|
Trang thơ Tomas Transtromer
Nobel
2011
Winter's Formulae
1
I fell asleep in my bed
and woke up under the keel.
At four o'clock in the morning
when life's clean-picked bones
coldly associate with one another.
I fell asleep among the swallows
and woke up among the eagles.
2
In the lamplight the ice on the
road
is gleaming like lard.
This is not Africa.
This is not Europe.
This is nowhere other than "here."
And that which was "I"
is only a word
in the December dark's mouth.
Tomas Transtromer
Công
thức Mùa Đông
1
Tôi
ngủ thiếp trên giường
Và
thức giấc dưới sà lan
Bốn
giờ sáng
Khi
xương đời cạo sạch
lạnh
lẽo dính vào nhau
Tôi
ngủ giữa bầy chim nhạn
Và
thức giấc giữa lũ chim ưng
2
Trong
ánh đèn, lớp băng trên đường
long
lanh như mỡ heo
Không
phải Phi châu
Không
phải Âu châu
Không
đâu khác mà là “đây”
Và
cái là “Tôi”
thì
chỉ là 1 từ
trong
miệng Tháng Chạp đen
Transtromer,
Nobel d'économie
Transtromer, Kiệm
Nobel (1)
(1)
Trong tiểu
luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"),
khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức]
Rilke, Brodsky cho rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận,
là một
bài thơ, ấy chỉ vì lý do tiết kiệm.
Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối
hậu của nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những phương
cách dồn
nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là ngôn ngữ, nghĩa
là thực tại,
ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà
chẳng
nhận bao nhiêu" [bài thơ không phản ảnh, mà là sản sinh].
… This
economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is the
history of its means of compression and condensation. In poetry, it is
language, itself a highly condensed version of reality.
Brodsky
Nobel
2012 về
tay nhà thơ Thụy Điển Tomas Transtromer quả có làm ngỡ ngàng báo chí,
chuyện
thường ngày ở Thụy Điển, hàng năm cứ vào cuối Thu… nhưng với 1 tay “pro”, chẳng có gì đáng ngạc nhiên: TT có lẽ là
nhà thơ được dịch nhiều nhất trên thế giới. Ít nhà thơ nào được dịch
hơn 20 ngôn
ngữ như ông, và hơn thế, một nhà thơ kín đáo, kiệm lời, kiệm cả việc
làm thơ.
Điều
này còn nói lên sự khiêm tốn của cả một dân tộc. Xứ Thuỵ Điển đã nấn ná
chuyện
trao Nobel cho gà nhà, cho đến khi chẳng đặng đừng, bởi vì nhà thơ Phần
Lan, Bo
Carpelan, trước đó, rất xứng đáng, đã ngỏm trước khi được Nobel.
Nhưng mà thôi,
chúng ta hãy vui với TT, hãy vui với 1 chọn lựa quá xứng đáng, và bỏ
qua tất cả,
kể cả chuyện Uỷ ban Nobel ít mê thơ, nhất là thời gian sau này.
TT được dịch
ra tiếng Anh sớm hơn, so với tiếng Pháp. Vào năm 1989, người ta khám
phá ra
ông ở Paris, trong 1 buổi lễ thật đáng nhớ ở Học viện Thụy điển, ở con
phố Payenne,
cùng với dịch giả của ông là Jacques Outin, nhân dịp ra lò bản tiếng
Tây tuyển tập
thơ đầu tiên của ông. Chưa đầy 1 năm sau đó, bịnh tim đã lấy đi của ông
giọng nói
nồng nàn, cực kỳ đơn giản, đã từng cất lên trong buổi lễ nói trên, khi
ông đọc
những bài thơ và nói về con đường làm thơ của ông. Vào năm 1996, Jacques Outin cho xb, cũng vẫn nhà xb Castor
Astral, Œuvres completes, toàn tập
thơ của ông, bây giờ được in lại trong tủ sách Poésie/Gallimard,
dưới cái
tít Baltiques (tên 1 bài thơ dài
của ông).
Winter's
Formulae
1
I fell
asleep in my bed
and woke up
under the keel.
At four
o'clock in the morning
when life's clean-picked bones
coldly associate with one
another.
I fell
asleep among the swallows
and woke up among the eagles.
2
In the
lamplight the ice on the road
is gleaming like lard.
This is not
Africa.
This is not Europe.
This is
nowhere other than "here."
And that
which was "I"
is only a word
in the
December dark's mouth.
About
History
1
One day
in
March I go down to the sea and listen.
The ice is
as blue as the sky. It is breaking up under the sun.
The sun that
also whispers in a microphone under the covering of ice.
It gurgles and froths.
And someone seems to be shaking a sheet far out.
It's all like History: our
Now. We are submerged, we listen.
2
Conferences
like flying islands about to crash ...
Then: a long trembling bridge of
compromises.
There shall the whole traffic go, under the stars,
'under the
unborn pale faces,
outcast in
the vacant spaces, anonymous as grains of rice.
