Tribute
|
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
DTL.com
GNV cũng không
tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!
Bởi vì ngay
Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do
văn hóa,
cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của
Michael Scammell,
cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và
theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn
thêm!
Làm gì có
chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự
thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ
viết.
Sự thực, là,
tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!
Tuy nhiên, đọc
những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông
nhà văn này
cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài
Gòn, trên
chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông
nghe, về
mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa…
tiền, làm… chiến tranh, không phải làm báo
như MT! ( 1)
Koestler 1
Koestler 2
Arthur Koestler, Người của
Bóng tối
Không nhà văn nào của thế
kỷ 20 có được những tao ngộ ly kỳ như Arthur
Koestler: chơi toàn quái chiêu, gặp toàn những đấng hách xì xằng, có
mặt - ở
đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc - thảm họa xẩy ra!
27 tuổi Đảng, ông trải qua trận đói mùa đông 1932-33, ở Kharkov, giữa
hàng triệu
người dân Ukrainians ngắc ngoải và chết đói. Chạy kịp về phía nam nước
Pháp,
khi những binh đoàn Nazi xâm lăng nước Tây, ngay sau gót chân, vào năm
1940; chộp
được Walter Benjamin, cưa đôi với ông mẻ “ken”, và chỉ vài tuần sau,
triết gia
người Đức này chơi quá “liều” [liều lượng], tự mình cho phép mình đi
luôn. Tay
guru ghiền, dân Harvard, Timothy Leary đã từng chia cho Koestler những
mẻ thuốc
psilocybin, vào giữa thập niên 1960, “Phu nhân sắt” Margaret Thatcher,
đã nghe
theo những lời cố vấn của ông, trong cuộc tranh cử của bà vào năm 1979.
Simone de Beauvoir đã có
lần được 'hầu hạ' Koestler, nhưng sau đó lại tỏ ra thù
ghét ông và hư cấu thành một nhân vật cực kỳ thông minh, có tài làm đàn
bà vãi
linh hồn, đầm đìa hai chân!
V/v tài chăn gối, "trường
túc bất chi lao", của nữ hoàng hiện sinh de
Beauvoir, thì khỏi chê. Như đoạn sau đây, trên tờ TLS, trong bài điểm
cuốn hồi
ký của Lanzmann chứng tỏ:
The young Claude was, for several happy years, Le Castor’s live-in
lover, if
not her only one: before they first went to bed, she warned him
that six
other people were already in the frame.
Claude
Lanzmann's liberated memories
Nhà tù thay
đổi Koestler. Nó không khiến tinh thần ông nở rộ như trong trường hợp
của
Solzhenitsyn, hay của Mandela, nhưng nó chiếu sáng cho ông về cái tính
người mà
Âu Châu cần và thiếu. “Ý thức bị kiềm chế tác động như một loại độc
dược chậm,
ngấm ngầm biến đổi toàn bộ tính tình con người,” [“The consciousness of
being
confined acts like a slow poison, transforming the entire character,”]
(1) ông
viết. “Và, bây giờ, nó dần dần hé ra cho tôi thấy, trạng thái tâm lý nô
lệ thực
sự nghĩa là gì". [“Now it is beginning gradually to dawn on me what the
slave mentality really is.”] Vào lúc đó, những vụ án trình diễn ở
Moscow đang
diễn ra, với uỷ viên bộ chính trị trung ương Đảng là Nikolai Bukharin
thú tội
trước nhân dân về những tội ác mà ông không làm, không phạm, và xin
được nhà nước
khoan hồng bằng cách làm thịt ông! [LCD dám phải trình diễn màn này, để
đổi lấy,
nhà nước VC sẽ khoan hồng cho vợ con ông, thí dụ như vậy!] Ông anh/em
rể của
Koestler, một bác sĩ, bị buộc tội chích cho bệnh nhân vi trùng tim la.
Koestler bắt đầu nhìn ra tình anh em ruột thịt giữa chủ nghĩa CS và chủ
nghĩa
Phát Xít. Ông bye bye Đảng.
*
(1)
Ways of escape
Liệu giấc mơ
về một cuộc cách mạng, thỏa mãn
giấc mơ như lòng chúng ta thèm khát tương lai, của TTT, có gì liên can
tới ‘lực
lượng thứ ba’, vốn là một giấc mơ lớn, của Mẽo, nằm trong hành trang
của Pyle,
[Người Mỹ Trầm Lặng ], khi tới Việt Nam.
Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng bật
ra,
khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng
Leroy, Hùm
Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng
sách, Ways of
Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp
tùng
Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta.
Lần này,
thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên
mạn
thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh
tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là
CIA, [an
American attached to an economic aid mission - the members were assumed
by the
French, probably correctly, to belong to the CIA]. Không giống
Pyle,
thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét,
suốt trên
đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực
lượng thứ
ba ở Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi chưa giờ cận kề với giấc mộng lớn
của
Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại
Phi Châu.
Trong Người
Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York
Harding
– cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây
thơ,
nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một
nhà lãnh
đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible,
purely
nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân
Việt Nam,
và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS.
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người
Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực
lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những
nhân vật
theo sau, tất cả, [trừ Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of Escape.
Granger,
một ký giả Mẽo, tên thực ngoài đời, Larry Allen, đã từng được
Pulitzer khi tường thuật Đệ Nhị Chiến, chín năm trước đó. Greene gặp
anh ta năm
1951. Khi đó 43 tuổi, hào quang đã ở đằng sau, nhậu như hũ chìm. Khi,
một tay
nâng bi anh ta về bài viết, [Tên nó là gì nhỉ, Đường về Địa ngục,
đáng
Pulitzer quá đi chứ... ], Allen vặc lại: "Bộ anh nghĩ, tôi có ở đó hả?
Stephen Crane đã từng miêu tả một cuộc chiến mà ông không có mặt, tại
sao tôi
không thể? Vả chăng, chỉ là một cuộc chiến thuộc địa nhơ bẩn. Cho ly
nữa đi.
Rồi tụi mình đi kiếm gái."
Trong Tẩu Vi
Thượng Sách., Greene có kể về mối tình của ông đối với Miền
Nam Việt
Nam, và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không
có ý
‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và cái cú
đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử
xứ Mít,
nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn tiền’
như ngày
nay!
Ui chao, lại
nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư
Khổng
Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có ba
cách,
vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe
trình bày, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy
cứt, làm
sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!
Cú Phú Lợi đúng là như thế! Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả
như có,
là cả cuộc chiến khốn kiếp!
DTL
vs GNV
Và
cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng: Không,
đây là
phút "độc sáng" của Cái Ác Bắc Kít, suốt chiều dài lịch sử Mít: Chỉ có
cách đẩy
Miền Nam vào cái thế thù nghịch, thì mới phát động cuộc chiến thần
thánh được!
Cái này là diệu kế của BBP, nhưng do lũ VC nằm vùng thực hiện.
Ghi chú
trong ngày
Sự thực, như
đã trình bày ở trên, sự có mặt của tạp chí Sáng Tạo, một dấu mốc quan
trọng của
20 năm văn học miền Nam, chỉ là một tình cờ. Như bất cứ một tình cờ nào
khác
trong dòng sống.
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
Nguồn
DTL.com
Ông bạn thi
sỡi Du Tử Lê này, thú thực, đúng thứ ngây thơ cụ. Cái chuyện Xịa tài
trợ làm tờ
Sáng Tạo, thì rõ như ban ngày, nhưng những ông như Duy Thanh, Thanh Tâm
Tuyền,
và có thể cả Mai Thảo, khi ngửa tay nhận tiền, cũng không hề biết đó là
tiền của
Xịa.
Đây là trường
hợp đã xẩy ra cho rất nhiều tờ báo rất uy tín, với không biết bao nhiêu
là nhà
văn nhà
thơ Tây Phương, toàn những thứ hách xì xằng, cộng tác, không ai biết,
tờ báo do
Xịa chi tiền!
Người phịa
ra mặt trận chống tư bản, chống phát xít trước, hướng về cái nôi Cách
Mạng là Điện
Cẩm Linh, là Ilya Ehrenburg. Trên TV có giới thiệu.
Koestler, nhân
đó, mới đề nghị Mẽo mở ra Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa Tự Do, nhưng sau ông
cũng bị
Mẽo đá đít. Vụ này lý thú lắm, để thủng thẳng, Gấu trình bày tài liệu,
dẫn chứng.. sau!
Tờ HL cũng
có đóng góp của Xịa đấy, và của cả VC nữa, đấy. Còn KT đó, thử hỏi anh
ta thì
biết! Hỏi NT, hay NMG, cũng được. Vụ này, GNV nghe qua NMG, hình như
cũng đã lèm
bèm trên TV rồi. NTV hỏi lại KT, xừ luỷ xác nhận có. Tờ TC cũng được
đưa đề nghị,
nhưng một tay trong tòa soạn, [không phải NTV mà là TDT], từ chối,
không nhận.
