc lá, mua từng điếu lẻ, một thói quen từ hồi còn
đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà Trẻ trong
căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé sạp
báo mua một tờ có đăng truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua những
hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một lần đọc thấy tin quận lỵ quê
cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm sau vội
ghé nhà rồi cả hai ra bến xe đón những chuyến đầu tiên
từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc pháo kích không
gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh bạo rủ cô
ra Sài-gòn. Đó có lẽ là lần du ngoạn
đầu tiên.
Ba Mươi Tháng
Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên
nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi
viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại
sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi
như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy.
Bài Nhớ Thi Sĩ
viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi
nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những
lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền:
Trong Đất Trời
Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo,
tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng
anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình
đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên
miền cao
Đang lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày
lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi
theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô
đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn
qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng
cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu
khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên trên
lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ
đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970).
Thi sĩ Ý.
Viết
mỗi ngày
SỰ THẬT CHƯA ĐƯỢC BIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Bài 7: NHẪN TÂM PHÂN BIỆT MÀU DA XÁC
CHẾT DÂN LÀNH!
* MÁU CHẢY RUỘT MỀM...
Cảnh đau thương 28 người chết tại bệnh viện Bạch Mai vì trúng
bom Mỹ (tháng 12/1972) đều được người dân VN trong nước biết
đến vì cảnh chết chóc này được chiếu đi chiếu lại hàng
năm. Trong khi đó, thảm cảnh 32 em học trò trường tiểu học
Cai Lậy (tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang) chết oan ức ngay
giữa sân trường (vào ngày 9/3/1974) thì bị bưng
bít, r...
Tội ác trong chiến tranh thì nói làm khỉ gì.
Những tội ác sau chiến tranh mới thê lương. Ngay cả trong chiến
tranh, lũ Vẹm quá độc, quá ác, là, hễ Miền Nam
có được 1 tay nào cực bảnh, có thể chấm dứt cuộc chiến,
theo cái nghĩa quốc gia, không theo Mẽo, và cũng không
mê VC, là chúng thịt, đổ tội cho Ngụy giết lẫn lẫn nhau.
Những vị như Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí… thí
dụ.
Đất nước như hiện nay, mấp mé bờ huỷ diệt, đâu phải do chiến
tranh, mà là do hòa bình.
Tội ác của Bắc Kít, là đã gây ra cả
hai cuộc chiến, chúng cố tình tạo ra, để “có” được
đất nước như hiện giờ!
Thằng Mẽo phịa ra vụ Vịnh Bắc Bộ, để có cớ dội bom, để bỏ chạy,
và nếu nhìn như thế, và đúng như thế, thì
đâu có phải... tội ác?
Tội ác, là dùng đê sông Hồng, đặt hoả
tiễn, dụ Mẽo phát huỷ đê...
Tribute TTT [new]
TOMAS
TRANSTROMER (b. 1931)
After Someone's Death
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along
on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi
sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm
những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch
1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm
ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ
1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh
giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ,
cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì
lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có
thịt.
Tên samurai thì là cái chó
gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần
sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác
thân nào còn, linh hồn thì cũng có
khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi
miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng ngày
càng lớn, dội cả về Đất Cũ.
FERRARI. But we are told that we cannot make a
faithful interpretation of our times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important than our times.
It's lamentable that Kafka has to survive this period and its simplifications.
Of course, we endure this century without much pride. With a little
nostalgia for the nineteenth century, which also feels like nostalgia
for the eighteenth century. Perhaps Oswald Spengler was right about
the decline that we are nostalgic about-obviously, we can talk of mon
vieux temps and perhaps we are right. There's a reference to this in Jorge
Manrique's Coplas but it's ironic: 'As it seems to us, any time in the
past / was better.' 'As it seems to us' followed by 'any time in the past
was better'-yes, that's what Schopenhauer said. We see the past as better
but we also see it as something that has stopped. We are no longer actors
but spectators. In what is called the present we are actors, there's an
idea of responsibility and, associated with it, an idea of danger. The
past, even if it was terrible ... we can even think of Rosas' times nostalgically
because, although it was terrible, it has passed. It has been fixed in
time and so have its terrible images. On the other hand, the present can
threaten us, just as life threatens us every second we're alive.
FERRARI. That's right and this was another point I wanted
to mention with regard to Kafka. A writer you know wrote a very significant
essay on Kafka, which I recently glanced at. I am referring to Carmen
Gandara.
BORGES. I knew her and have fond memories of her. I read
a story of hers, 'The Inhabited'. I'm not sure but isn't it similar
to Julio Cortazar's 'House Taken Over'? Or is the theme different?
FERRARI. The scope is different. She refers to Kafka and
says something that struck me-that throughout his life, Kafka sought
a God 'absent' in our times.
BORGES. Yes, I have been asked that many times. I do not
understand that question.
FERRARI. She means that, despite everything, Kafka might
have had a religious spirit.
BORGES. Yes, but a religious spirit need not believe in
a personal god. For example, the Buddhist mystics do not believe in
a personal god but that doesn't matter. The idea of believing in a personal
god is not a necessary factor in a religious spirit. The pantheists
are an example or Spinoza-he was essentially mystical and he said 'Deus
sive natura,' God or Nature. The two ideas were identical for him. That's
not the case for a Christian because Christianity needs to believe in
a personal god, in a god who judges your acts. In Emerson's Representative
Men, the mystic is Swedenborg. He didn't believe in a personal god but
he chooses between Heaven or Hell. After dying- he actually says this-Man
finds himself in a strange region and is addressed by unfamiliar people;
some attract him and some do not. He goes along with those who do. If
he is an evil man, then those who attract him are devils. Because he will
be more at ease with devils than with angels. And if he is a just man,
he will be at ease with angels. He chooses his company accordingly. Once
he's in Heaven or Hell, he doesn't want to be anywhere else because he will
suffer too much. Swedenborg believed in a personal god, that's certain.
But the pantheists, in general, didn't. What matters is that there's an
ethical proposition in the universe. If there is an ethical proposition,
and if you feel it, then you have a religious mind. And I believe that we
should try to believe in an ethical proposition, although it doesn't exist.
But in the end, it depends on us, doesn't it?
JORGE LUIS BORGES • OSVALDO FERRARI
Nhưng chúng ta được biết là chúng
ta không thể có được cú diễn giải trung thực về
thời của chúng ta nếu không có sự giúp đỡ
của Kafka.
Đúng, nhưng K quan trọng hơn thời của chúng
ta. Thật thê lương, K phải sống sót thời kỳ này, và
những giản lược của nó. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta
chịu đựng cái thế kỷ này mà chẳng có lấy
1 tí tự hào, Với tí hoài nhớ thế kỷ 19, mà
nó thì lại có tí hoài nhớ thế kỷ 18.
Có lẽ Oswald Spengler có lý về cái sự thoái
trào mà chúng ta hoài nhớ - hiển nhiên
là chúng ta có thể nói về cái thời
cũ kỹ [trước 1975] của chúng ta, và chúng ta có
lý, hơn lũ VC, tất nhiên. Bất cứ cái chó
gì dính dáng tới trước 1975, thì đều bảnh
tỏng cả!
Có em Carmen Gándara đi 1 đường
tiểu luận thú vị về Kafka, tôi mới đọc gần đây.
Em phán 1 phát cực lạ về Kafka: Xuyên suốt đời mình,
Kafka tìm kiếm một Thượng Đế “vắng mặt” của thời của chúng
ta.
Borges: Tôi bị hỏi hoài về vụ này,
mà thực sự không hiểu.
Ý của tôi là, mặc dù
mọi chuyện, Kafka có thể là 1 tín hữu, hay có
1 tinh thần tôn giáo.
