|
Tưởng
niệm Simone Weil
SIMONE
WElL WATCHES THE RHÔNE
VALLEY
I found her in front of the
house, sitting on a stump,
sunk in contemplation of the Rhone Valley
... -Gustave Thibon
Suddenly
she doesn't
comprehend,
but only watches:
the Valley of the Rhône opens
in the earth,
old villages appear above it,
broad scrawls of vineyards,
thirsty wells.
The plane trees slowly reawaken,
roosters resume their
stubborn march,
hawks mount the sky again,
and now she almost sees the
light breath of larks,
mounds shouldered up by black moles,
farm roofs, walnut trees,
church towers curled like
tobacco,
dark fields of ripe grain,
scythes glittering,
baskets of grapes.
In the shade of the juniper
death hovers,
war is near.
The broad Rhône's mercury
oozes down the valley
with its barges and boats;
a moment of forgiveness,
an instant's bliss,
the olive tree of
nothingness.
Adam Zagajewski
Without End
Simone
Weil
Full name Simone Weil
Born 3 February 1909
Paris, France
Died 24 August 1943 (aged
34)
Ashford,
Kent,
England.
Czeslaw Milosz
có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I
Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin
Văn sẽ post và cố gắng dịch bài
này gửi tới độc giả.
Gấu biết
đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả
từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ
tờ báo khuynh
tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt,
chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc
nỏm, tâm đắc… với những vần thơ của Mai a
cốp
ki, của Ê
ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì
những vần
thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã
sống đời ta
như là một con chó!
Cái sự vờ những nhà văn có
một thời say mê CS, và sau này tỉnh giấc "hôn thuỵ", theo Gấu, là một
trong những lỗi lầm nặng nhất của Yankee mũi tẹt. Vờ, và tiếp tục bơm
thổi những nhà văn, nhà thơ vệ quốc, như Maia, Êrenbua, Ép vô chen
khô... Đám này, anh nào chị nào lương tâm cũng có cứt.
Ngay ông Trùm văn học xã hội chủ nghĩa là Gorki, người cũng đầy cứt, và
đã từng phán, cái đám dân quê ngu ngốc, cho chết mẹ hết đi, để một
giống dân mới nẩy sinh từ đó (1)
(1) The humane Maxim
Gorky, in
1922, had expressed the hope that "the uncivilized, stupid, turgid
people
in the Russian villages will die out, all those almost terrifying
people ...
and a new race of literate, rational, energetic people will take their
place."
Now Stalin was intent on granting his wish.
Sói với Người
Đám già vờ, đám trẻ cũng vờ,
vì chúng đâu cần. Cái quá khứ chống Mỹ cứu nước không có chúng, cái vụ
làm thịt
Miền Nam
tuy chúng có phần kít, nhưng đâu phải chúng trực tiếp nhận [hàng, đầu
hàng] Miền Nam [ruột
thịt]?
Chúng tự hào chúng sạch, và để chứng tỏ, chúng đọc những tác giả khác,
hợp
thời, hợp gu với chúng. Chúng còn viết văn bằng tiếng của tụi mũi lõ,
hoặc lấy
chồng mũi lõ, tếch thẳng.
Trai ngay thờ Chúa, Gái thuận, gái ngoan này
thờ Chồng!
*
Thời
gian của người
Đây
là lúc để thừa nhận - để rú lên, hay để
gào khóc -
Ta đã sống đời ta như một con chó...
Ilya
Ehrenburg
Đó là những dòng thơ Ehrenburg viết một năm
trước khi chết. Nhà thơ, nhà văn, và trên tất cả, nhà báo nổi tiếng
nhất trong
số những người cùng thời tại Liên Bang Xô Xiết. Chẳng bao giờ được chế
độ tin
cậy, ngay cả những khi lên đến tột đỉnh của vinh quang. Bị khinh khi
bởi những
người chống Stalin. Nạn nhân của những mâu thuẫn nội tâm vô phương hòa
giải.