3
Goethe
traveled in Africa in '26 disguised as Gide and saw everything.
Some faces
become clearer from everything they see after death.
When the daily news from
Algeria was read out
a large
house appeared with all the windows blackened,
all except one. And there we saw
the face of Dreyfus.
4
Radical and
Reactionary live together as in an unhappy marriage,
molded by each other,
dependent on each other.
But we who
are their children must break loose.
Every
problem cries in its own language.
Go like a
bloodhound where the truth has trampled.
5
Out on the
open ground not far from the buildings
an abandoned
newspaper has lain for months, full of events.
It grows old through nights and
days in rain and sun,
on the way
to becoming a plant, a cabbage head, on the way to being
united with the earth.
Just as a
memory is slowly transmuted into your own self.
Tomas Transtromer: the great enigma
Transtromer,
Nobel d'économie
Baltiques. Œuvres
complètes 1954-2004, Tomas Transtromer, traduit du suédois et
préfacé par
Jacques Outin,
éd. Poésie/Gallimard, 378 p., 8,90 €.
Les souvenirs m'observent, Tomas Transtromer,
traduit du
suédois el postfacé par Jacques Outin,
éd. Le
Castor Astral, 102 p., 14 €.
Par
Jean-Yves Masson
L' annoncé
de l'attribution du prix Nobel de littérature 2011 à Tomas Transtromer,
poète
suédois né à Stockholm en 1931, a déconcerté une partie de la presse,
comme si
souvent avec ce prix. Rien n'était pourtant moins surprenant pour un
observateur bien renseigné: Transtromer est probablement aujourd'hui
le poète
le plus traduit au monde. Combien d'auteurs, tous genres confondus,
peuvent-ils
se vanter d'avoir été traduits dans plus de cinquante langues? C'est le
cas de
cet homme discret, dont l'œuvre brève (une quinzaine de courts
recueils, moins
de trois cents poèmes en tout) jouit en Suède d'une immense popularité.
Seule
la modestie des Suédois, le peuple le moins chauvin du monde, a empêché
l'Académie Nobel de le couronner plus tôt (en un siècle, seuls six
écrivains
suédois ont été distingués). Si les jurés se sont enfin décidés,
peut-être
est-ce à cause des reproches qui leur ont été faits par leurs
compatriotes de
n'avoir pas couronné pendant qu'il en était encore temps le plus grand
poète
contemporain de langue suédoise, le Finlandais Bo Carpelan, né en 1926
et mort
en février dernier sans avoir jamais reçu le prix; moins largement
traduit dans
le monde, mais auteur d'une œuvre bien plus ample, formellement plus
novatrice,
et qui comprend aussi des romans, il méritait le Nobel autant que
Transtromer.
Mais qu'importe! Il faut se réjouir que les Nobel, qui ont oublié tant
de
grands poètes dans leur palmarès et qui, depuis quinze ans, ne
maniifestaient
plus le moindre intérêt pour la poésie, aient fait un choix
littérairement
incontestable.
Très tôt traduit en anglais, Transtromer a été tardivement
traduit en français. En 1989, on le découvrit à Paris lors d'une
mémorable
lecture à l'Institut suédois de la rue Payenne en compagnie de son
traducteur,
Jacques Outin, qui venait de publier au Castor Astral une première
anthologie
de sa poésie. Nous fûmes affligés d'apprendre, moins d'un an plus tard,
que cet
homme à la voix douce qui lisait ses poèmes avec tant de ferveur et
parlait de
son itinéraire poétique et personnel avec une profonde simplicité avait
été
frappé d'une terrible attaque cérébrale qui l'avait laissé aphasique.
En 1996,
Jacques Outin publia, toujours au Castor Astral, des Œuvres
complètes aujourd'hui reprises dans la collection
Poésie/Gallimard sous le titre Baltiques
(emprunté à l'un de ses longs poèmes les plus marquants). Entre-temps,
Transtromer, resté hémiplégique, mais peu à peu sorti de l'aphasie,
s'était
remis à écrire, dictant à sa femme, Monica, de courts poèmes arrachés
mot après
mot au silence : Funeste gondole
(1996), Poèmes courts (2002), enfin La
Grande Énigme (2004), une suite de
haïkus (tous ces recueils sont aujourd'hui inclus dans le volume de
Poésie/Gallimard). Peu avant son accident, le poète avait commencé à
écrire
pour ses deux filles une autobiographie qu'il ne put poursuivre et dont
il
accepta finalement la publication en 1993 : ces chapitres interrompus
par la
maladie ont été traduits en français par Jacques Outin au Castor Astral
en 2004
sous le titre Les souvenirs m'observent
(titre emprunté à l'un de ses poèmes), et sont sans doute la meilleure
introduction à son œuvre car le poète a eu le temps d'y raconter la
genèse,
lente et progresssive, de sa vocation.