Borges: Đúng như thế, nhưng tinh thần tôn
giáo thì không cần phải tin vào một ông
trời cá nhân. Thí dụ tín hữu Phật Giáo
đâu có tin vào một ông Phật có hình
hài giống… chúng ta, đúng không, và
chuyện đó đâu cần. Cái ý tưởng tin vào
1 ông trời cá nhân thì không phải là
1 yếu tố cần thiết trong tinh thần tôn giáo. Những kẻ phiếm
thần, hay Spinoza – ông này thì thực là
bí ẩn và ông phán, “Deus sive natura”, Trời
hay Thiên nhiên. Hai thứ đó là một đối với
ông ta.
Tribute TTT
Bếp Lửa trong Văn chương
[xuất hiện lần đầu trên
TSVC, 1972]
Cái ý, "trong 1 vài trường
hợp, học trò khám phá ra thầy", Gấu đọc, từ 1
anh Tẩy, trên 1 tờ báo Tẩy.
Phải đến khi ra được hải ngoại, mới biết, của Borges.
Những tiền thân
của Kafka
Nếu tôi không lầm, những mẩu đa dạng
tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không lầm,
tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự kiện thứ nhì này có ý nghĩa
hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc nhiều hoặc
ít, phong cách riêng của Kafka, nhưng nếu Kafka
chưa từng viết một dòng, chúng ta sẽ không nhận
ra tính chất này; nói một cách khác,
chúng chưa hề hiện hữu. Bài thơ "Fears and Scruples"
của Browning tiên liệu tác phẩm của Kafka, nhưng cái
đọc Kafka của chúng ta rõ ràng làm sắc bén,
và làm sai lệch cái đọc bài thơ. Browning
đã không đọc nó như bây giờ chúng
ta đọc. Trong tự vựng của những nhà phê bình, từ
"tiền thân" (precursor) không thể thiếu được, nhưng nên
tháo gỡ mọi trò luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là,
mỗi người viết sáng tạo ra những tiền thân của riêng
người đó. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng
ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.(2)
Trong tương quan này, điều không quan trọng, đó
là đặc nét, hay đa nét, của những người trong cuộc.
Tính tiền thân của những huyền thoại tối tăm và những
định chế tàn bạo, ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít
chất Kafka hơn, nếu so với Browning và Lord Dunsany.
Nhà văn nhà thơ Mít, tên
nào tên đó, chưa từng có, chỉ 1 tên,
cho biết, Thầy của hắn, là ai. Chính là do
không có Thầy, và không hiểu Thầy, tức
là người đi trước mình, là như thế nào,
nên cõi văn Mít ngày 1 bại hoại, theo GCC.
TTT, 1 cách nào đó, cũng không có
Thầy, nhưng ông cho biết ảnh hưởng của 1 số nhà văn tiền
chiến ở nơi ông, trong số đó, có Nguyên Hồng
của Bỉ Vỏ, nhớ đại khái. Tác giả ngoại, là Malraux
Camden, 1882
The smell of coffee and
the newspapers.
Sunday and its lassitudes.
The morning,
and on the adjoining page,
that vanity-
the publication of allegorical
verses
by a fortunate fellow poet.
The old man
lies on a white bed in
his sober room,
a poor man's habitation.
Languidly
he gazes at his face in
the worn mirror.
He thinks, beyond astonishment
now:
that man
is me, and absentmindedly
his hand
touches the unkempt beard
and the worn-out mouth.
The end is close. He mutters
to himself:
I am almost dead, but still
my poems retain
life and its wonders. I
was once Walt Whitman.
-A.R.
Bài thơ này,
tình cờ Gấu lại thấy nó, trong
Borges Tám
Bó. Post sau đây.
Borges tưởng mình đang chết, khi tưởng
mình là Whitman, rồi Gấu chôm luôn,
tưởng Whitman là TTT, rồi tưởng tượng tiếp, không
phải TTT, mà là thằng em của ông, GCC, đang
chết!
BARNSTONE: Would you be willing to comment on
the poem you wrote about Whitman?
BORGES: Well, I don't recall the poem. Go ahead,
I am very curious. Why don't you read it in the English translation
where it will be greatly bettered? I know you will be very disappointed.
That poem is no good.
BARNSTONE:
CAMDEN 1892
The smell of coffee and of newspapers.
Sunday and its boredom. It is morning.
Some allegorical verses are adorning
The skimmed over page: the vain pentameters
Of a happy colleague. The old man lies
Stretched out and white in his respectable
Poor man's room. Lazily he fills
The weary mirror with his gaze. His eyes
See a face. He thinks, now unsurprised: that
face
Is me. With fumbling and he reaches out
To touch the tangled beard and ravaged mouth.
The end is not far off. His voice delares:
I am almost gone, and yet my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman
[Trans. Willis Barnstone]
BORGES: It's quite good, eh? Not too good but
quite good, as far as it goes. That's the human Whitman only,
not the myth.
BARNSTONE: Whitman thought of himself as a prophetic
figure, writing a kind of Bible.
BORGES: Well, he did!
BARNSTONE: Frequently in your stories and poems,
you don't write a Bible, but you aspire to secrets, to enigmas,
to a single word.
BORGES: I am constantly being baffled by things.
BARNSTONE : You go different routes. Your work
gets simpler and simpler, fewer and fewer words.
BORGES: Yes, I agree.
BARNSTONE: If Whitman could throw in an adjective,
he did so.
BORGES: He did only too often, I should say.
BARNSTONE: His work might have been called
Broad
Leaves of Grass, because he usually added words to intensify,
often not with the best results. What do you think of the fact that
this poet, who is marvelous and uneven, manages-
BORGES: But he
is marvelous and uneven.
Silvina Ocampo said to me that a poet stood in need of bad verses.
If not, the others would not stand out. We were commenting on
Shakespeare. I said he has many bad verses. And she said: "That's
all to the good. A poet should have bad verses." Only secondary
poets write only good verses. Out of politeness you should have bad
verses.
BARNSTONE: Eliot said there should be weaker
words among the stronger ones so that the lines do not become
crabbed. But among the hack works which you claim you have done
was to translate a book of Walt Whitman's poetry. You say that
Walt Whitman was your poet and meant so very much to you. What did
he teach you?
BORGES: He taught me to be straightforward. That
was the one lesson I learned from him. But teaching, after all,
is not important. The fact is that I was overwhelmed by emotion,
that I knew pages and pages of his work by heart that I kept on
saying them to myself in the day und in the night. I think
that what’s important is the way a man is moved when he reads poetry.
If a man doesn't feel poetry physically, then he doesn't feel poetry
at all. He had better become a professor or a critic. I think of
poetry as being a very personal and a very important experience. Either
you feel it or you don't. If you feel it, you don't have to explain
it.
Nếu có thể, xin ông đi 1 cái
còm, về bài thơ của ông, về Whitman
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà phê
và tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên trang
báo kế bên
Là cột thơ vô
thường, hư danh
Của 1 nhà thơ may mắn,
một đồng nghiệp
Anh già nằm
Trên cái giuờng
trắng,
Trong căn phòng khiêm
tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người
đàn ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn
mặt mình trong tấm gương, cũng bệ rạc, mệt nhoài
như ông
Ông già nghĩ,
không ngạc nhiên cái con mẹ gì
hết:
Tên
đàn ông này, là tớ
Và lơ đãng,
ông lấy tay của mình sờ bộ râu của
mình
Và cái miệng,
cũng của mình
Một cái miệng tan hoang,
bị thời gian ăn mòn đến nhão nhẹt, mếu
máo.
Tới giờ lên tầu rồi,
cha nội!