Cuộc đời của I. Ehrenburg đày những đau thương, ray rứt. Bản chất dễ
xúc cảm
trước những đau khổ của con người, nhưng chút nhân tính đó chẳng là gì
so với
sự yếu đuối vì còn phải lo cho an nguy bản thân, phải làm sao đừng
thiếu thốn
một chút tiện nghi, cuối cùng ông đành xả thân phụng sự hết mình cho
chế độ phi
nhân, cho dù luôn luôn bị xâu xé bởi tình yêu nước Nga và lòng trung
thành với
gốc Do thái của mình. Ông chết năm 1967, "nát bấy người", kể cả tinh
thần lẫn thể xác, trong niềm hoài nghi về những "nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành", trong niềm ăn năn về những thỏa hiệp liên quan đến vấn đề đạo
đức,
nhân phẩm.
Cuộc đời ông có thể chia làm
ba giai đoạn. Giai đoạn đầu kéo dài tới năm 1932, khi cư ngụ ở Paris, ông trở
thành phóng viên cho nhật báo
Izvestiya. Từ đó tới năm Stalin chết, 1953, ông là "tuyên truyền
viên" nổi tiếng cho Stalin, đầu tiên là để chống Phát-xít, sau tới Hoa
Kỳ.
Sau khi Stalin chết, ông đóng vai nhập nhằng giữa một kẻ bảo vệ đường
lối mới
chống-Stalin, trong khi cố gắng cùng lúc, làm sao "ổn thỏa" với quá
khứ.
Sinh tại Kiev, trong một gia đình Do thái khá
giả, đã được đồng
hóa, hội
nhập, Ehrenburg luôn cảm nhận gốc rễ Do thái của ông. Năm 1905, 15
tuổi, do ảnh
hưởng của bạn là Nicholas Bukharin, ông gia nhập Bolshevik. Tuy nhiên,
không
được bao lâu, ông bỏ đảng. Năm 1908, ông rời đi Paris. Nơi đây trở thành nhà của ông,
mãi tới
năm 1940, khi Đức chiếm đóng. Ở đó ông sống một cuộc đời lãng du, quen
biết đám
trí thức nổi tiếng Pháp, đây là một "tài sản quí giá" của ông đối với
nhà cầm quyền Xô Viết. Khi cuộc cách mạng tháng Hai xẩy ra, ông trở về
Nga. Ông
không chấp nhận cuộc nổi dậy của Bolshevik, kết án những kẻ cầm quyền
mới là đã
ngăn cấm tự do ngôn luận. Để trốn chạy ông rời đi Kiev, ở đó, ông viết báo chống
Bolshevik, tố
cáo những người theo Lênin là những tên hiếp dâm, những kẻ tiếm quyền,
thề
nguyền không một thứ quyền lực nào bắt buộc ông phải sống bằng "sắc
luật
này tới sắc luật khác". Sau khi Hồng Quân chiến thắng Bạch Vệ, chiếm
đóng Ukraine,
ông
xin xuất cảnh. Với sự giúp đỡ của Bukharin, đầu năm 1921 ông trở lại
Paris,
tiếp tục cuộc sống trước 1917, viết ào ạt. Trong vòng 10 năm, 19 cuốn
sách,
chưa kể bài viết linh tinh, có vài cuốn được in tại Nga. Cuốn quan
trọng nhất,
Julio Jurenito, 1921, Berlin,
tố cáo sự toa rập giữa chế độ Stalin và Nazi. Cuốn sách làm ông nổi
tiếng tại
quê nhà và đây là tác phẩm văn học lớn lao nhất, và cũng là độc nhất
của ông.
Cùng với việc ngôi sao quyền
lực của ông Trùm Đỏ ngày càng sáng tỏ, và đời sống kinh tế, tiền bạc
ngày càng
khó khăn, khó kiếm, Ehrenburg từ bỏ văn chương, ngả sang chính trị.
Trong những
bài viết, bài nói, ông lên tiếng chỉ trích Balan, Pháp, Hoa-kỳ, bảo vệ
Liên
Bang Xô Viết. Stalin tỏ ra có thiện cảm vô bờ với gã émigré, một
ứng viên rất hợp khẩu vị của ông: trí thức Do thái với một quá khứ
chống-Bolsevik,
giao du với những "tinh hoa, trí thức" tại thủ đô văn hóa Paris. Mối thiện
cảm cho
thấy cuộc đời Ehrenburg được cứu rỗi, về vật chất, nhưng thảm kịch tinh
thần
của ông cũng bắt đầu.