Tiền VC tài
trợ HL, là danh sách độc giả dài hạn, do đám bỏ chạy bợ đít VC đóng
góp.
Người "sáng tạo"
ra cái ý nghĩ dùng tiền Xịa nuôi báo văn nghệ, không hề đòi hỏi, mi
phải chống
Cộng, chỉ cần viết thứ văn chương ra văn chương [thế là chống Cộng rồi]
là me
xừ Koestler.
Đây nè, ông
ta đang nói chuyện bữa khánh thành cái cơ quan, mà sau này, chi tiền
luôn cho cả
VP làm bộ VHMN, lẽ dĩ nhiên là dưới 1 cái ô dù khác, nhưng vẫn là đô la
Mẽo!
Ngay cả quỹ WJC gì gì đó,
chi tiền cho VC viết văn hàn gắn vết thương
chiến
tranh, xây dựng bộ mặt lưu vong Mít, theo 1 nghĩa nào đó, là cũng tiền
Xịa, nếu
chúng ta hiểu đúng đắn ý tưởng của Koestler, khi đề nghị Mẽo mở ra cái
gọi là Hội
Nghị vì Tự Do Văn Hoá.
Czeslaw
Milosz, thi sĩ, Nobel văn chương, cũng rất rành vụ này. Ông đã từng bốc
phét,
dư sức viết cả 1 cuốn sách về đề tài này, nhưng đếch thèm viết. Trên TV
cũng có
nhắc tới, để thủng thẳng, tìm coi nó ở đâu!
Cái vụ ra đời
của HL cũng ly kỳ và ‘cần thiết’ y chang cái vụ Koestler đẻ ra Hội nghị
Văn hóa
Tự Do [1950]. Số là, lúc đó, Đảng ta quá cần 1 tờ báo của phe ta, ở hải
ngoại,
mà phải 1 tên Ngụy, thứ thiệt, làm chủ thì mới ăn khách. Vớ được ngay
ông KT, còn
gì bằng, lính Ngụy thứ thiệt, ba gai ba ghiếc chẳng sợ thằng nào hết.
Thế là Đảng ra
lệnh cho Vịt Kìu iêu nước giúp nó 1 tay, tao ra mặt không tiện! Nhưng,
Xịa cũng
có ý nghĩ đó, mạt cưa mướp đắng gặp nhau là vậy. Thế là cũng vẫy vẫy
KT, đến đây
tao chi cho tí tiền.
Khổ 1 nỗi, Đảng
không khứng chuyện bắt cá hai tay như vậy. Và anh Xịa thì cũng không
tin KT làm
nên trò trống gì [dân lính tráng i tờ rít biết gì về văn chương, mấy
anh Xịa chắc
nghĩ thế], thế là bèn cho 1 tên agent qua VN thăm thú tình hình, coi tờ
HL có về
được trong nước hay không. Bị ngay VC tóm, chụp hình hồ sơ tài
liệu, rồi thả.
Đến khi NT về gặp ông em lo xb Đất Tầu Đất Ta, bị anh cớm VC tóm,
đưa
cho coi hồ sơ nhận tiền Xịa, và ra lệnh, đừng có về nữa, không, tao bắt
luôn, chứ
không đá đít ra khỏi cửa khẩu như Thầy Cuốc.
NT đâu có dám
về nữa!
Hà, hà!
Hội nghị vì
Tự do Văn hóa
Đọc đầu vào
[input] Congrès, pour la Liberté de la Culture, trong cuốn Milosz's
ABC's làm
Hai Lúa nhớ tới vụ MT nhận tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo.
Về cái vụ Hội
nghị này, tôi [Milosz] có thể viết cả một cuốn sách, nhưng viết làm
đếch gì.
Nói cho cùng, có hàng đống sách viết về cái gọi là "diễn biến hòa
bình" [cập nhật hóa cụm từ "liberal conspiracy": "âm mưu tự
do"], như nó được gọi. Một giai đoạn quan trọng trong Chiến Tranh Lạnh.
Vấn đề là
như thế này, Nữu Ước thì quá ưa, và quá ư, Mác xịt, trước khi cuộc
chiến xẩy
ra, và ở trong cái thành phố đó, hai băng đảng Trốt kít và Xì ta lin
nít, gặp
nhau là ăn tươi nuốt sống lẫn nhau [Milosz: eating each other].
[Hai Lúa
không hiểu, tình trạng có giống như Sài Gòn hồi trước Cách Mạng không].