Même s'il serait presque déplacé de chercher dans ses
vers une prémonition de la manière dont le destin l'a frappé (on l'y
trouve
pourtant littéralement, p. 201), il faut bien constater que Transtromer
est un
poète dont l'œuvre a toujours reposé sur une conscience suraiguë des
limites du
langage et du danger que l'usure quotidienne fait courir aux mots. Si
la
musique et les hommages aux musiciens qu'il aime sont si présents chez
lui
(depuis son accident, il continue de jouer au piano des œuvres pour la
main
gauche, dont certaines ont été écrites spécialement pour lui par des
amis
compositeurs), c'est parce que toute sa poésie cherche chez eux des
exemples de
courage artistique: «Je hisse le drapeau de Haydn - ce qui veut dire
:/Nous ne
nous rendrons pas. Mais
nous voulons la paix. » Le musicien, comme le poète, doit lutter contre
les
ritournelles, les formules toutes faites. Dans un poème intitulé « Mars
1979
", Transtromer se dit « las de tous ceux qui viennent avec des mots,
des
mots mais pas de langage» ; et ce langage perdu, il le lit soudain dans
les
traces d'un cerf sur la neige. Comme chez Novalis, le visible est plein
de
hiéroglyphes à déchiffrer, pour lui qui, dans son enfance,
collectionnait avec
passion les papillons, les insectes, les roches, les plantes, et, sans
songer à
la poésie, se rêvait entomologiste.
Pour lutter
contre l'usure des mots, la voie royale est celle de la métaphore, dont
Transtromer est devenu un maître incontesté. Elle est,
pour lui, saisie de j'universelle métamorphose; elle sert d'abord à
dire la
plasticité, l'évanescence, l'instabilité du Moi, vu comme la quille
immergée
d'un navire, comme une bouée, ou une ancre enfouie dans la vase. Nombre
des
métaphores de Transtromer ont la qualité propre aux images de rêve.
Chez ce
grand voyageur (sa poésie se promène autour du globe, de la Turquie au
Portugal, de New York à Shanghai), le temps du voyage et celui du rêve
se chevauchent
et parfois se confondent, comme se télescopent aussi, dans certains de
ses
poèmes, les époques, car pour lui le temps est « un labyrinthe» : «
Goethe
partit en 1926 en Afrique dans le costume de Gide et il y vit tout. »
Ailleurs,
les noms des poètes « écrits à la craie de la vie sur le tableau noir
de la
mort » surgissent pêle-mêle dans la mémoire, non sans dérision pour ce
que la
postérité retient d'un poète, tandis qu'un autre texte décrit l'auteur
expulsé
du poème qu'il était en train d'écrire: cessant d'être sa créature, il
existera
désormais sans lui. Même ses propres souvenirs sont des caméléons
fondus dans
le paysage qui, à peine visibles, « l'observent» (le titre de ce poème
est
aussi celui de son autobiograaphie). Tout est dépossession
dans cette poésie qui marie de façon étonnante une
sensualité rare et même exubérante avec un sens de l'ascèse dont il
n'est pas
surprenant qu'il ait amené l'auteur, après de grands poèmes «
symphoniques », à
la pratique du haïku: il y serait sans doute venu, même sans la
nécessité
physique qui l'a contraint à être économe de ses mots.
On ne saurait épuiser en si peu de lignes la richesse
de cette œuvre rare. Ajoutons, pour finir, que la caractéristique la
plus
notable de Transtromer est d'avoir individualisé à l'extrême chacun de
ses
poèmes. On sent bien que rien, nul « art poétique », n'a jamais été
acquis pour
lui. Chacun de ses poèmes est une personne, avec son caractère, sa
forme, son
identité. Chacun d'eux est né d'une rencontre: d'une halte dans un
motel de
l'Oklahoma aussi bien que de la vue d'un orvet, un matin, dans l'herbe.
Maître
de la métaphore, le poète est aussi le maître de l'occasion qui passe.
Il est
resté cet enfant qui, pour apprivoiser la grande énigme de la mort,
capturait
obstinément les papillons du temps dans les fragiles mailles de son
filet. +
Extrait
La Suède est un bateau
qu'on a tiré
à terre, dégréé. Ses mâts se dessinent âprement
sur le ciel crépusculaire. Et le crépuscule dure plus
longtemps
que le jour -le chemin qui y mène est caillouteux :
ce n'est que vers midi que la lumière arrive
et le colisée de l'hiver se redresse alors
dans la lumière de nuages fabuleux. Soudain,
une fumée monte des
villages,
vertigineuse
et blanche. Les nuages sont infiniment hauts.
Près des racines de l'arbre
céleste, la mer laboure distraite, comme à l'écoute d'on ne sait quoi.
Dix-sept
poèmes, Tomas Transtromer [1954)
Le Magazine
Littéraire Décembre 2011
Night
Thoughts
Thơ Ca, Xã Hội, Nhà Nước
Bài viết
này, Gấu đọc, trong lúc viết bài về Thơ Trẻ ở trong nước, và có chôm
mấy ý.