Ông lầm bầm với chính
mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào
bi khúc, nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài,
những bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh ngạc,
bỡ ngỡ của nó, sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có
1 thời,
Là nhà thơ Thanh
Tâm Tuyền!
Borges: Cũng không đến nỗi nào, phải
không bạn. Đây là 1 Whitman con người, không
phải 1 huyền thoại
Ông ta nghĩ về ông ta như là 1
hình tượng tiên tri, viết 1 thứ Thánh Kinh
Borges: Quả có thế!
Thường ra thì trong truyện ngắn và
thơ, ông - Borges - không viết 1 cuốn Thánh
Kinh, nhưng thèm tới được bí mật, bí ẩn, tới
được một từ.
Borges: Tôi thì cứ bị luẩn quẩn, với
những sự đời.
Ông đi những con đường khác. Tác
phẩm của ông giản dị, ngày càng giản dị, ngày
càng ít từ ngữ.
Borges: Tôi đồng ý với bạn.
Nếu Whitman thích ném ra 1 tính
từ, là ông ta ném liền.
Borges: Ông ta thường làm như vậy.
Tác phẩm của ông ta có lẽ nên
được đặt tên là Bướm Rộng, thay vì, Bướm, (1)
bởi là vì ông ta thường cho thêm nhiều
từ, để nhấn mạnh, để làm cho nó hoành tráng,
và kết quả thì không được như ý của ông
ta.
Ông có nghĩ rằng, nhà thơ, quả
là thần sầu, quả là không giống ai này,
có thể thay đổi, sửa đổi, gia giảm…
Borges: Nhưng ông ta “thì” tuyệt vời,
thì “số 1”. Silvina Ocampo có lần nói với
tôi, một nhà thơ bảnh tỏng, là vì những
câu thơ dở của người đó. Ông ta cần chúng.
Nếu không có những câu thơ dở, là đám
kia té bổ nhào liền. Lấy trường hợp Bùi Giáng,
hay Shakespeare, hai ông này thì đầm đìa
những câu thơ dở như hạch. [GCC nhớ Thầy Thục chê Bùi
Giáng không biết làm thơ, và nếu biết làm
thơ, thì làm toàn thơ dở!] Tôi [Borges]
nói, ông ta có rất nhiều câu thơ dở, và
bà ta bèn nói, phải như thế mới được, không
thì bỏ mẹ. Một nhà thơ nên có những câu
thơ dở.
Chỉ những nhà thơ hạng nhì
mới làm toàn những câu thơ bảnh!
Nhớ nhé, ông GNV, lâu lâu,
vì lịch sự, out of politeness, ông nhớ làm
thơ dở cho độc giả TV thưởng thức nhe!
Xin lĩnh ý!
NQT
(1)
Rừng Lá Thấp, "như lính giữa rừng yêu
lá thấp".... Liệu "Yêu Lá Thấp", "Lá
Cỏ", "Leaves of Grass", có chung 1 ẩn dụ?
Nguyen
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/trinh_cong_son_tuong_niem.html
Theo Gấu, cái
tay đọc lời bi ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa, khi
lọc ra, chỉ một lời nhạc của TCS:
Chim thiêng hót
lời mệnh bạc.
Đúng là cả cuộc
đời của TCS gói ghém ở trong câu này.
Trinh Cong
Son
L'oiseau sacré chante le destin tragique
Connu avec
Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel,
Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves
en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif
de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et
de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa
méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu
de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations
extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme. L'évidence
esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được
biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà
soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn
tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và
hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác
phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông,
và về sự phù du của tình yêu và
cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn
trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông
xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy
đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của
những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo
và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài
ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
Tuyệt!
SN_GCC_2017
Bài viết bên lề một cuốn sách "Trăng
ơi thơ ấu mãi"
Note:
Link broken, just restored
NCK đi tù VC, có thời gian
cùng trại tù với TTT. Anh là người
có thể là, độc nhất, được TTT cho coi những
bài thơ tù, mà, như ông viết, bẽn
lẽn như hồi mới bắt đầu làm thơ, không dám đưa
cho ai coi....
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn Chí Kham
Người Gác Cổng
TTT
Note: Đây là truyện ngắn "cực"
TTT, ở cái chất đực, "manly", “cẩm” mấy em thèm súng
vs đàn ông thèm bướm!
Gần như không 1 nhà văn Mít
nào viết được như vậy.
Nếu có, thì là thứ nhơ
bửn, thuộc loại “porno”, đực cũng như cái.
Gấu đã từng chỉ ra “đặc tính,
yếu tố, gia vị… ” này, trong bài viết về DNM.
Trong Ung Thư, là cái cảnh Thạch,
trước khi rời Hà Nội, đi tìm Liên, cô
bạn gái, đã có chồng, 1 thằng ghiền, không
thấy, đứng trong ngõ vắng, nhớ Liên quá, cất
tiếng hú, như chó điên, chó dại, hay
cảnh cũng Thạch, nghe thằng chồng ghiền hành hạ vợ, khảo tiền
đi hút, bèn đi tìm, gặp, lôi ra đường, tẩn
cho 1 trận nhừ tử...
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động
Trong 1 truyện ngắn của GCC, Cõi Khác,
cũng có 1 cảnh tương tự như trong Ung Thư. Nhưng của Gấu, là
thực sự xẩy ra, và có tí khác, thay
vì, Gấu hú lên như chó dại, thì là
tiếng mèo kêu thảm thiết... và, khi về già,
ngẫm lại, tự hỏi, hay là TTT, qua nhân vật Thạch, “thế
thân” của ông, cũng đã từng gặp đúng 1 cas,
như vậy?
Cõi khác
Ôi chao, Gấu đó ư?
Hình do cô bạn, đứng từ trong nhà,
chụp ra.
Còn 1 tấm, Gấu đứng bên ngoài, chụp
vô, cô mặc áo trắng, ngắn tay, bỏ lại Sài
Gòn, không đem theo khi bỏ chạy quê nhà
Sau cùng phải cảm ơn cô
bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình.
Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn sợ hãi cái bóng của chính
nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về, thành
phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích
bất thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những
vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải xuống xe dẫn
bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải
đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn
đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen sâu
thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương,
nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu
chẳng may bị cô hất hủi, nói không, nói không
thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là
gì. Nhiều lần tới nhà khi đã quá khuya, trong
nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên
ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng
dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập
cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn,
vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải nói, phải
gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân
vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có
ý định gặp. Không hề trông mong cô sẽ giúp
đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên
hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá
khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái
ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần
rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe hết xăng, đứng xớ rớ ngay
giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một thằng say,
hay một người lính ban cho một cái chết lãng nhách,
nhưng ít ra còn có thể giải thích như một
tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương tình
kéo về tận đỉnh cồn. Nơi làm việc là tầng lầu trên
cùng của một building, bất động sản của người Pháp. Những
đêm trực thường lợi dụng những lúc rảnh rỗi giao Đài
cho người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng. Ghé quán
cà phê khu Đa Kao, nơi đứa em từng ngồi dán lưng vô
tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà phê túi,
hủ tíu Tầu khu ngã Sáu Sài-gòn, hồi
tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé
sạp thuốc lá, mua từng điếu lẻ, một thói quen từ hồi còn
đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà Trẻ trong
căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé sạp
báo mua một tờ có đăng truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua những
hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một lần đọc thấy tin quận lỵ quê
cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm sau vội
ghé nhà rồi cả hai ra bến xe đón những chuyến đầu tiên
từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc pháo kích không
gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh bạo rủ cô
ra Sài-gòn. Đó có lẽ là lần du ngoạn
đầu tiên.
Ba Mươi Tháng
Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên
nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi
viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại
sống, không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi
như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy.