Khi cuộc chiến
bùng nổ, tình báo Mẽo, OSS [The Office of Strategic Services], bèn muớn
một đám
tả phái ở Nữu Ước, của cái gọi là NCL, hay Tả nhưng đếch phải CS
[Non-Communist
Left]. Họ hiểu rất rõ sự quan trọng của ý thức hệ, đặc biệt là ở Âu
Châu, nơi bất
cứ một cái đầu nào kha khá một chút, là dính bả Cộng Sản.
[Hai Lúa lại
nhớ tới miền nam Việt Nam, những ngày 1954, ngoài cái đám di cư ra, còn
thì đều
là mê... miền bắc. Hai Lúa cũng đã có lần kể chuyện, vô nam, còn là
thằng con
nít, tới trình diện ông chú, Ông Th. Ông 'chưởi': Nước nhà độc lập rồi
dzô đây
làm gì?, trong Gòa không Goà không, và Tên Của Cuộc Chiến
Sau đó OSS đổi
thành CIA, và lập tức tiến hành cuộc chiến "phản-ý thức hệ", tức Chống
Cộng. Nhưng người đẻ ra cái ý nghĩ, thành lập một hội nghị Chống Cộng ở
Tây Bá
Linh vào năm 1950, là Arthur Koestler. Ông đã từng là một viên chức
Cộng Sản,
trong cái chuồng nổi tiếng Willi Munzenberg, vào thập niên 1930.
Koestler làm
việc cho trung tâm này. Bây giờ, ở Paris, sau khi cắt bào đoạn nghĩa
với Đảng,
ông mơ màng tưởng tượng làm sao thành lập được một cái đảng cũng giông
giống
như Đảng Cộng Sản, nhưng là vì lý tưởng tự do. Một trung tâm ý thức hệ
tự do, đại
khái dzậy. Mấy tay như Melvin Lasky và những tay ở New York khác đã hỗ
trợ ông.
Sau hội nghị Berlin, có quyết định là sẽ lấy Paris là nơi đặt đại bản
doanh. Và
một cái tên Tây nữa chứ, cho phải phép. Thế là ra lò cái tên Hội nghị
vì Tự do
Văn hóa.
Như thế, cái
gọi là Đại hội này, là một tác phẩm đã kinh qua những giai đoạn ý thức
hệ Mác
xít, Xét lại, và Trốt kít. Chỉ những đầu óc đã kinh qua cả mấy cái lò
đó, thì mới
hiểu ra được sự nguy hiểm của một hệ thống Xì Ta Lìn Nịt, bởi vì chỉ có
họ, những
con người độc nhất ở phương Tây, mong ước cái chuyện vá trời, là Chống
Cộng,
vào thời kỳ đó, ở Tây Phương.
Nói ngắn gọn,
chủ yếu là giới trí thức Do Thái ở Nữu Ước
đã thành lập ra cái gọi là Hội nghị. Jozef
Czapski và Jerzy Giedroyc thì đã tham dự ngay
từ hội nghị Berlin.
Đó là lý do tại sao tôi quen thuộc ngay từ hồi đầu với cả đám.
Vào lúc đó,
chẳng ai biết tiền ở đâu ra. Người ta nói, có một số cơ sở thương mại
lớn hỗ trợ,
và thực sự là vậy. Rồi tới năm 1966, bí mật bật mí, tiền Xịa, và những
cơ sở
thương mại kia chỉ là bình phong. Vả chăng, cái kiểu đặt đại bản doanh
ở Paris,
đủ thấy, tiền từ đâu đâu rót xuống. Nhưng khi biết được, Xịa, dân Tây,
vốn ghét
Mẽo, bèn tẩy chay hoàn toàn.
Ngày nay,
nhìn lại, tôi nhận ra một sự thực, cái gọi là âm mưu, xúi
bẩy người ta nếm mùi tự do, the liberal
conspiracy, như thế, là rất đáng làm, nên làm, và rất chính đáng.
[Đó cũng là nhận định của một số người Việt về cái chuyện MT lấy tiền
Mẽo làm tờ
Sáng Tạo. Có trách ông, là ông làm báo thì ít, mà đi vũ trường, bao
gái, thì
nhiều!]