Nay post
toàn bài, lèm bèm tiếp về cái chuyện Thơ Mít nhân nhà thơ TT [hai chữ T
thôi
nhe] được Nobel.
Yves Bonnefoy :
« J’ai le
désir de servir la poésie dans une société qui la méconnait »
Tớ muốn phục vụ thơ trong một xã hội đếch biết nó là cái chó gì!
Thảo nào,
mấy anh thi sỡi Mít hải ngoại đều
chuồn về hết rồi
Quyền uy của
nhà thơ vào thời đại không tưởng
Bài này thật
tuyệt, GCC tính “đi” hoài, nhưng ngại quá. Nay nhân cú VC tính “chiêu
hồi” nền
thi ca hải ngoại, chắc là đành phải “đi” thôi!
What becomes
of lyric poets who put their "service to the muse", as Pushkin called
it, to the service of their nation? Can political poetry couched in
lyric form
ever be truly transnational? Can poets even in exile ever escape the
mental map
of their native land? These are the questions addressed by three new
books and,
less directly, represented in Andrey Khrzhanovsky's film about Joseph
Brodsky,
A Room and a Half. All make serious attempts to consider the relation
of the
art of poetry to the lives of poets.
Chuyện gì xẩy
ra cho những nhà thơ trữ tình, khi, thay vì phục vụ thánh nữ,
thì lại
phục vụ… VC?
Liệu thứ thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, tức thơ chính trị mang
cái vỏ bọc
nước đái [couched in lyric form], thì có tính xuy
Steiner,
trong bài viết đã đăng trên TV, phán, chỉ thi sĩ mới là một thứ dịch
giả số 1,
theo nghĩa, chỉ mấy ông đó mới rành tiếng của nước ông ấy, và khi dịch,
sẽ tìm
ra được từ tương đương. Áp dụng câu này, vô xứ Mít, thì thấy, hoặc nhận
định của
Steiner hơi bị nhảm, hoặc những ông thi sĩ Mít không rành tiếng Mít và
như thế,
đếch phải là thi sĩ.
GCC mới đọc bài viết của
thi sĩ Ngu Yên về nhà thơ mới đợp Nobel. Xin trích dẫn ở
đây, như là 1 minh họa ngược lại cái câu của Steiner:
Giải thưởng
văn chương Nobel 2011 trao cho ông [TT] với một lý do tóm gọn: Vì những
hình tượng
cô đọng, ý tứ đa nghĩa, ông đã cho chúng ta một con đường mới đi vào sự
thật.
Ngu Yên: Nháp: Tomas Tranströmer
Câu tiếng Anh:
The Nobel Prize in Literature
2011 was awarded to Tomas
Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he
gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org
Nobel văn chương 2011 được trao
cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì,
qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập
vô thực
tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.
[GCC dịch]
Hình ảnh, image, thì NY dịch
là hình
tượng, symbol, figure, rồi
ông phịa thêm "ý tứ đa nghĩa", rồi ông thay thực
tại, reality, bằng sự thật, truth.
Những từ trên,
đâu có khó,
nhưng ông dịch
ẩu.
Dịch như thế
làm sao làm thơ
của chính
mình cho ra hồn được?
GCC lại nhớ
đến câu của Cioran,
tôi mơ
1 thế giới ở đó người ta có thể chết vì 1 cái dấu phảy.
Vẫn
chuyện dịch dọt: Vết thương di tản.
Tình cờ GCC giở cuốn NN dịch
Kundera, Những di chúc bị phản bội.
Cuốn này, Gấu mua, lần về Hà
Nội, nhưng chưa từng đọc, vì lỡ đọc rồi, bản
tiếng Tây & tiếng Anh.
NN dịch từ "émigration" là di
tản. Theo Gấu, dịch là
di trú, di cư, lưu vong, thì đều OK, nhưng di tản, thì hơi bị nhảm. Di
tản, có
tính chớp nhoáng, tạm thời, giai đoạn, Di tản, sơ tán, là theo nghĩa
này.
Di
tản cái chó gì suốt cả 1 đời, nếu không cũng vài ba chục năm!
Có vẻ "Người" giống
nhà văn NMG hải ngoại, rất ghét từ "lưu vong"!
Do
đọc K, đúng cái đoạn mà ông
nói về lưu vong là vấn đề của số học, Gấu viết bài “Mùa Thu, những di dân”, để
phản biện [ngầm] PD, khi ông thổi VC dọn đường về trong lần trả lời
phỏng vấn tờ gió đông.
Di
dân, không phải di tản, GCC nói lại.
PD thì đúng là di tản, dù lâu cách mấy!
Di tản, là từ
NN chôm của VNCH. VC đã sẵn từ sơ tán rồi. Bọn Ngụy khi đó, để giải
thích cái vụ
mất cao nguyên, coi đây là “di tản chiến thuật”, giống như bàn tay thu
lại thành
quả đấm, để ra đòn!
Cái từ di tản, nếu phải
dịch ngược lại, thì là "evacuation", theo GCC.