Vào đầu thập niên 1930, Ehrenburg viết một cuốn
tiểu
thuyết, theo tinh thần "hiện thực xã hội chủ nghĩa", đặt tên là
"Hết thời hỗn mang", ca tụng hết lời chủ trương kỹ nghệ hóa của
Stalin. Ông tự mình in lấy vài trăm cuốn, gởi một mớ tới mấy cơ quan lo
việc
xuất bản ở Moscow, và một mớ, tới Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Mớ
trước bị vứt
vào sọt rác, nhưng trước sự ngơ ngác của tất cả mọi người, Stalin tỏ ra
rất
thích thú, và ra lệnh cho Radek viết bài ngợi ca. Khỏi nói, sách được
in ra cấp
thời. Ở Paris,
Ehrenburg trở thành nhà văn Xô viết đầy đủ lông cánh. Đừng ai đụng tới
ông ta,
con cưng của Stalin. Ông trùm đỏ vốn ban ân sủng theo lối tùy hứng,
nhưng trong
trường hợp Ehrenburg, Stalin có tính toán trước. Nhà độc tài cần, và
Ehrenburg
sẵn sàng chấp nhận, vai trò vị đại sứ của Stalin tại khu vực Tả phái Âu
châu.
Trước hết là chống Phát-xít. Năm 1934, Ehrenburg viết thư cho Stalin,
đề nghị
thành lập liên hiệp quốc tế chống Phát xít: "Tình hình ở Tây Phương rất
thuận lợi. Đa số những nhà văn tài năng nhất, vĩ đại nhất, nổi tiếng
nhất thành
thực muốn gia nhập với chúng ta trong việc chống Phát xít." Để thí dụ,
ông
kể tên Romain Roland, Thomas Mann, Henrich Mann. Lá thư này đã khiến
cho chính
sách của Xô Viết thay đổi, trước đó vốn không chấp nhận bất cứ một sự
cộng tác
nào của đám trí thức nước ngoài, những người không "tam cùng" với chủ
nghĩa CS. Stalin "chịu" đề nghị của Ehrenburg và ra lệnh cho Lazar
Kaganovich và Andrei Zhdanov cùng làm việc với ông. Cuộc xâm nhập văn
hóa này
tỏ ra rất thành công, kể cả trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nó tạo một
dư luận
thuận lợi cho Liên Bang Xô Viết, vô địch cho tự do và hoà bình của mọi
thời,
trong khi sự thực đây là thời gian ở trong nước, Liên Xô đang huỷ diệt
mọi tự
do, và đang trên đường hung hăng điên cuồng sửa soạn chiến tranh. Đám
nhà văn,
khoa học gia, nghệ sĩ nổi tiếng thế giới, mù tịt về thực tế Xô Viết,
ngây thơ
tin tưởng, chỉ còn Russia là có thể cứu vớt loài người khỏi chủ nghĩa
tư bản
bịnh và Nazi quỷ. Qua tài phù thuỷ của Ehrenburg, các Phong Trào, Mặt
Trận...
mọc lên như nấm. Hết chống Phát-xít tới đế quốc Mỹ. Hết Hội nghị Nhà
văn tới
Hội nghị Hòa bình... Chính ông đã "dụ khị" André Malraux và André
Gide viếng thăm Liên-xô.
Trong đời, Ehrenburg đã từng trích dẫn lời
khuyên của
Tolstoy:
(1) Đừng bao giờ viết bất cứ một điều gì mà anh không quan
tâm. (2)
Đừng bao giờ viết vì tiền. (3) Nếu anh không thể viết điều anh muốn,
đừng viết
gì hết. Ông đã "vi phạm" cả ba, lúc điều này, khi điều nọ, tùy theo
nhu cầu, giai đoạn. Với tư cách phóng viên của nhật báo Izvestiya, ông
du lịch,
viết bài về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Là cái loa tuyên truyền cho
Xô-viết,
ông cố tình lờ đi việc thủ tiêu dã man bởi đám đồ tể của Stalin, tại
Tây Ban
Nha, đối với những phần tử vô chính phủ (anarchists), và những người xã
hội
theo Trotsky.