Bài Nhớ Thi Sĩ
viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi
nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những
lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền:
Trong Đất Trời
Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo,
tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng
anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình
đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên
miền cao
Đang lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày
lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi
theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô
đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn
qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng
cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu
khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên trên
lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ
đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970).
Thi sĩ Ý.
Viết
mỗi ngày
SỰ THẬT CHƯA ĐƯỢC BIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Bài 7: NHẪN TÂM PHÂN BIỆT MÀU DA XÁC
CHẾT DÂN LÀNH!
* MÁU CHẢY RUỘT MỀM...
Cảnh đau thương 28 người chết tại bệnh viện Bạch Mai vì trúng
bom Mỹ (tháng 12/1972) đều được người dân VN trong nước biết
đến vì cảnh chết chóc này được chiếu đi chiếu lại hàng
năm. Trong khi đó, thảm cảnh 32 em học trò trường tiểu học
Cai Lậy (tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang) chết oan ức ngay
giữa sân trường (vào ngày 9/3/1974) thì bị bưng
bít, r...
Tội ác trong chiến tranh thì nói làm khỉ gì.
Những tội ác sau chiến tranh mới thê lương. Ngay cả trong chiến
tranh, lũ Vẹm quá độc, quá ác, là, hễ Miền Nam
có được 1 tay nào cực bảnh, có thể chấm dứt cuộc chiến,
theo cái nghĩa quốc gia, không theo Mẽo, và cũng không
mê VC, là chúng thịt, đổ tội cho Ngụy giết lẫn lẫn nhau.
Những vị như Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí… thí
dụ.
Đất nước như hiện nay, mấp mé bờ huỷ diệt, đâu phải do chiến
tranh, mà là do hòa bình.
Tội ác của Bắc Kít, là đã gây ra cả
hai cuộc chiến, chúng cố tình tạo ra, để “có” được
đất nước như hiện giờ!
Thằng Mẽo phịa ra vụ Vịnh Bắc Bộ, để có cớ dội bom, để bỏ chạy,
và nếu nhìn như thế, và đúng như thế, thì
đâu có phải... tội ác?
Tội ác, là dùng đê sông Hồng, đặt hoả
tiễn, dụ Mẽo phát huỷ đê...
Trong video tang lễ, TTY cho biết, làm
xong bài thơ 1 phát, là bèn gọi điện thoại,
đọc cho TTT nghe.
Bài thơ sau đây, Borges, làm,
theo ý TTT, cho anh tí Paris, để anh làm
thi sĩ.
Paris, 1856
The long prostration has accustomed him
To anticipate his death. His concrete
dread
Is going out of doors into the whim
Of day to walk about with friends. Ravaged,
Heinrich Heine thinks about that river
Of time that slowly moves away into
That lingering penumbra and the bitter
Hurt destiny of being a man and Jew.
He thinks about exquisite melodies
Whose instrument he was, and yet he knows
The trilling doesn't come from trees or
birds
But time and from the days' slim vagaries.
And yet your nightingales won't save you,
no,
Nor nights of gold and flowers sung in
your words.
-W.B.
Mệt lử dài dài làm anh ta quen dự đoán
cái chết của mình
Nỗi khiếp sợ cụ thể, chắc nịch
Bèn bò ra bên ngoài
Nhập vào cơn rồ dại của ngày
Tản bộ với bạn.
Nát bấy người,
Heinrich Heine bèn nghĩ
Về dòng sông thời gian
Lờ lững trôi xa, nhập vào vùng âm
u, lù tà mù
Và cái số mệnh chua chát, đau thương,
Là 1 con người, và là 1 tên Do Thái.
Ông nghĩ tới những giai điệu thanh tú
Mà ông là nhạc cụ.
Tuy nhiên, ông biết
Âm thanh không đến từ cây cối chim muông
Nhưng từ thời gian, từ những thất thường nghèo nàn
của ngày
Làm gì có chuyện tiếng chim sơn ca sẽ
cứu vớt mi
Hay, những đêm của vàng, của bông, của hoa
Hát,
Trong những từ của mi
The Just
A
man who cultivates his garden, as Voltaire
wished.
He who is grateful for the existence of music.
He who takes pleasure in tracing an etymology.
Two workmen playing, in a café in the
South,
a silent game of chess.
The potter, contemplating a color and a form.
The typographer who sets this page well,
aaathough it may not please him.
A woman and a man, who read the last tercets
aaaof a certain canto.
He who strokes a sleeping animal.
He who justifies, or wishes to, a wrong done him.
He who is grateful for the existence of a Stevenson.
He who prefers others to be right.
These people, unaware, are saving the world.
Translated by Alastair Reid from: “Insomnia”,
Six Poems by Jorge Luis Borges, Harper’s Magazine,
February, 1999
Người
Tiết Tháo
Tên đờn ông,
kẻ săn sóc mảnh vườn của hắn, như Voltaire
mong muốn
Kẻ biết ơn sự hiện hữu của âm nhạc
Kẻ lấy làm hài lòng, khi đi 1 đường tầm nguyên
Hai công nhân lặng lẽ nhâm nhi
1 ván cờ ở 1 quán cà phê
ở xứ Nam Kít
Tên thợ máy nhà dây
thép chiêm
ngưỡng và kính trọng BHD, ây a, xin
lỗi, một màu sắc, một hình thể
Người thợ in, làm trang sách này
thật ra hồn, tuy nhiên, đã chắc gì,
anh ta thích thú?
Một người đàn bà, và một
người đàn ông, đọc đoạn thơ cuối
của 1 khổ thơ nào đó
Một kẻ nào đó, ngủ đi anh, mộng
bình thường, như 1 đứa con nít, hay
1 con mèo đang ngái ngủ trên
tay em!
Kẻ chỉnh lý hay mong chỉnh lý,
một lầm lỡ mà ai đó, gây ra
cho anh ta
Kẻ biết ơn có Stevenson ở trên đời
này
Kẻ thích những kẻ khác có
lý.
Những người này, không biết, họ
đang cứu vớt thế giới.
http://tanvien.net/new_daily_poetry/
Next Spring
The
nations were exhausted after many wars
and
lay serenely in their marriage beds
vast
as the Danube river basin.
Spring
had begun, the first ecstasies.
In the
boughs of trees, still naked,
Turkish
turtle doves were cooing.
No one
knew what to do, what to think.
We were
orphans, since winter
had
left us no testament;
a young
butterfly studied flying
haphazardly,
from scratch.
Butterflies
lack tradition.
But
we must die.
This
is an inelegant
way
to end a poem,
R protests.
And adds:
A poem
should end
better
than a life. That's the point.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
Xuân
Tới
Những
xứ sở mệt nhoài sau nhiều cuộc chiến
Và
nằm thanh thản trên những chiếc giường hôn
phối của chúng
Rộng
như lòng sông Danube
Mùa
Xuân bắt đầu, những cực khoái đầu tiên
Trong
những nhánh cây, vưỡn trần truồng,
Rùa biển Thổ Nhĩ Kỳ gù gù
Chẳng
ai biết làm gì, nghĩ gì
Chúng
ta là những kẻ mồ côi,
Kể từ
mùa đông chẳng để lại cho chúng
ta một cái di chúc nào cả;
Một
em bướm trẻ học bay,
Theo
kiểu may rủi, tình cờ, không chọn lựa.
Bướm
đếch có truyền thống
Nhưng,
than ôi, chúng ta phải chết
Đúng
là 1 cách bất lịch sự, chẳng ra làm
sao cả
Để kết
thúc một bài thơ.
TTT
phản đối: Thơ là lời hơn lời
Và
phán thêm, từ phiá bên kia
nấm mồ:
Một
bài thơ nên chấm dứt
Đẹp
hơn là cuộc đời.