Hội nghị
trên đúng là một đối lực, chống lại chiến dịch tuyên truyền qua đó,
những người
Xô Viết mở rộng ảnh hưởng tới mọi xó xỉnh. Hội nghị đã cho xb nhiều tờ
báo có
giá trị rất cao, bằng những ngôn ngữ chính của Âu Châu: Preuves ở
Paris,
Encounter ở London, Quadrant ở Úc, Tempo Presente, với một trong chủ
biên là Ignazio
Silone ở Rome, Der Monat, Đức, Quardernos, Tây Ban Nha. Họ muốn kéo cả
Kultura
vào cùng một rọ, nhưng Giedroyc, từ chối, mặc dù ông ta quá cần tiền
cho tờ
báo.
Tôi thì cũng
rứa. Tiền thì cũng muốn hít, nhưng đau thì vẫn thấy đau, cứ như gái
ngoan ngồi
phải cọc!
Lẽ dĩ nhiên,
còn nghi ngờ nữa chứ. Tiền có mùi gì kỳ quá hé!
Nói cho
cùng, thì cũng tội quá nghèo. Mà mấy ông chủ Mẽo ở Paris hồi đó thì quá
giầu.
Ngày nay, nghĩ lại, tôi cũng thấy mủi lòng, ấy là nói về thái độ của
mình đối với
Michael Josselon. Ông chủ chi địa, mọi chuyện đều trông vào ông.
Tôi thật sự
không ưa, cái vẻ tự mãn của ông ta, và nhất là điếu xì gà. Cả đám những
ông chủ
Mẽo này đều mắc một cái tội là hay quên, nhất là những lỗi lầm của họ.
[Thì cái
vụ Việt Nam chưa hết đau, nỗi đau hội chứng, hậu hội chứng, thì đã chui
đầu vào
bẫy Iraq!]. Một trong những lỗi lầm của đám họ, ở Paris hồi đó, là chơi
một cái
văn phòng hách xì xằng, ở trong một khu đắt tiền nhất Paris, trên Đại
lộ
Montaigne.
Để chứng tỏ,
tuy quen biết, nhưng tôi chẳng có thớ gì, ở trong Hội nghị, là, tôi đã
bị từ chối
visa nhập cảnh Mẽo. Lỗi đâu phải ở Hội nghị, tuy nhiên....
Một trong những
nỗi đau của ông chủ chi địa Josselon, là qua tiền của ông, rất nhiều
nhà văn
nhà thơ lên hương, thoát ra khỏi lục địa Âu Châu cằn cỗi, nghèo khổ,
nhập thiên
đàng Mẽo, nhưng ông chủ không làm sao vỗ ngực nói, này, nhờ tao cho mày
tiền
đó!
*
Người khui
ra vụ MT nhận tiền Xịa làm tờ ST, là NS, do thù TTT. Có thể tới lúc đó,
TTT mới
biết, và do tính của ông, rất ghét chuyện bửn, thế là ông rãn ra, và,
cũng hết
mẹ nó tiền, do bao gái nhảy nhiều hơn là do làm báo. GNV tin rằng, VP,
vì lý do
này, khi lấy tiền Mẽo làm bộ VHMN, đã đổi cái tên Mẽo thành cái tên
Việt!
Đêm giữa ban
ngày.
Cái tít
nguyên thuỷ của nó là Vòng tròn xấu
xa, “The Vicious Circle”, và Daphne
đổi lại,
như trên, khi K bị nhà cầm quyền Anh giam giữ tại nhà tù Pentonville.
K. tỏ ra
thích cái tít này, mà ông nghĩ, từ Milton: Oh, dark, dark, dark, amid
the balze
at noon, nhưng nguồn của nó, qua Daphne, từ Book of Job.
Chỉ 1 cuốn sách,
với bạn quí của nó, là cuốn Trại
Loài Vật, mà Âu Châu không bị nhuộm
đỏ, và Tây
Phương thắng cuộc chiến tranh lạnh!
Khi nó vừa mới
ra lò, ở Pháp, Sartre ra lệnh cho đệ tử đi từng tiệm sách thu gom, và
đốt sạch!
Khủng khiếp
thật.
Với riêng GNV, không đọc nó những ngày 1954, chắc là lên rừng, phò
HPNT, đúng
như lời cầu chúc của 1 đệ tử Thầy Cuốc rồi!
Cái từ khủng khiếp Tẩy Não, brainwashing, 1 cách nào đó, là do
Koestler phịa ra!
*
One result
was that Daphne now found it harder to deliver the news that his novel
about
Rubashov had gone through page proofs and was about to be printed.