Tiếp theo đó là "thời khổ ải" đối với ông. Thời kỳ
1936-37, ông đành phải nhắm mắt ngậm bồ hòn, trước những "vụ án" đối
với đám cựu trào Xô-viết bị buộc tội do thám và âm mưu lật đổ. Ông có
mặt tại Moscow
khi xử án
Bukharin, bạn thời niên thiếu và cũng là người che chở Ehrenburg. Ông
Trùm Đỏ,
vốn là một tay sa-đích bậc thầy, đã ra lệnh cho Ehrenburg phải có mặt
tại phiên
tòa. Ông "mần thinh" trước công lý bị chà đạp, và bạn ông bị xử tử
sau đó. Trong thời gian Liên-xô "đi đêm" với Quốc Xã, Moscow cảm thấy
cái loa chống-Nazi của ông bất thuận lợi, cho nên Izvestiya vẫn tiếp
tục trả
lương cho ông nhưng không đăng bài. Rồi hiệp ước bất tương xâm
Stalin-Hitler nổ
bùng ra. Hiệp ước phản bội tất cả những gì mà Ehrenburg coi là thiêng
liêng cao
cả. Trong vòng 8 tháng trời, ông không nuốt nổi đồ ăn, sống nhờ rau cỏ,
sút 40
pounds. Trong thời gian chiến tranh, mhững bài viết của Ehrenburg trên
tờ báo
Hồng Quân được đích thân Stalin kiểm duyệt mỗi ngày. Lòng hận thù, sự
ghê tởm
đối với quân đội Đức do những bài viết tạo nên, đôi khi khủng khiếp đến
độ, lính
Nga tàn sát hàng loạt binh sĩ Đức, cho dù họ đang sửa soạn để đầu hàng.
Hận
thù, một phần do lòng ái
quốc, do gốc rễ Do thái, nhưng chủ yếu là ông không ưa người Đức, bởi ý
thức hệ
của họ, cũng như những sắc thái đặc biệt của dân tộc này. Ngay từ khi
còn là
một đứa nhỏ, trong một lần viếng thăm Đức quốc, Ehrenburg khám phá ra
một điều,
xe lửa của Đức chạy rất đúng giờ. Đối với cậu bé Ehrenburg, chỉ có quỉ
sứ mới
làm nổi chuyện đó!
Note: Theo bài điểm sách của
Richard Pipes: "Tangled Royalties": The life and times of Ilya
Ehrenburg,
tác giả Joshua Rubenstein, nhà xb Tauris, 464 trang,1996, đăng trên tờ
The
Times Literary Supplement, Oct 4, 1996.
R. Pipes là nhà sử học Harvard, cuốn
sách sắp xb của ông là The Unknown Lenin.
NQT
*
Có lần, Gấu nhắc tới
một ẩn dụ,
về một cái trứng chim, rớt xuống đất, may sao không vỡ, và được một con
vịt ấp.
Trứng nở ra chim, được vịt nuôi, thành ra cứ nghĩ mình là vịt, không
biết bay. Vịt, do không phải là chim, nên không biết, cái cú, đạp
con
chim non ra khỏi tổ, để cho nó tập bay.
Cái số phận của con chim được vịt
nuôi này,
là số phận Yankee mũi tẹt, suốt đời tin vào Đảng, còn Đảng, do ngu quá,
không biết đạp nó ra khỏi tổ, cho nó tập bay!
Cái đám Yankee mũi tẹt, chỉ đọc
được văn học vệ quốc Liên Xô, chẳng phải giống con chim được vịt nuôi ư?
Ui chao, tình cờ, do dọn nhà,
vớ được cuốn tập của cô học trò trong Bụi ngày nào, trước khi đi tái định
cư,
tặng thầy, cùng bức hình, làm chút kỷ niệm.
Cô
nói, bức hình, em tặng cô,
không phải tặng thầy!