That’s
the point
Errata:
Turkish turtle dove là tên
một loài chim bồ câu chứ chẳng phải rùa.
In the boughs of trees, still naked,
Trong những khóm cây vẫn còn trụi lá
(hay trơ cành)
GCC dịch nhảm là "vưỡn trần truồng".
Sorry
NQT
|
Turtle dove videos, photos and
facts
The
small, delicate turtle dove (Streptopelia turtur) is slightly larger
than a blackbird. It has dark black and...
|
|
|
Camden, 1882
The smell of coffee and the newspapers.
Sunday and its lassitudes. The morning,
and on the adjoining page, that vanity-
the publication of allegorical verses
by a fortunate fellow poet. The old man
lies on a white bed in his sober room,
a poor man's habitation. Languidly
he gazes at his face in the worn mirror.
He thinks, beyond astonishment now:
that man
is me, and absentmindedly his hand
touches the unkempt beard and the worn-out mouth.
The end is close. He mutters to himself:
I am almost dead, but still my poems retain
life and its wonders. I was once Walt Whitman.
-A.R.
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà phê và tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên trang báo kế bên
Là cột thơ vô thường, hư danh
Của 1 nhà thơ may mắn, một đồng nghiệp
Anh già nằm
Trên cái giuờng trắng,
Trong căn phòng khiêm tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người đàn ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn mặt mình trong
tấm gương, cũng bệ rạc, mệt nhoài như ông
Ông già nghĩ, không ngạc nhiên
cái con mẹ gì hết:
Tên đàn ông
này, là tớ
Và lơ đãng, ông lấy tay của mình
sờ bộ râu của mình
Và cái miệng, cũng của mình
Một cái miệng tan hoang, bị thời gian ăn mòn
đến nhão nhẹt, mếu máo.
Tới giờ lên tầu rồi, cha nội!
Ông lầm bầm với chính mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào bi khúc, nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài, những bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh ngạc, bỡ ngỡ của nó,
sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có 1 thời,
Là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền!
Bài thơ này, tình cờ Gấu lại thấy
nó, trong
Borges Tám Bó. Post sau đây.
Borges tưởng mình đang chết, khi tưởng mình là Whitman,
rồi Gấu chôm luôn, tưởng Whitman là TTT, rồi tưởng tượng
tiếp, không phải TTT, mà là thằng em của ông, GCC,
đang chết!
BARNSTONE: Would you be willing to comment on the poem you wrote about
Whitman?
BORGES: Well, I don't recall the poem. Go ahead, I am very curious. Why
don't you read it in the English translation where it will be greatly bettered?
I know you will be very disappointed. That poem is no good.
BARNSTONE:
CAMDEN 1892
The smell of coffee and of newspapers.
Sunday and its boredom. It is morning.
Some allegorical verses are adorning
The skimmed over page: the vain pentameters
Of a happy colleague. The old man lies
Stretched out and white in his respectable
Poor man's room. Lazily he fills
The weary mirror with his gaze. His eyes
See a face. He thinks, now unsurprised: that face
Is me. With fumbling and he reaches out
To touch the tangled beard and ravaged mouth.
The end is not far off. His voice delares:
I am almost gone, and yet my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman
[Trans. Willis Barnstone]
BORGES: It's quite good, eh? Not too good but quite good, as far as it
goes. That's the human Whitman only, not the myth.
BARNSTONE: Whitman thought of himself as a prophetic figure, writing a
kind of Bible.
BORGES: Well, he did!
BARNSTONE: Frequently in your stories and poems, you don't write a Bible,
but you aspire to secrets, to enigmas, to a single word.
BORGES: I am constantly being baffled by things.
BARNSTONE : You go different routes. Your work gets simpler and simpler,
fewer and fewer words.
BORGES: Yes, I agree.
BARNSTONE: If Whitman could throw in an adjective, he did so.
BORGES: He did only too often, I should say.
BARNSTONE: His work might have been called
Broad Leaves of Grass,
because he usually added words to intensify, often not with the best results.
What do you think of the fact that this poet, who is marvelous and uneven,
manages-
BORGES: But he
is marvelous and uneven. SiIvina Ocampo said to
me that a poet stood in need of bad verses. If not, the others would not
stand out. We were commenting on Shakespeare. I said he has many bad verses.
And she said: "That's all to the good. A poet should have bad verses." Only
secondary poets write only good verses. Out of politeness you should have
bad verses.
BARNSTONE: Eliot said there should be weaker words among the stronger
ones so that the lines do not become crabbed. But among the hack works which
you claim you have done was to translate a book of Walt Whitman's poetry.
You say that Walt Whitman was your poet and meant so very much to you. What
did he teach you?
BORGES: He taught me to be straightforward. That was the one lesson I
learned from him. But teaching, after all, is not important. The fact is
that I was overwhelmed by emotion, that I knew pages and pages of his work
by heart that I kept on saying them to myself in the day und in the night.
I think that what’s important is the way a man is moved when he reads poetry.
If a man doesn't feel poetry physically, then he doesn't feel poetry at all.
He had better become a professor or a critic. I think of poetry as being
a very personal and a very important experience. Either you feel it or you
don't. If you feel it, you don't have to explain it.
SN_GCC_2017
Bài viết bên lề một cuốn sách "Trăng ơi thơ
ấu mãi"
Note: Link broken, just restored
NCK đi tù VC, có thời gian cùng trại tù
với TTT. Anh là người có thể là, độc nhất, được
TTT cho coi những bài thơ tù, mà, như ông viết,
bẽn lẽn như hồi mới bắt đầu làm thơ, không dám đưa
cho ai coi....
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn Chí Kham
Người Gác Cổng
TTT
Note: Đây là truyện ngắn "cực" TTT, ở cái
chất đực, "manly", “cẩm” mấy em thèm súng vs đàn ông
thèm bướm!
Gần như không 1 nhà văn Mít nào viết được
như vậy.
Nếu có, thì là thứ nhơ bửn, thuộc loại “porno”,
đực cũng như cái.
Gấu đã từng chỉ ra “đặc tính, yếu tố, gia vị… ” này,
trong bài viết về DNM.
Trong Ung Thư, là cái cảnh Thạch, trước khi rời Hà
Nội, đi tìm Liên, cô bạn gái, đã có
chồng, 1 thằng ghiền, không thấy, đứng trong ngõ vắng, nhớ Liên
quá, cất tiếng hú, như chó điên, chó dại,
hay cảnh cũng Thạch, nghe thằng chồng ghiền hành hạ vợ, khảo tiền
đi hút, bèn đi tìm, gặp, lôi ra đường, tẩn cho
1 trận nhừ tử...
Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm
Tuyền
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà,
biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái
đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài
Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy.
Bài
Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã
mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ
chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng
trong tôi bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền:
Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số
Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn
khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu
thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/03/tho-bi-ca-va-tri-tue.html#more
Còn bi ca? Nhà thơ Việt Nam duy nhất viết bi ca là
Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập
Mặt trời tìm
thấy, là một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền còn
đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào tương lai, một
hiện tượng rất quái gở
Loạt bài thơ ngắn dưới đây ít được quan tâm
nhưng thật ra là những bài siêu hạng:
Sẽ chẳng thấy chúng có gì hay nếu so sánh
với thơ Việt Nam cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn.
Nhưng nếu lấy quy chiếu là một nhà thơ chẳng hạn như
Rilke (xem
ở
đây) là bắt đầu thấy khác.
Trong cùng tập thơ của Thanh Tâm Tuyền, có
những "élégie" đúng nghĩa hơn nhiều, kể cả về mặt
hình thức. Đây là đoạn mở đầu của "Đêm":
Hãy
nói cho tôi
Tại sao nỗi cô đơn của
tôi
Bài hát của tôi
Giấc mơ của tôi
Trì hoãn
Lâu như thế?