*
Nobody reads
poetry anymore,
so who the
hell are you
I see bend
over this book?
Aleksandar
Ristovic
Chẳng ai đọc
thơ nữa,
Nếu vậy mi là
ai,
Cái kẻ cúi
xuống cuốn sách này?
Câu trên,
Charles Simic dùng làm đề từ cho Ngựa có 6 chân, The Horse
Has Six Legs, tuyển tập thơ Serbian.
Những kẻ dè
bỉu thơ, không chỉ là lũ mắt trắng dã, trong số đó có kẻ mang chai XO
đến bàn
thơ, và làm PNH bực mình.
Người xưa nói, nghe để rửa thì thà đừng nghe. (1)
Dè bỉu thơ
thứ thiệt, thì phải là thi sĩ, chứ không phải phường tục tử.
“Tại sao thi sĩ
trong cái thời khốn kiếp như thế”? Holderlin đã từng dè bỉu thơ, đâu
chỉ vì… chai rượu?
MT thì đã từng
bỏ chạy thơ, đến khi không thể bỏ chạy được nữa, thì đành phải làm thơ,
và cả đời,
chỉ có tí thơ đó, ba thứ tiểu thuyết đăng báo kiếm sống, ai thèm đọc
nữa.
Không dè bỉu, mà phải
nói, tởm thơ, là Rimbaud. Ông tởm thơ đến nỗi bỏ đi làm 1 thằng bồi,
cho 1 ông chủ chuyên buôn bán cà phê, ở mãi xứ Mọi, và sau đó, bỏ đi
làm lái súng.
Trên TLS có
1 bài về Rimbaud, TV đã nhắc tới, nay tính coi lại thì lại chẳng thấy,
may
sao có
bài trên tờ Người Nữu Ước,
cũng thật thú vị về ông, về thơ, về nghiệp
thơ ngắn
ngủi của ông.
Post ở đây, thay vì lèm bèm về cõi thơ Mít.
Bài
viết tuyệt cú mèo! GCC cứ hăm he dịch, vì nghĩ đến ông anh nhà thơ,
đã từng tính
chơi 1 câu của R. làm đề từ cho Bếp
Lửa:
Tớ
là 1 kẻ
khác. Je est un autre
Liệu,
TT cũng nghĩ như thế về ông?
Một
kẻ khác?
Rebel Rebel
(The
Surrealist Andre Breton described Rimbaud as "a veritable god of
puberty.") Like J. D. Salinger, another beloved celebrant of youthful
turmoil, Rimbaud may simply have found that, as he grew up, the urgency
of his
subject was gone. There was nothing left to say.
"one
big reason, perhaps obvious, is he grew up ... the child in him died."
I
suspect that the chances that Rimbaud will become the bible of your
life are
inversely proportional to the age at which you first discover him.
(1)
Hứa Do được
tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
Hứa Do từ chối,
cười mà về rồi ra suối rửa tai.
Khi đó, Sào
Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại
sao.
Hứa Do trả lời:
"Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua."
Sào Phủ bèn
dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống.
Hứa Do hỏi tại
sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm."
Sào Phủ lại
nói:
"Anh đi
đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại
bụng anh vẫn
còn danh lợi."
Huỳnh Tịnh Của
phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
Nguồn
Sợ rằng, cái
vụ tờ VN của VC đăng bài của PNH, cũng có mùi đánh tiếng, “vời về”,
cũng nên, đấy!
Chẳng thế mà
GCC đọc 1 cái còm, “hai bên đang xích lại gần nhau”!
Nhưng, người
khinh miệt thơ số 1 thì phải là Adorno, và ông bị nhà văn hàng đầu hải
ngoại đã
mất, là VD, chê, vung tay quá trán.
Adorno phán,
sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man.
Cho đến nay,
chỉ mới có một, hai mống, là dám “phản biện” Adorno. Ðó là Paul Celan,
Romania gốc Do Thái, nhà thơ, W.G. Sebald, nhà văn Ðức, và Primo Levi,
Ý gốc Do Thái.
Richard Eder, trên tờ The NY Times
Book Review, phán:
Sebald đứng
với Primo Levi như là phát ngôn viên số 1 về Holocaust, và với Levi, kẻ
phản biện
số 1, đối với câu phán của Adorno, rằng sau Lò Thiêu, không thể có nghệ
thuật.
[Sebald stands with Primo Levi as the prime speaker of the Holocaust
and,
with him, the prime contradiction of Adorno's dictum that after it,
there can be no art].
Cái vụ cho Tomas
Tranströmer
Nobel, là cũng liên quan xa xa tới Lò Thiêu đấy.
Cũng là 1 cách phản biện câu
của Adorno, theo GCC.
Thi sĩ trước đó được Nobel, Szymborska, từ Lò Cải Tạo
Ba
Lan mà ra. (1)
Ngu Yên dùng chữ Tâm Thiền là cũng có ý này ?
Liệu... Thiền chống lại được Cái Ác Nazi, VC ?