*
The
bird and the egg.
Once
upon a time, there was a
bird which did not have the power of flight. Like a chicken he walked
about on
the ground, although he knew that some birds did fly.
It so happened that, through
a combination of circumstances, the egg of a flying bird was incubated
by this
flightless one. In due time, the chick came forth, still with the
potentiality
for flight which he had always had, even from the time when he was in
the egg.
It spoke to its foster-parent,
saying: “When will I fly?” And the land-bound bird said: “Persist in
your
attempt to fly just like the others”. For he did not know how to take
the fledgeling
for its lesson in flying, even how to topple it from the net so that it
might
learn.
And it is curious, in a way
that the young bird did not see this. His recognition of the situation
was
confused bay the fact that he felt gratitude to the bird which hatched
him. “Without
this service”, he said to himself, "surely I would be still in the egg”.
And again, sometimes
he said
to himself: “Anyone who can hatch me, surely he can teach me to fly. It
must be
a matter of time, or of my own unaided efforts, or of some great
wisdom, yes,
that it is! Suddenly one day, I will be carried to the next state by
him who
has brought me thus far”!
Nếu không có Đảng ấp ủ, chắc là tôi vẫn còn ở bên trong cái vỏ chim!
Kẻ nào ấp ủ tôi, thì cũng sẽ dậy tôi biết bay. Đây là vấn đề thời gian,
hay do sự cố gắng của riêng tôi mà không cần đến sự giúp đỡ, hay nhờ
một sự khôn ngoan nào đó, chắc hẳn vậy!
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil
Nước
Pháp dâng tặng một món
quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự
hiển hiện
ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả
những qui
luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy
ra
Czeslaw Milosz
có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I
Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin
Văn sẽ post và cố gắng dịch bài
này gửi tới độc giả.
Gấu biết
đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả
từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ
tờ báo khuynh
tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt,
chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc
nỏm, tâm đắc… với những vần thơ của Mai a
cốp
ki, của Ê
ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì
những vần
thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã
sống đời ta
như là một con chó!
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil
Nước
Pháp dâng tặng một món
quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự
hiển hiện
ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả
những qui
luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy
ra.
*
The
great mistake of
the Marxists and of the whole of the nineteenth century was to think
that by
walking straight ahead one would rise into the air."
Simone Weil
"Lầm lẫn lớn nhất của những người Mác xít và trọn thế kỷ 20 là đã nghĩ
rằng, cứ bước thẳng tới, là có thể bay lên trời!"
Mấy anh VC chẳng đã từng bốc phét, với sức người sỏi đá cũng thành cơm!
*
In
1938 Simone Weil, to use her words, was "captured by Christ."
Nobody has the right to present her biography as a pious story of
conversion.
We know the pattern: the more violence the turn, the more complete the
negation, the better for educational purposes. In her case, one should
not use
the term "conversion”. She says she had never believed before that such
a
personal contact with God, was possible. But she says through all her
conscious
life her attitude had been Christian " I quote: "One can be obedient
to God only if one receives orders. How did it happen that I received
orders in
my early youth when I professed atheism?" I quote again: "Religion,
in so far at, source of consolation, is a hindrance to true faith: in
this
sense atheism is a purification. I have to be atheistic with the part
of myself
which is not for God. Among those men in whom the supernatural part has
not
been awakened, the atheists are right and the believers wrong."
The unique place of Simone
Weil in the modern world is due to the perfect continuity of her
thought.
Unlike those who have to reject their past when they become Christians,
she
developed her ideas from before 1938 even further, introducing more
order into
them, thanks to the new light. Those ideas concerned history, Marxism,
science.
Violent
in her judgments and
uncompromising, Simone Weil was, at least by temperament, an
Albigensian, a
Cathar; this is the key to her thought. She drew extreme conclusions
from the
Platonic current in Christianity. Here we touch perhaps upon hidden
ties
between her and Albert Camus. The first work by Camus was his
university dissertation
on Saint
Augustine.