Khuyên
Nè bồ tèo, nghe
nè
Sinh dữ
Tử lành
Hãy có tí
ti tình yêu
Ở giữa
Harlem
Chuyện gì xẩy ra cho giấc
mơ bị trì hoãn?
Liệu nó khô queo
dưới nắng gắt như lửa?
Hay mưng mủ như nỗi đau
Rồi bỏ chạy?
Hay thối rữa như đồ ăn thiu
Hay tráng tí đường
Như cục kẹo?
Có khi nào nó
trũng xuống
Như chở nặng quá?
Mà, có
khi nào
Nó nổ cái đùng?
WINTER MOON
How thin and sharp
is the moon tonight!
How thin and sharp and ghostly white
Is the slim curved crook of the moon tonight!
Trăng Đông
Mỏng làm
sao, sắc làm sao, trăng đông lạnh đêm nay
Mỏng làm sao, sắc làm sao, trắng ma quái
làm sao
Vành trăng gầy đêm nay
SUICIDE'S NOTE
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss.
Mẩu giấy để
lại trước khi trầm minh
Mặt sông
lạnh/lặng lẽ
Xin tớ 1 cú hôn
VAGABONDS
We are the desperate
Who do not care,
The hungry
Who have nowhere
To eat,
No place to sleep,
The tearless
Who cannot
Weep.
Lũ Ma Cà
Bông
Chúng tớ
là 1 lũ tuyệt vọng
Đếch ke đói
Không nơi
Ăn
Ngủ
Không giọt nước mắt
Không thể sụt sùi
Langston Hughes
Gấu
tính sống hoài hoài
Bữa trước ở PLT, Gấu
phán, Tớ đang chết
Cả hai đều đúng.
Hai đứa mình phải
luôn sẵn sàng cho khoảnh khoắc - những tai ương, niềm
vui, và nỗi buồn
Today at 8:07 PM
Dear Gấu Nhà Văn,
"When I first met Karen Zebroff
she said "When the Chela (student) is ready, the Guru (teacher)
appears." I immediately responded to this ancient traditional saying
of Yoga teachers, "No, Kareen, when the Guru becomes ready or perfect,
the student appears."
- Foreword by Swami Shyam Acharya
for Yoga and Nutrition with Kareen Zebroff
Welcome to Little SaiGon, Gấu
Nhà Văn.
Sent from my iPad
Tks
Take Care
Closing time
“THERE’S
this poet from Canada…He plays pretty good guitar, and he’s
a wonderful songwriter, but he doesn’t read music, and he’s
sort of very strange.” It was an unconventional pitch from
a manager hoping to attract the attention of John Hammond, one
of the most influential record producers around. But Mr Hammond
was intrigued, and decided to invite the poet to lunch. Once they
had eaten, the young Leonard Cohen sat down to play a dozen of
his tunes. Mr Hammond was hooked: “You’ve got it, Leonard”.
Within
a week Mr Cohen was working on his first album and some of
his finest songs, “Sisters of Mercy”, “Suzanne” and “Hey,
That’s No Way to Say Goodbye” in the studios of Columbia Records.
It was 1967, and he was in his 30s. Back in college he was
in a folk band with a couple of guys: they wore Buckskin jackets
and played their biggest gigs in church basements and school
halls. But most of the years since had been spent chasing his
ambitions as a poet, writing books fuelled by drugs and making
love on an idyllic island in Greece. This did not pay the bills,
however, and when the release of his second book “Beautiful
Losers” came under fire for having “obscure” sexual content, Mr Cohen
decided it was time to look elsewhere. He set off to Nashville
and on the way found himself captivated by the scene in New York.
He
saw music as his second calling, and rightly so. His words
were all the more beautiful put to sound. After 14 albums and
a career that spanned into his 80s, Mr Cohen remained unique
in his ability to produce songs that could consume the listener,
envelop them in darkness and reflection, and offer great comfort
and hope all the while. He articulated like no other the universal
unease and helplessness felt by society in a changing world.
Some, like “If it be your will”, are more akin to prayer than
song; others see Mr Cohen having fun, gently mocking those who
praise him: “I was born like this, I had no choice, I was born
with the gift of a golden voice.”
Despite
“Hallelujah” going on to become one of the most widely-covered
songs in history, some felt that the weight of his songs
may have prevented him from reaching the same commercial
success enjoyed by that of his contemporary Bob Dylan, among
others. Mr Cohen built up a loyal fan base and widespread appreciation
for his transfixing lyrics and painstaking craftsmanship (it
took him years to write a single song, a process he described as
“like a bear stumbling into a beehive or a honey cache”).
Even as Mr Dylan received the Nobel prize for literature, many wondered
whether Mr Cohen would have been a more deserving candidate.
On
stage, few artists could inspire an audience to weep, to console
and to laugh like he did. During his first major tour back
in 1972, Mr Cohen implored the audience to stop applauding:
he was too nervous, too distracted, and he couldn’t go on
singing. When he returned to the stage to sing “So Long, Marianne”,
based on former girlfriend and muse Marianne Ihlem, the audience
joined in and Mr Cohen and his band were reduced to tears. Backstage
and broken, he noted how overwhelming the experience had been.
In
the twilight of his life, the conflicted states of mind and
nerves that plagued every show of his youth seemed to all but
disappear. Forced back on the road after his manager, Kelley
Lynch, left him financially broke, Mr Cohen truly came into
his own playing three and a half hour sets, right up to each venue’s
curfew. In the opening pages of her biography on him, Sylvie Simmons
describes Mr Cohen as “a courtly man, elegant, with old-world manners”.
Anyone who saw him live knows that to be true. Surrounded by his
band, sharing anecdotes and thanks, Mr Cohen electrified the audience
with a charm and wit so at odds with the “godfather of gloom” reputation
bestowed upon him.
His
death last week was met with deep sadness and countless tributes;
some, like Kate McKinnon’s heartfelt performance on SNL,
a fitting end to a tumultuous few days. Only a month before,
Mr Cohen released what was to be his last album, “You Want It
Darker”, to critical acclaim. The opening track sees Mr Cohen proclaim
“Hineni, hineni, I’m ready, my lord”: it seemed prophetic then,
and even more so now. The world may not be ready for his absence,
but solace can be found in the body of work he took great care to leave
behind.
Còm:
he
should have won over Dylan for sure. far more eloquent and subtle.
Bảnh
hơn... họ Trịnh nhiều!
"songs
that could consume the listener, envelop them in darkness
and reflection, and offer great comfort and hope all the while"
- a great description. His self-effacing, gracious wit
is hard to find.
Độc giả mà còm
thế này, quả là thần sầu.
Nói thì "gom vào mình", nhưng
quả là cái cảm giác Gấu lần đầu
nghe “Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng”, ở Trại Cải Tạo VC ở Nhà Bè.
Đó là lần
đầu tiên Gấu nghe bản nhạc, nó “đốt cháy
người nghe, ôm lấy họ trong bóng tối, trong bóng
tang”... Gấu đã từng đi nhặt xác đứa em trai
tử trận….
Camden, 1882
The smell of coffee and the newspapers.
Sunday and its lassitudes. The morning,
and on the adjoining page, that vanity-
the publication of allegorical verses
by a fortunate fellow poet. The old man
lies on a white bed in his sober room,
a poor man's habitation. Languidly
he gazes at his face in the worn mirror.
He thinks, beyond astonishment now:
that man
is me, and absentmindedly his hand
touches the unkempt beard and the worn-out mouth.
The end is close. He mutters to himself:
I am almost dead, but still my poems retain
life and its wonders. I was once Walt Whitman.
-A.R.
Camden, 1882
The fragrance of coffee and newspapers.