(1)
Staring
Through the Stitches
October 8,
1998
Helen
Vendler
Nhìn
qua những mũi khâu
Hai
nhà thơ đáng mến thời hậu chiến, Wislawa Szymborska, (sinh 1923 tại Ba
Lan), và
Tomas Tranströme, sinh 1931 tại Thụy Ðiển) băn khoăn trước những hụt
hẫng về mặt
đạo đức của cả tôn giáo hình thức và chủ nghĩa lạc quan Mác xít, đã tìm
kiếm những
hiểu biết tinh thần ở bên ngoài những định chế đã được tổ chức, an bài.
Những ai thực sự
sống thời
của họ, thực sự trải qua những năm tháng đó, thì cũng có cùng suy nghĩ
như vậy.
Nhưng thi sĩ, và văn sĩ, một khi âu lo về những gì xẩy ra trong xã hội,
họ
phải cô
động những câu hỏi xã hội thành những câu hỏi cá nhân, và phải chuyển
hoá ngôn
ngữ viết, bằng cách thổi vào đó nhịp điệu, và âm thanh.
Cả hai Szymborska và
Tranströmer
thì đều là những nhà thơ ngắn gọn, cực ngắn gọn: Szymborska tra hỏi những chuyển động
có tính quy ước của tư tưởng trong cuộc sống tâm thần và xã hội của
chúng ta,
trong khi Tranströmer trầm tư về những sức mạnh vô hình, vô thức nằm
bên dưới những
khoảnh khắc âu lo, tỉnh thức.
Szymborska được Nobel năm 1996, và
bây giờ,
2011, tới lượt Tranströmer.
*
Cái vòng hoa
Nobel “tạo một lối đi mới mẻ vô thực tại”, và luôn cả cái chuyện trao
Nobel cho
nhà thơ Thụy Ðiển, bề ngoài có vẻ như là 1 phản ứng trước những lời chỉ
trích giải Nobel những năm gần đây [lại tụi Mafia Do Thái], làm chúng
ta quên đi, cái lý do chính, tại làm sao ông này, Tomas
Tranströme, sau bà kia, Wislawa
Szymborska?
Câu
trả lời, của... GCC:
Thơ Wislawa
Szymborska là thơ của điêu tàn,
đêm đen, con phượng
hoàng thò mỏ ra khỏi Lò Thiêu, còn của Tomas Tranströme, quả đúng là của 1 cõi
riêng, vùng
bán đảo Scandinavia:
Phong cảnh
thơ TT thì thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ: miền đất ven biển
lởm chởm của
quê hương Thụy Ðiển với những rừng cây thông, vân sam u tối, chớp bão
bất thần,
biển không ngừng cựa quậy và những mùa đông dài lê thê, chẳng chịu chấm
dứt,
phong cảnh đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng 1 thứ văn phong
thẳng tuột
và những hình ảnh lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường được nhắc
tới qua
cái nick “nhà thơ buzzard, chim ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên
trên phong
cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép], nhìn thế giới với 1 sự
chính xác
hầu như huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu có vẻ phơi mở, không
nét đặc
biệt, và rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến chi tiết sự kiện,
tiếng thơ
lúc đầu có vẻ thanh đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế nhị, sắc
sảo, và rất
ư là riêng tư, thân mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.
Nobel Thơ
năm nay làm nhớ tới Horace [lại Horace!] Ông này tự gọi mình là Musarum
sacerdos [Tu sĩ của Thánh Nữ, Nữ Thần Thi
Ca, a priest of the
Muses], và tuyên bố: “Odi profanum vulgus
et arceo”. [Tớ ghét đám đông phàm tục, báng bổ và giữ 1 khoảng cách
với họ].\ "Đôi
khi thiên tài này trở nên âm u, và chìm vào cái giếng chua cay là trái
tim của
mình."
Posted on 05.11.2011
by runchamcham
Cách đây vài
hôm, tôi rất ngạc nhiên khi nghe một người quen ở Việt Nam cho biết mới
đọc bài
viết “Nobel Thơ 2011, Nghĩ Về Thơ” của Phan Nhiên Hạo trên báo Văn Nghệ
của Hội
Nhà Văn Việt Nam, số mới ra. Đây nguyên là bài viết “Nobel Thơ 2011,
Nghĩ Về
Thơ Việt” của tôi đã đăng trên trang mạng litviet ngày 8 tháng 10,
2011. Trong
khi đang chờ người quen ở Việt Nam giúp chụp lại bài báo gởi đến tôi để
xem thực
hư thế nào, hôm nay tôi đã tìm được bản chụp bài đăng trên báo Văn Nghệ
từ một
trang blog. Báo Văn Nghệ đã đăng lại bài viết này mà không hề liên lạc,
hỏi ý
kiến tôi. Tệ hại hơn, báo Văn Nghệ đã tự ý cắt xén nhiều đoạn dài trong
bài,
ngay cả tựa đề cũng thay đổi.