Camus, in my opinion, was also a Cathar, a pure one, and if he rejected
God it
was out of love for God because he was not able to justify Him. The
last novel
written by Camus, The Fall, is
nothing else but a treatise on Grace - absent grace -though it is also
a
satire: the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses the
words of
Jesus and instead of "Judge not and ye shall not be judged" gives the
advice "Judge, and ye shall not be judged," could be, I have reasons
to suspect, Jean-Paul Sartre.
A few years ago I spent many
afternoons in her family's apartment overlooking the Luxembourg Gardens-at
her table covered with ink stains from her pen-talking to her mother, a
wonderful
woman in her eighties. Albert Camus took refuge in that apartment the
day he
received the Nobel Prize and was hunted by photographers and
journalists.
Milosz
Trong
Tản Mạn về Phim và Những ngày ở Sài Gòn, nhân thiên hạ
đang bàn về cuốn phim Mê Thảo, từ Chùa Đàn của Nguyễn Tuân mà ra, tôi
có “liều
lĩnh” coi Chùa Đàn, gồm ba phần, mang trong nó thai đố mà con nhân sư
đã đặt ra
cho Oedipe: con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, buổi
chiều ba. Thật
thú vị, mới đây thôi, đọc Adam Zagajewski trong bài tưởng niệm nhà thơ
Milosz vừa
mới mất trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, số đề ngày 23 tháng Chín 2004, Trí
Tuệ và
Bông Hồng, ông cũng coi cuộc đời của Milosz gồm ba giai đoạn, có thể
coi như
câu trả lời cho thai đố mà con nhân sư đặt ra cho thế kỷ 20.
*
Trong Native
Realm chúng ta thấy có những chương về lịch sử, và luôn cả, kinh tế,
như thể
Milosz muốn nói, tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy, là, thơ có thể được làm từ
không-thơ [nonpoetry], là, tứ thơ mạnh là nhờ được nuôi dưỡng tẩm bổ
bởi những
thức ăn của trần gian, chứ không phải do chúi mãi vào vùng nội tại, cõi
riêng
tư. Không bay bổng, cũng không “bỏ chạy” như là Đảng buộc tội, nhưng
thẩm thấu,
đó là phương pháp của Milosz. Không thẩm thấu khô khan nghèo nàn
[sterile], giống
như người ta tiêm nước biển ở bệnh viện, không khách quan, không bắt
chước –
ngươi ta làm thì mình cũng làm như vậy. Nhưng đây là một phương pháp
thẩm thấu
cá nhân, và theo một nghĩa nào đó, nó mang tính đạo hạnh, tới mức có
thể coi
đây là một phương pháp tu thân, tu đạo, bởi vì thơ là nhắm tới hiểu cái
không
thể hiểu, một phương pháp tri hành mà tôi muốn gọi là “nhân văn, nhân
bản”
[humanistic], nhưng từ này đã bị người đời quá lạm dụng ở trong những
sảnh đường
đại học, nên nó đã bị tổn thương, hư hại.
*
Ông là nhà thơ của thông minh lớn và
tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence and great ecstasy’]; thơ
của ông sẽ
không thể sống sót nếu thiếu hai món này. Thiếu thông minh, là sẽ rớt
vào trò
cãi tay đôi với một trong những đối thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn mủn,
tàn tạ
đi [bởi vì, những con quỉ của thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả
năng biện
chứng, chẳng những thế, chúng còn tự hào về những “biện chứng pháp” duy
này duy
nọ…]. Thiếu tuyệt cảm, làm sao vươn tới được những
ngọn đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ chỉ suốt đời
làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan tuyệt
cảm
[ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho
nhỏ của
sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu
hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.
Vào thời đại của Beckett, một nhà văn lớn lao,
dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn, Milosz bảo vệ chiều hướng tông giáo
của kinh
nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền được vuơn tới cõi vô cùng của chúng
ta. Bức
điện tín của Nietzsche, thông báo cho những con người ở Âu Châu, rằng
Thượng Đế
đã chết, bức điện đã tới tay Milosz, nhưng ông không từ chối ký nhận,
và cứ thế
gửi trả cho người gửi.