Sunday and its tedium. This morning,
On the uninvestigated page, that vain
Column of allegorical verses
By a happy colleague. The old man lies
Prostrate, pale, even white in his decent
Room, the room of a poor man. Needlessly
He glances at his face in the exhausted
Mirror. He thinks, without surprise now,
That face is me. One fumbling hand touches
The tangled beard, the devastated mouth.
The end is not far off. His voice declares:
I am almost gone. But my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman.
(translated by Richard Howard
and Cesar Rennert)
"Yo fui Walt Whitman," the dying writer says
in Borges's dramatic sonnet: "I was Walt Whitman."
Edward Hirsch:
How to Read a Poem and Fall in
Love with Poetry
Note: Bản tiếng Anh, thứ nhất, là từ ấn bản
Penguin. Thứ nhì, trong cuốn “Làm sao đọc 1 bài
thơ và bèn tương tư Thơ”, của thi sĩ Mẽo Edward Hirsch,
và, theo ông, thì là 1 bài sonnet
Borges tưởng niệm/ai điếu Walt Whitman
Mượn hoa tiến Phật, Tin Văn bèn chôm
luôn, tưởng niệm TTT, 11 năm ông đi xa.
Đọc loáng thoáng, thì lại ngửi
ra mùi buổi sáng Quán Chùa, với ly cà
phê, cái bánh sừng bò ngày nào.
Bàn của Gấu, hè đường
Lê Thánh Tôn, nơi người bộ hành
qua đường.
Cái Honda thường dựng trên
hè đường, đầu chiếc xe tải...
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà phê và
tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên trang báo kế bên
Là cột thơ vô thường, hư danh
Của 1 nhà thơ may mắn, một đồng nghiệp
Anh già nằm
Trên cái giuờng trắng,
Trong căn phòng khiêm tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người đàn ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn mặt mình trong
tấm gương, cũng bệ rạc, mệt nhoài như ông
Ông già nghĩ, không ngạc nhiên
cái con mẹ gì hết:
Tên đàn ông
này, là tớ
Và lơ đãng, ông lấy tay của mình
sờ bộ râu của mình
Và cái miệng, cũng của mình
Một cái miệng tan hoang, bị thời gian ăn mòn
đến nhão nhẹt, mếu máo.
Tới giờ lên tầu rồi, cha nội!
Ông lầm bầm với chính mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào bi khúc, nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài, những bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh ngạc, bỡ ngỡ của nó,
sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có 1 thời,
Là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền!
Trang Thanh
Tâm Tuyền
Đọc Thanh
Tâm Tuyền
[art2all]
Dọc Đường
Đây là cái truyện
ngắn TTT chọn, cho tuyển tập “Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê
Hương Chúng Ta”, của Nguyễn Đông Ngạc.
Hình ảnh người đàn ông, ôm
bọc, đứng bên lu nước, chẳng nhà nào dám
chứa, in lên nền trời, mỗi lần hỏa châu rực sáng,
là hình ảnh 1 tên Mít lưu vong, đếch
nước nào nhận, sau 1975.
TTT, chính ông, cũng không thể nào
tưởng tượng ra được, tính tiên tri khủng khiếp của,
chỉ 1 hình ảnh, ở đây, hay, chỉ 1 nhân vật, thí
dụ Kiệt, trong MCNK.
-Ai ở ngoài đó?
Người đàn ông cúi nghiêng
xuống ngang mặt với lỗ hổng:
-Tôi lỡ độ đường.
-Chú kiếm ai?
-Dạ không, thưa bác con kiếm chỗ ngủ
tối nay. Bác cho con ngủ nhờ.
Bên trong im lặng khá lâu, tiếng
thì thào rồi nghe giọng già run rẩy:
-Thôi chú ơi, tôi tu hành
chú đừng phá tôi.
-Thưa bác, thiệt tình con lỡ độ đường.
Con đi kiếm thằng em mần trong đồn điền cao-su lại lên lộn
xe. Giờ không có xe về. Bác cho con ngủ đậu một
tối. Mơi con đón xe về sớm.
-Thôi mà chú, chú kiếm
nơi khác. Tôi tu hành mà.
-Không đâu họ chịu cả. Bác làm
phước thương con.
-Tôi biết chú nói thật. Nhưng
chú thương chúng tôi. Chúng tôi
không làm hại ai cả. Chú cảm phiền. Trong nhà
chỉ có mấy bà cháu không có đàn
ông. Lỡ ra tội nghiệp chú ơi…
-Thưa bác con thiệt tình. Con không
gạt. Con đi kiếm người em.
Bỗng trong nhà có tiếng thiếu nữ ngắt
ngang:
-Bà tôi nói thiệt mà. Khi
không tới đòi ngủ đậu. Ai mà tin được. Tụi
tôi la là lính trên đồn nghe thấy xuống
tới.
-Tôi thiệt tình mà cô Hai.
-Thiệt hay không thiệt cũng không ai chứa
người lạ trong nhà.
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ hổng đóng
xập lại và tiếng chân chạy trong các nhà,
Mọi cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ tiếp theo còn
cách xa. Người đàn ông dáo dác
ngó ra đường. Trên trời phía rừng cao-su trái
hỏa pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi
tắt. Tiếp theo một trái hoả pháo khác. Người đàn
ông đứng ôm bọc giấy bên lu nước.
Bài thơ sau đây, Borges, làm,
theo ý TTT, cho anh tí Paris, để anh làm thi
sĩ.
Paris, 1856
The long prostration has accustomed him
To anticipate his death. His concrete dread
Is going out of doors into the whim
Of day to walk about with friends. Ravaged,
Heinrich Heine thinks about that river
Of time that slowly moves away into
That lingering penumbra and the bitter
Hurt destiny of being a man and Jew.
He thinks about exquisite melodies
Whose instrument he was, and yet he knows
The trilling doesn't come from trees or birds
But time and from the days' slim vagaries.
And yet your nightingales won't save you, no,
Nor nights of gold and flowers sung in your words.
-W.B.
To Alexander
Pushkin
I dearly, dearly
long to be with you,
to sit and chat with you, drink
tea with you.
You'd do the talking - I would
be all ears;
your voice grows ever dearer
with the years.
You, too, knew grief and fury
and disdain;
you, too, died slowly, slowly
and in pain.
(1958)
Robert Chandler
Gửi ông nhà
thơ của GCC
Gấu thèm ơi là thèm lại ngồi
với ông anh nhà thơ
Ở Quán Chùa chứ ở đâu nữa
Thèm ly cà phê, cái
bánh sừng bò
Ông anh nói,
Thằng em dướn dài cổ nghe
Giọng ông anh ngày càng âm
u
Cái gì gì,
Tên tội đồ, đứa con tư sinh, trở về cố quận...
Nhất là sau khi ra tù
Ông anh, tất nhiên thì rất
rành đau thương, giận dữ,
Và khinh bỉ, chán chường
Lũ chó
Từ từ đi xa, từ từ đi, trong đau đớn.
*
No more brushing
of teeth
or shaving of cheeks.
'There are things you must say
before you die.'
Eternity's door stands open wide.
And 'It's time, my friend, it's time!'
Time for mind and heart to be clear
and give life a heart-warming cheer.
Time for the wise words of the old
whose soul is at peace with the world ...
Before I die
I have nothing to say.
(1958)
Robert Chandler
GCC có phán nhảm, TTT không
có bạn.
Ba vị trên quả quá xứng đáng là
bạn của ông
Cung Trầm Tưởng & Cung Tiến & Tô Thùy
Yên, trong tang lễ TTT, hình từ video.