Actually,
she also shrank from telling him because she had changed the title
without
Koestler's knowledge and felt sure he'd explode. Cape didn't like "The
Vicious Circle" as a title, she said, and had chosen "a much worse
one" of its own, "Darkness at Noonday." This was a white lie:
the title was Daphne's. She had written to him in Lisbon about it, but
the
letter had never reached him, and now she had to tell him in person.
When she
stammered out the new title, now metamorphosed into Darkness at Noon,
he
surprised her by giving his approval. Koestler thought the title was a
quotation from Milton's Samson Agonistes-"Oh
dark, dark, dark, amid the blaze of noon," an attribution that has
persisted to this day-but Daphne's inspiration had been the Book of
Job:
"They meet with darkness in the daytime, and grope in the noonday as in
the night."
Darkness at
Noon, a bleak book about a prisoner in solitary confinement, was
published in
December 1940, while Koestler was in solitary confinement in
Pentonville. The
irony wasn't lost on its author. Having written much of it in a
detention camp,
he had come to feel that prison was the perfect metaphor for Europe in
1940,
and also, for too many, a brutal reality. The claustrophobic jail smell
that
clings to every page of Darkness at
Noon and contributes so richly to its
overpowering atmosphere of doom was the fruit not just of Koestler's
imagination but of his bitter experiences in French and Spanish jails.
ON THE
LITERAL LEVEL, Darkness at Noon
is about the personality, experiences, and
thoughts of a veteran revolutionary leader, Nikolai Rubashov,
languishing in
jail and being harshly interrogated on charges of treason. After
lengthy
confrontations with two different interrogators and a period of
self-examination in his cell, he decides to make a full confession of
guilt,
knowing all the while that his alleged crimes are the invention of his
investigators and that he is innocent. He knows that his sentence will
be
death, but finally agrees to it because it is a logical conclusion of
his
lifelong belief in revolutionary ideals, and the last service he can
perform to
demonstrate his loyalty to the party.
On a
metaphorical level, Darkness at Noon
is an image of life in the Soviet Union
(though the name of the country where the action unfolds is never
mentioned)
and of the life that was promised Europe if either the Communists or
the
fascists came to power. Koestler's inspiration was the Soviet show
trials, of
course, and one of the questions he set out to answer was, how did the
party do
it? How could such prominent party leaders as Kamenev, Zinoviev, Radek,
and
Bukharin be brought to the point where they confessed to the most
fantastic
crimes in open court and in the full glare of publicity? His answer,
controversial to this day, was that it was a matter not simply of
physical
coercion (though Koestler was aware of that dimension too) but of
intense
psychological pressure, backed by the threat of coercion. This more
subtle
pressure drew on the prisoners' deepest beliefs in the revolutionary
cause and
in its flag bearer, the party, to undermine their personalities and
break their
will. It was an early form of
brainwashing (the term had not been invented
yet), and Koestler was one of the first to recognize its importance in
Soviet
political practice.
In the
course of the novel, the interrogator Ivanov (Rubashov's former friend)
seizes
on Rubashov's disillusionment with party policy to show that Rubashov
is
"objectively" an enemy. "You openly admit that for years you
have had the conviction that we were ruining the Revolution; and in the
same
breath you deny that you belonged to the opposition and that you
plotted
against us. Do you really expect me to believe that you sat watching us
with
your hands in your lap-while, according to your conviction, we led
country and
Party to destruction?" Rubashov is trapped by his own words and by his
former actions as a party leader. Ivanov reminds Rubashov that Rubashov
is
responsible for the deaths of two activists, Comrade Richard and Little
Loewy,
and indirectly responsible for the arrest and death of his former
secretary and
lover, Arlova. What is one more death-his own-in the service of
historical
inevitability? Good cop Ivanov is replaced by bad cop Gletkin (modeled
on the
GPU officer Koestler had seen in Baku), who brutally insists that
Rubashov
confess in excruciating detail to instigating a plot to assassinate
"No.1." The whole thing is a fiction, and Rubashov is appalled by the
naked cynicism of the demand, but through sleep deprivation and
confrontations
with an alleged assassin he is brought to admit that "objectively" he
is guilty too, for (in a Dostoyevskian flourish) the putative assassin
is
Rubashov's "logic made flesh." Rubashov meekly signs the elaborate
connfession drawn up for him by Gletkin, is tried publicly, and is
sentenced to
death.