Tôi không
tin tưởng, rằng Milosz – như ông thường gọi mình như vậy – là một tay
Manichaean. Về tất cả những chuyện này, tuy nhiên, tôi nhìn thấy ở
trong thơ
ông, một sự gần gụi rất đặc thù, mà cũng rất hứng khởi, giữa tư tưởng
và hình ảnh,
giữa tranh luận và nhiệt tình, giữa thiên nhiên vùng California và ý
thức hệ của
thế kỷ 20, giữa quan sát và giao giảng sự thực. Milosz cũng còn là một
nhà thơ
chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái,
sẽ còn
hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập
dành cho
sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những
sinh viên đọc
Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948], giống
như một
triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng, khi
xẩy ra
phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho báo
chí Ba
Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ
ngữ
trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi
ích, cho độc
giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, tả tơi sau
thời gian
dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng thô bỉ
của [cái gọi
là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa nhất của thái
độ
chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những bước chân
của
Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền đam
mê siêu
hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường. Và
còn điều
này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà văn
thường
được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà hoạt
động xã hội
bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có một ý nghĩa
thật là
lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong tương lai.
Le Marxisme
1934
Sollicitée
par un camarade
syndicaliste de donner son avis sur le livre d'Henri de Man, Au-delà du
marxisme (1927), Simone Weil, qui le juge un peu faible, recommmande la
lecture
de Marx: «Avant d'aller "au-delà du marxisme", il serait bon de bien
connaître Marx lui-même, si déformé par presque tous les résumés et
commentaires» (Lettre à Alexandre Burnouf, 1933).
Cette remarque - à laquelle
tous les historiens ou philosophes sont prêts aujourrd'hui à souscrire
unanimement - dénonce l'état de misère théorique de la pensée marxiste
dans la France des
années 30. La culture marxiste était vraiment rudimentaire chez les
militants
qui se contentaient souvent de ressasser des lieux commmuns, rapidement
figés
en slogans.
Simone Weil, pour son compte,
surtout après son rapprochement avec le Cercle de Boris Souvarine, a
entamé une
analyse critique de la doctrine marxiste. Le texte qui suit fait
probablement
partie de ce corpus d'ébauches et fragments produits au moment et en
vue de
l'élaboration des Réflexions, et s'applique à mettre en évidence les
contradictions présentes dans la pensée marxiste, ainsi qu'une tendance
chez
l'auteur du Capital à introduire des concepts prétendument
scientiifiques qui
ne sont en réalité que des hypostases sécularisées de l'ancienne vision
religieuse du monde.
*
Le
marxisme est la plus haute
expression spirituelle de la société bourgeoise. Par lui elle est
arrivée à
prendre conscience d'elle-même, en lui elle s'est niée elle-même. Mais
cette
négation à son tour ne pouvait être exprimée que sous une forme
déterminée par
l'ordre existant, sous une forme de pensée bourgeoise. C'est ainsi que
chaque
formule de la doctrine marxiste dévoile les caractéristiques de la
société
bourgoise mais en même temps les légitime. À force de développer la
critique économie
capitaliste, le marxisme a fini par donner de larges fondements aux
lois de cette même
économie; l'opposition contre la politique bourgeoise a abouti à
revendiquer la
possibilité d'accomplir le vieil idéal de la bourgeoisie, cet idéal
qu'elle n'a
réalisé que d'une manière ambiguë, formelle, purement juridique, mais
de
l'accomplir en luttant contre elle, d'une manière plus conséquente
qu'elle et
vraiment concrète; la doctrine qui devait à l'origine servir à anéantir
toutes
les idéologies en démasquant les intérets qu'elles recouvrent s'est
transformée
elle-même en une idéologie, dont on devait par la suite abuser pour
diviniser
les intérêts d'une certaine classe de la société bourgeoise….
[suite]
Simone
Weil khác Simone Veil,
một chính trị gia Pháp, sống sót Lò Thiêu.
Paris Match
13 & 19 Janvier
2005
NY
Review Book 2005
Xuống
phố, vô tiệm sách, vớ được
cuốn trên. Đọc sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là quan
trọng, với
riêng GNV:
Tại làm
sao mà Gấu bị cái rìu phá
băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác,
tại ngay trung tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có
một chị/em song
sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là nữ, và đều tự tử.