Tôi rất bất
bình và phản đối việc làm tùy tiện này của báo Văn Nghệ.
Bài đăng lại
trên báo Văn Nghệ (Việt Nam)
Báo Văn
Nghệ VC [chắc tờ của Thành Hồ], có lần lấy bài của Gấu, thiến 1
khúc, Nguyễn Quốc Trụ, còn Quốc Trụ,
theo một vị ở trong nước cho biết.
Ðểu thật.
Mất mẹ 1
khúc, thì sao làm ăn?
Lần trước, trước 1975, bạn của đặc công DH cũng đã tính thiến Gấu, khi
cho nổ
hai trái claymore ở bờ sông Sài Gòn, may sao thoát. Ông Trưởng Ðài VTD
đi cùng,
ngồi kế bên, bị.
Xém mất giống Gấu Cà Chớn rồi!
Một lũ đồ tể
văn nghệ, khơi khơi lấy tác phẩm của người khác, tha hồ đâm chém,
tùng xẻo,
móc mắt, cắt chim, sao cho vừa cái giường kiểm duyệt của VC, vậy mà
là một… "việc làm tùy tiện" ư?
Sử dụng chữ nghĩa như thế thì làm sao mà làm thơ "hay" cho được?
GCC đã nói rồi.
Cái sự kiện văn chương Mít ở hải ngoại đi xuống, không phải là do dốt
tiếng Anh
tiếng U, mà là do sử dụng tiếng Mít đếch nên thân.
Ðám con nít
mới lớn thì rành tiếng Anh tiếng U, nhưng không rành tiếng Việt. “Ðủ”
và “Cần”
coi như nhau. “Yếu điểm” thì cũng giống như “nhược điểm”. Fail,
thất bại, không thành công [Không thành công thì thành nhân,
Nguyễn Thái Học], như trong trường hợp chửi, ỉa vào mặt nhà nước VC và bị chúng
bắt bớ, bỏ tù.. thì là... "vấp ngã".
Vậy mà bày đặt
làm thơ, làm nhà biên khảo, làm nhà hiệu đính!
Làm cớm thì
OK.
Chúng ta phải
biết cám ơn những người đi đứng không nên thân và bị “vấp ngã”!
Tớ phản đối mấy ông VC về
cái việc làm tùy tiện là lấy bài của tớ cắt
xén đăng
báo VC, nhưng tớ cám ơn, nhờ vậy, nhiều người trong nước biết đến tớ,
đọc tớ!
Ðã xẩy ra 1 trường hợp như
vậy. Một ông nhà văn Mít hải ngoại, được 1
tên đầu
nậu VC ở Hà Nội tự tiện lấy bài viết in thành sách, chung với 1 số tác
giả
khác, mừng như phát điên, khoe um lên, tớ được nhà nước VC quan tâm tới
rồi!
NQT
Bài viết của
PNH, chủ yếu là để xử tội thơ Mít, nhân dịp trọng đại, 1 nhà thơ được
Nobel văn
học. Nhưng lũ khốn cắt sạch mọi liên quan tới Mít, ngay cái từ Mít ở
trong cái tít cũng
bị thiến.
Trâng tráo, thô bỉ đến như thế, mà ông coi là một việc làm tùy tiện?
Thiến như thế,
bài viết còn gì?
Vậy mà GCC
có đọc 1 cái còm, thổi tay thiến, thiện nghệ, bài thiến đi hay hơn bài
chưa được
thiến!
PNH viết từ thời còn tờ
VHNT của PCL. Gấu đọc ông từ hồi đó
đó, nhưng không “mặn” [chôm từ này của bạn quí].
Thơ của ông trịnh trọng quá, không hợp tạng của Gấu.
Cái sự dốt nát
tiếng Mít ảnh hưởng không chỉ tới văn chương Mít viết bằng tiếng Mít,
mà còn tới chính
cái thứ văn chương Mít viết bằng tiếng Anh, tiếng U.
Nghe thì quái đản nhưng sự
thực là vậy.
Có hai người đã từng phát biểu, về hai vấn đề, tưởng chẳng liên
quan, nhưng chỉ là một, theo GCC.
Một là
Salman Rushdie, ông này phán, chinh phục tiếng Anh là hoàn tất tiến
trình giải
phóng của chúng ta.
Một là Linda
Lê, hoàn tất tiến trình giải phóng nhờ mang trong lòng 1 đứa bé Việt
Nam đã chết.
Sở dĩ cõi văn
Mít viết bằng tiếng Anh tiếng U, ít ai thành công, ngoại trừ một Linda
Lê, thí dụ,
ấy là vì những tác giả của nó đếch có tí quan tâm đến tiếng Việt, đếch
ai cưu
mang một đứa con nít Việt đã chết ở trong lòng.
GCC thực sự
không tin một ông một bà viết tiếng Việt không nên thân, theo nghĩa
biểu tượng
nhe, mà lại có thể trở thành 1 nhà văn viết bằng tiếng nước ngoài bậc
thầy.