Though
ostensibly a composite of Bukharin, Radek, and Trotsky, Rubaashov also
incarnates the Koestler of 1938-39. He is the party zealot who suddenly
awakens
to the fact that his iron faith has been based on a lie, that the
ideals to
which he has clung have been betrayed, and that the utopia he sought
can never
be realized by the movement to which he belongs. Koestler's imagination
transposes his floundering in Baku, his doubts in Kharkov, and his
vacillations
in Spain into a powerful intellectual thriller about loyalty and
betrayal, and
symbolically accepts the logic of Franco's supposed death sentence on
him as
morally justified by his own revolutionary sins. By reenacting these
events in
the novel, he pronounces a death sentence on his own ideological past
and
ideals.
Koestler
drew not only on his experiences in Seville but also on Eva's account
of her
prison experiences in Moscow. One aspect of Eva's story that Koestler
used to
powerful effect was her account of tapping clandestine messages on cell
walls
(in the novel it is on the water pipes). In one particularly harrowing
scene
(drawn in part from Koestler's memories of Seville) the prisoners
listen in
horror as a tortured comrade is dragged, whimpering, on his way to
execution,
and they communicate this emotion first by taped messages and then by a
sustained drumming on cell doors; and this tapping starts up again in
the final
moments before Rubashov himself is led off to exxecution.
Throughout
the novel, Koestler's personal anguish, his profound desire to recant
and
repent his sins, infuses the narrative with a confessional force that
is
totally appropriate to its subject matter, while Rubashov's descent
into hell
has a terrifying logic that is irresistible. He is like the hero of a
Greek
tragedy, condemned by his own character flaws to die. There is no way
out. Yet,
in a work where there is virtually no uncertainty about the outcome,
the
suspense is astonishing. It is the suspense of not knowing how Rubashov
will
arrive at his end, accompanied by the hope that he will somehow,
miraculously,
evade the bullet. Koestler's inspiration here was the Dostoyevsky of Crime and
Punishment and The Brothers
Karamazov, and he even imported some of
Dostoyevsky’s Christian imagery into his narrative.
On
publication, the novel struck Koestler's more astute left-wing readers
with
stunning force. "Who will
ever forget the first moment he read Darkness at
Noon?" wrote Michael
Foot later. "For socialists especially, the
experience was indelible. I can recall reading it right through one
night,
horror-struck, overpowered, enthralled. If this was a true revelation,
a
terrifying shaft of darkness was cast over the future no less than the
past." Wickham Steed regarded it as "the most devastating
exposure of
Stalinist methods ever written," and Kingsley Martin, in the New
Statesman, pronounced it "one of the few books written in this
epoch which
will survive it." A pro-Communist critic, John Strachey, finding the
book's message "a bitter pill to swallow," said he was overwhelmed by
its terrifying logic. R. D. Charques (anonymously) in the Times Literary
Supplement was one of the few at the time who perceived the
underlying theme of
the "growing likeness between the Soviet regime and the Nazi
regime."
Orwell
thought the book "brilliant as a novel and a piece of prison
literature," but was more interested in it as an explanation of the
Moscow
show trials and as an excuse to attack western leftists for accepting
the
trials as genuine than as a work of literature (it was to be another
four years
before Orwell concluded it was "a masterpiece"). Other reviewers were
puzzled by the novel's unusual form. "The book is long drawn out, full
of
repetitions and marred throughout by its obscenity and irreligion" was
one's verdict. The book had few characters, most of them with no first
names,
and, apart from Rubashov, none was described in any detail. It wasn't
exactly a
psychological novel, nor an allegory, nor a satire, and the plot was
hard to
follow. It was that unfamiliar thing in Britain and America at the
time, a
novel of ideas and a moral fable, with an unfamiliar dialectical method
of
argument-and very little love interest of any kind.
Michael
Scammell: DARKNESS UNVEILED
Koestler:
The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
Tưởng Niệm Koestler
Why western authors are in love
with Mother Russia
Novelists from Le Carré to
Amis have an obsession with
Russia.
Small
wonder: it's fertile territory for fiction
Tại sao
nhà
văn mũi lõ mê Mẹ Nga?
Ui dào, tưởng chuyện gì: mảnh đất mầu mỡ cho giả tưởng.
Đêm
giữa ban
ngày
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
DTL.com
GNV cũng không
tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!
Bởi vì ngay
Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do
văn hóa,
cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của
Michael Scammell,
cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và
theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn
thêm!
Làm gì có
chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự
thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ
viết.
Sự thực, là,
tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!
Tuy nhiên, đọc
những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông
nhà văn này
cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài
Gòn, trên
chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông
nghe, về
mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa…
tiền, làm… chiến tranh, không phải làm báo
như MT!