Bởi vì
ngay cái tít của bài
Intro cho cuốn sách trên, đã giải thích: Đây là câu chuyện của
hai Iliads
Introduction: A tale of two Iliads
INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS
The
critic Kenneth Burke once
suggested that literary works could serve as "equipment for living,"
by revealing familiar narrative patterns that would make sense of new
and
chaotic situations. If so, it should not surprise us that European
readers in
times of war should look to their first poem for guidance. As early as
the fall
of 1935, Jean Giraudoux's popular play La
guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to
think of
their country as vulnerable Troy
while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the
play's English title). Truth was the first casualty of war, Giraudoux
warned.
"Everyone, when there's war in the air," his Andromache says,
"learns to live in a new element: falsehood."
Giraudoux's
suggestion that
the Trojan War was an absurd contest over empty abstractions such as
honor,
courage, and heroism had a sinister real-life sequel when Giraudoux was
named
minister of wartime propaganda in 1939. In the wake of Munich,
Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French
security
was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis, escaped from
the
ghettos of Poland
or Rumania.”
After
September 1939, the
analogy between the crisis in Europe
and the Iliad - which opens with broken truces
and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed altogether too
apt.
During the early months of the war, two young French writers of Jewish
background, Simone Weil and Rachel Bespaloff, apparently unaware of the
coincidence, wrote arresting responses to the Iliad
that are still fresh today. During the winter of 1940, Weil
published in the Marseilles-based journal Cahiers
du Sud her famous essay "L'Iliade,
ou le poème de la force." Three years later - after both Weil and
Bespaloff had fled France
for New York - Jacques Schiffrin, a
childhood
friend of Bespaloff's who had become a distinguished publisher,
published
"De l'Iliade" in New York under the
Brentano's imprint.
The
idea of bringing these
two complementary essays together was first pursued by Schiffrin and
Bollingen
editor John Barrett. After Mary McCarthy translated both essays into
English
plans were made to publish them in a single volume.' When rights to
Weil's
essay proved unavailable, Bespaloff's "On the Iliad"
appeared separately in 1947, as the ninth volume in the
Bollingen series, with a long introduction - nearly half as long as
Bespaloff's
own essay-by the Austrian novelist Hermann Broch, author of The
Death of Virgil. In their respective essays, Weil
and Bespaloff adopt some
of the same themes while diverging sharply in their approach and
interpretation. In her essay Weil condemns force outright while
Bespaloff
argues for resistance in defense of life's "perishable joys."
[suite]
NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD
SIMONE
WElL (1909-1943) was
one of the first female graduates of the Ecole Normale Superieure and
taught
philosophy in provincial schools from 1931 to 1938. A socialist, she
worked for
a time on the Renault assembly line and volunteered to fight against
the
Fascists in the Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil
to
convert to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of
baptism. Weil
fled France for the
United
States
in 1942, where, in solidarity with the people of Occupied France, she
drastically limited her intake of food, so hastening her early death
from
tuberculosis.
RACHEL
BESPALOFF (1895-1949) was born to a Ukrainian
Jewish family-her father was the Zionist theoretician Daniel
Pasmanik-and
raised in Geneva.
Bespaloff intended to pursue a musical career, but after an encounter
with the
thinker Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy.
One of the
first French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the
1930s
about Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green,
among other
philosophers and writers. In 1942, she left France
for the United States,
where
she worked as a scriptwriter for the French Section of the Office of
War
Information before teaching French literature at Mount Holyoke.
In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said
she she
was "too fatigued to carry on."
Tôi đọc
Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không
phải là
người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường
trực tham
dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm
trung
học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau
1954,
tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và
khách
sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây
giờ anh
mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa
từng bao
giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở
Việt Nam
cũng như khi đã chạy qua Cali
sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi
biểu tình xử sự như
anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong
câm
lặng.
Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc
lễ cầu siêu vĩ đại
nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã
ngã
xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò
hét chung quanh sự câm
lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là
“lịch sử
của quá khứ”?
Sự Câm
Lặng
|