Tùy tiện. Tùy
đó, tiện đó, thì chơi luôn. Có thể PNH chỉ sử dụng từ này theo cái
nghĩa “tùy
tiện” như vậy.
Ông nghĩ tụi khốn chắc là cũng tính ve vuốt gì mình đây, nên mới
trịnh trọng lấy bài của mình đăng ở ngay trang nhất của tờ báo văn học
số 1 của
nhà nước ta. Và tất nhiên, một khi đăng như thế, thì phải lược bỏ những
gì “nhạy
cảm” chứ. Ông cũng bực chứ, làm sao không, nhưng thôi tha cho nó, nó có
quí mình
thì nó mới trịnh trọng như thế chứ!
Ông không bực
như Gấu. Hai cái bực khác nhau.
Khi TV link
cái bài viết của PNH, GCC cũng tính đi vài đường về những phát biểu của
PNH về
Thơ ở trong đó.
Nhưng, may quá, chưa kịp lèm bèm thì nó đã được VC vừa cắt [thiến]
vừa thổi [đăng trang bìa tờ báo số 1 về văn học của VC].
Tiếng Việt của
PNH, GCC sợ cũng không được "mặn". Ông viết: “Thơ luôn bị dè biểu và
coi thường, đôi khi từ chính cửa miệng những nhà thơ".
Dè bỉu mới đúng.
Tiếng Việt
khó lắm. Nhưng tiếng Anh tiếng U cũng khó chẳng kém. Nhức nhối nhất, là
câu hỏi,
anh học tiếng Anh tiếng U để làm gì? Sở dĩ nhiều đấng Mít rất rành
tiếng Tẩy, mà
mới chỉ có Linda Lê thành công, là vì đám Mít học tiếng Tây của chúng
ta, vào cái
khi đất nước đang được cuộc chiến hứa hẹn những điều khủng khiếp nhất,
thì đều
coi, chỉ có cách đó, thì thoát chết.
Tẩu vi thượng sách!
Bạn chỉ có
thể học tiếng ngoại để rành tiếng Mít, thì mới hy vọng trở thành nhà
văn, nhà
thơ!
Đây là 1 hệ
luận từ câu của Rushdie. Tác phẩm của ông không phải chỉ chinh phục
tiếng Anh, mà còn đem
đến cho nó món quà vô giá, là những tác phẩm viết bằng tiếng Anh của
những tên
di dân, bảnh hơn tiếng Anh nguyên thuỷ, tất nhiên, vì trong đó có mùi
Ấn, mùi cà
ri.
Tiếng Việt rất
khó.
TTT có lần bị
NTV chỉnh, dùng tiếng Việt sai, trong 1 lần bên bàn
cà phê sáng. Không biết sao, câu chuyện liên quan chiếc quần chân què
của phụ nữ. Theo, TTT “chân hoè” mới đúng, vì ông nghĩ, đây là loại
quần phụ nữ
mặc khi có tháng. NTV nói, không phải, đây là thứ quần do thiếu vải,
phải lấy 1
khúc ở nơi khác đắp vô, thành 1 cái chân thứ ba, “chân què”.
*
Steiner,
trong bài viết đã đăng trên TV, phán, chỉ thi sĩ mới là một thứ dịch
giả số 1,
theo nghĩa, chỉ mấy ông đó mới rành tiếng của nước ông ấy, và khi dịch,
sẽ tìm
ra được từ tương đương. Áp dụng câu này, vô xứ Mít, thì thấy, hoặc nhận
định của
Steiner hơi bị nhảm, hoặc những ông thi sĩ Mít không rành tiếng Mít và
như thế,
đếch phải là thi sĩ.
GCC mới đọc bài viết của
thi sĩ Ngu Yên về nhà thơ mới đợp Nobel. Xin trích dẫn ở
đây, như là 1 minh họa ngược lại cái câu của Steiner:
Giải thưởng
văn chương Nobel 2011 trao cho ông [TT] với một lý do tóm gọn: Vì những
hình tượng
cô đọng, ý tứ đa nghĩa, ông đã cho chúng ta một con đường mới đi vào sự
thật.
Ngu Yên: Nháp: Tomas Tranströmer
Câu tiếng Anh:
The Nobel Prize in Literature
2011 was awarded to Tomas
Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he
gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org
Nobel văn chương 2011 được trao
cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì,
qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập
vô thực
tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.
[GCC dịch]
Hình ảnh, images, thì NY dịch
là hình
tượng, symbole, figure, rồi
ông phịa ra thêm "ý tứ đa nghĩa", rồi ông thay thực
tại, reality, bằng sự thật, truth.
Những từ trên, đâu có khó,
nhưng ông dịch
ẩu.
Dịch như thế làm sao làm thơ
của chính
mình cho ra hồn được?
GCC lại nhớ đến câu của Cioran,
tôi mơ
1 thế giới ở đó người ta có thể chết vì 1 cái dấu phảy.
|