DTL
vs GNV
Hội Nghị Tự
Do Văn Hoá, The Congress for Cultural Freedom, do Koestler thành lập,
được tờ L’Observateur của
Tây gọi là KKK: Koestler’s Kultur Kongress. Và
ông cũng được CIA tuyển mộ,
và ăn lương hàng tháng, on the payroll of the CIA, như… MT, đối với đám
VC quốc
tế!
Thanh Xuân
Gấu có lần ngồi ăn
phở
với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài Gòn.
Khi đó bạn quí dọn lên San
Jose rồi, nghe tin
Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu
qua, bèn
gặp.
Cùng lèm bèm về thơ DTL.
Gấu có phán: Bạn DTL có rất
nhiều
đòn.
Nếu ra đòn, ‘anh yêu em’
không ăn, thì đánh vào "người chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ
thánh, nữ bồ
tát chuyên
cứu vớt kể lầm lạc", ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục!
Bạn quí phì cười, gật gù:
Đúng,
đúng quá!
*
Hồi
mới ra
trường Bưu Điện, 1960 hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng
Vô Tuyến
Điện, số 11 Phan Đình Phùng. Từ phía
cổng
cơ xuởng trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên phải, building số 5,
của đám
Tây ở. Bưu Điện mướn tầng trên cùng, đặt mấy đài VTĐ. Quá nữa, là số 3,
Đài
phát thanh Sài Gòn. Ra trường Bưu Điện, Gấu làm việc tại Cơ Xuởng số
11. Hai
năm sau, qua số 5 làm việc tại Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là
nơi viết Những ngày ở Sài Gòn,
sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng
Mỹ Cảnh.
[Biết rồi khổ lắm nói mãi].
Khi
đó,
chưa
có trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc Gia Thương
Mại, ngay đầu
đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan Xi Cô cũng ngay đầu đường.
Phiá
bên
trái cổng cơ xuởng, là khu nhà của các ông lớn Bưu Điện, đa số là sếp,
và thầy
của Gấu. Phía bên kia đường, là con đường Phan Kế Bính, chạy song song
với Phạm
Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan Đình Phùng, làm thành hai ngã
ba. Cả
hai đều là hai con dốc ngắn đổ xuống đường Phan Thanh Giản. Thư viện Văn Hoá
Bình Dân nằm trên đường Phan Kế Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn
viên thư viện.
Đó
là nơi
cô
bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực tại Đài, cũng gần đó, đang
trực,
kêu đệ tử coi Đài, xách xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ ra về, rồi xách
xe Honda
cứ thế chạy miết xuống tới tận cầu Sài Gòn, tính lao luôn xuống!
Từ
số 11, đi tới 1 chút, tới ngã tư Phan Đình Phùng/Đinh Tiên Hoàng, quẹo
phải tới quán Con Ve Sầu, La
Cigale, chủ
Tây, vừa là nhà hàng ăn, vừa có sàn nhẩy, lâu lâu, Gấu có ghé, đôi khi,
những lần
trực đêm.
Khu này
là
giang sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi vậy cho tiện.
Ui chao, chỉ
đến khi ra được hải ngoại, một bữa tình cờ đọc hai câu thơ của DTL:
Em đi
áo lụa
mềm lưng phố,
Có
động lòng
thương kẻ cuối đường
Toàn cảnh
trên đột nhiên sống lại, rõ mồn một.
Khủng
khiếp
đến nỗi, Gấu có cảm tưởng, hai câu thơ, là từ con dốc ngắn bò ra!
Bà hoàng hậu
trong Alice lạc xứ thần tiên,
có tài nhớ hai chiều, nhớ quá khứ, và nhớ
cả
tương lai.
Đúng là
trường
hợp hai câu thơ của DTL, đối với Gấu, theo nghĩa, thời gian có thể đảo
ngược, reversible.
Cái bữa
Gấu
‘sống cuộc biệt ly, đau nỗi đau' cô bạn đi lấy chồng đó, chỉ hoàn tất,
‘viên
mãn’, chung cuộc… khi hai câu thơ của
DTL xuất hiện.
DTL chơi với
bạn là số 1, chưa từng thù ghét, nói xấu bất cứ 1 tên bạn nào.
Và là 1
trong 2 người bạn, thực sự mừng, khi GNV sống lại. Anh nói, mày
đúng là
tái sinh, lần gặp lại ở Tiểu Sài Gòn, 1998, khi vợ chồng Gấu qua
lần đầu,
nhân dịp xb Lần Cuối Sài Gòn.
Người kia là thi sĩ Viên Linh.
|