Susana Bombal
Tall in the evening, arrogant, aloof,
she crosses the chaste garden and is caught
in the shutter of that pure and fleeting instant
which gives to us this garden and this vision,
unspeaking, deep. I see her here and now,
but simultaneously I also see her
haunting an ancient, twilit Ur of the Chaldees
or coming slowly down the shallow steps,
of a temple, which was once proud stone but now
has turned to an infinity of dust,
or winkling out the magic alphabet
locked in the stars of other latitudes,
or breathing in a rose's scent, in England.
She is where music is, and in the gentle
blue of the sky, in Greek hexameters,
and in our solitudes, which seek her out.
She is mirrored in the water of the fountain,
in time's memorial marble, in a sword,
in the serene air of a patio,
looking out on sunsets and on gardens.
And behind the myths and the masks,
her soul, always alone.
-A.R.
-Buenos Aires, November 3, 1970
J.L. Borges
BHD
Cao, buổi chiều, ngạo mạn, xa cách
Nàng lững thững trong khoảnh vườn tao nhã
Và được khắc họa, vĩnh viễn vào thiên thu,
Cái khoảnh khắc trong trắng và bềnh bồng.
Chính khoảnh khắc này đem đến cho chúng ta
Ngôi vườn
Cùng viễn ảnh của nó,
Lặng câm, sâu thẳm.
Gấu nhìn thấy nàng, ở đây, và bây
giờ
Nhưng cùng lúc
Gấu cũng nhìn thấy nàng
Nhức nhối, ám ảnh
Một “Ur of the Chaldees” cổ xưa, chập choạng ánh hoàng
hôn
Hay chậm rãi trải những bước chân
Ở Đền Thiêng, với cái tên cúng cơm ngày
nào của nó là Xề Gòn
Hòn Ngọc Viễn Đông
Nay biến thành 1 thiên thu bụi
Hay nhể ra - như nhể, nghêu sò ốc hến ở khu Nguyễn
Tri Phương cũng của một Xề Gòn ngày nào -
Từ bảng mẫu tự thần kỳ
Được khóa chặt, đóng kín
Ở trong những vì sao
Của những vĩ độ khác.
Hay tắm trong hương thơm của chính nàng, một bông
hồng,
Cái gì gì, những bông hồng của bông
hồng
Hay, những bông hồng chẳng hỏi vì sao
Của Xề Gòn trước 1975
Nàng ở đâu, âm nhạc ở đó
Và ở trong
Màu xanh dịu dàng của bầu trời
Những âm tiết Hy Lạp
Những nỗi cô đơn của chúng ta
Chúng tìm ra nàng,
Nàng ánh lên từ mặt nước, cái vòi
nước
Ở trước nhà nàng
Thuở nàng còn ở đường Phan Đình Phùng
Trong tấm bia tưởng niệm của thời gian
Từ 1 cây gươm
Trong không gian thanh thản của 1 cái quán cà
phê hủ tíu
Trên con phố dẫn tới ngôi trường Gia Long ngày
nào của nàng
Nhìn ra hoàng hôn
Nhìn ra những khoảnh vườn
Và ở sau những huyền thoại và những mặt nạ
Là linh hồn nàng
Luôn luôn cô đơn
“Ur of the Chaldees”
https://rsc.byu.edu/archived/pearl-great-price-revelations-god/where-was-ur-chaldees
Murakami, trong bài viết trên tờ Người Nũu Ước, Gấu
đọc hồi mới ra ngoài này, khi ông chưa nổi tiếng,
và xứ Mít chưa hề biết tới ông, cho biết, ông
mặc khải, là nhà văn, khi đang coi 1 trận hockey, của Mẽo,
và cho biết thêm, dân Nhật không tin, có,
cái gọi là mặc khải
Đài Sử, thi sĩ, ông con trai của TTT, cũng có
lần hỏi GCC về cái lần đầu, Gấu được bạn Chất, ông em nhà
thơ, dẫn về nhà, và nhìn thấy ông già
của anh, là TTT, ngồi thu lu ở 1 góc nhà, đưa cả hai
chân lên ghế, viết văn, chẳng thèm nhìn ra đời,
chẳng thèm nhìn ai hết, và Gấu bèn ngộ ra là,
đây chính là hình ảnh của chính mình,
chứ không phải của chỉ TTT.
DS hỏi, có đúng như thế, có đúng là
mặc khải, như thế?
Đúng như thế, mà còn không chỉ như thế,
mà còn quá như thế!
Tếu thế!
Ấy là vì, Lão Tặc Thiên, chính
Lão, cũng… sợ, như DS, sợ, Gấu không nhận ra cái
phút “linh cầu mặc khải trọng đại” như vậy, bèn tạo ra
hai cú mào đầu - dùng từ của lũ Vẹm, Tổng Diễn Tập,
thí dụ, Quỳnh Lưu, là Tổng Diễn Tập sửa soạn cú Cách
Mạng Tháng Tám –
Cú mào đầu thứ nhất, giới thiệu tờ Sáng Tạo,
qua anh bạn học Nguyễn Hải Hà.
Cú thứ nhì, giới thiệu cuốn Bếp Lửa, qua lần đọc cọp
nó, trên đường phố Sài Gòn
Phải có 2 cú mào đầu như thế, rồi mới
tới cú, phát giác ra sự thực: Hình ảnh TTT
đang ngồi đó, là hình ảnh suốt cuộc đời Gấu sau
này.
Khủng khiếp thực!
Quái đản thực!
Có thể nói, Tên Già, Thánh Thần
sao không vật chết Nó đi, sau cú Lò Thiêu,
Lò Cải Tạo, quả có đặc biệt chiếu cố GCC!
Khủng khiếp, quái đản, quả thế thực.
Nhưng thua xa TTT, khi tạo ra 1 anh chàng Kiệt!
Bạn đọc chắc còn nhớ, O, 1 trong hai vị bằng hữu cực thân
thiết, và cũng cực là cần thiết, của GCC & Tin Văn, đã
từng nhạo Gấu, là, mi lãng mạn quá, làm gì
có được 1 tên Bắc Kít ngu.
Tên nào tên đó, khôn cực khôn,
và những tên cực khôn, đến Thượng Đế mà cũng
phải ớn chúng, bèn thiến 1 mẩu não của chúng,
không thì bỏ mẹ, chúng, không chỉ biến cả thế giới
thành bãi đánh hàng, mà còn cướp
ngay cái chỗ ngồi của Thượng Đế!
Nhưng, quả là TTT đã sáng tạo, tưởng tượng ra,
đúng hơn, 1 tên Bắc Kít cực kỳ cù lần, chạy
thoát cuộc chiến, nhưng vội bò về, để kịp chết.
Làm sao mà ông anh của GCC lại tạo ra nổi một
phép lạ, mà chính Chúa cũng không đủ
lãng mạn, tạo ra?
En
attendant SN
Cám
ơn
01/31/13 at 10:32 PM
Mấy bữa nay bác viết hay ghê – hết
viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
08/30/12 at 9:11 PM
Khong sao!
Subject: Re: Tham
Sorry
NQT
Thì ông chồng tôi cũng bắc kỳ
vậy… đoạn bác viết về Sến-Ngô Bảo Châu, bác
khinh không chừa một ai ngoài Bắc!
Tôi là Bắc Kỳ mà.
All My Best Wishes to U and Family
NQT
Trời ơi, sao bác miệt thị người Bắc dữ vậy,
bác thù tới tận xương tủy, bác làm
tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu Ước)
ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra được
một người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì xin
Chúa tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không
tìm ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng mạn» quá,
cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của các
nhân tài.
Mong bác sức khỏe sống lâu để chờ
ngày đó.
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe18.htm
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe19.htm
[Note: Links broken]
Tks. NQT
Nhờ làm trang TV mà
quen được hai vị [O & K], quả
là không uổng quãng đời lưu vong!