Wednesday,
October 12, 2011
Translating
Tomas Tranströmer
DỊCH THƠ
TOMAS TRANSTRÖMER
Tác giả:
Robin Robertson
Người dịch:
Nguyễn thị Hải Hà
Thơ Tomas Tranströmer khó dịch vì đa chiều
đa dạng và nhiều ẩn ý. Lời thơ cô đọng tuyệt đẹp cùng với hình ảnh
trong thơ sống
động như nhữngbức ảnh chụp rất nghệ thuật làm thơ ông quyến rũ ngay tức
khắc,
nhưng cái ngôn ngữ đơn giản tự nhiên trong thơ ông khi dịch thường bị
biến
thành không màu sắc và đơn điệu. Nhịp điệu mềm mại của những bài thơ
nguyên tác
thường khó được táitạo và, nhạc tính trong những chữ Thụy Điển như
“domkyrkoklocklang” bị mất âmvang khi chúng biến thành một “hồi chuông
giáo đường.”
Cảnh tượng trống vắng,bí ẩn trong thơ ông khá quen thuộc với các nhà
thơ Bắc
Âu, nhưng biến những mệnh đề siêu thực của cảnh tượng ấy thành ngôn ngữ
Thụy Điển
cho thật đơn giản ngắngọn là điều rất khó khăn.
Trong lời giới
thiệu quyển “Imitations, (Bắt chước)”tuyểntập bản dịch của những bài
thơ châu
Âu, Robert Lowell viết, trích dẫn Pasternak,“Dịch giả bình thường đáng
tin cậy
có thể dịch đúng nghĩa đen nhưng thường không chuyển đạt được giọng thơ
và …
trong thi ca, giọng thơ là tất cả.” Trong bảndịch tương đối thoát qui
luật của
tôi từ một số bài thơ của Tranströmer, tôi đã thử chọn vị trí đứng giữa
một bên
là những bài thơ được viết lại một cách trangtrọng và thử nghiệm của
Lowell và
bên kia là phương pháp dịch sát nghĩa theo truyền thống. Tôi vẫn giữ
dáng dấp
bài thơ mở rộng ý nghĩa cho rõ ràng hơn và cố gắng - như Lowell đã rất
đúng khi
nhấn mạnh là người ta phải cố gắng – truyền đạt giọng thơ.
Cái nhìn của
Tranströmer có khuynh hướng tư tưởng tâm linh rất sâu đậm, nhưng không
thuần là
tôn giáo. Ông quan tâm đến sự khác biệt đến đốilập và chúng ta phản ứng
như thế
nào, ở cương vị loài người, cho đến khi tìm thấy chúng ta ở điểm then
chốt, ở
cái điểm tựa đòn bẩy của một khoảnh khắc. Đây là bài trích từ bài thơ
“Out in
the Open” (Ngoài Khoảng Rộng):
Mặt trời bốc
lửa. Phi cơ bay thấp,
trải bóng có
hình dáng của chiếc thập tự khổng lồ, vội vã trên mặt đất.
Một người
đang rình cái gì đó trên cánh đồng.
Bóng phi cơ
chạm đến anh ta
Trong tít tắt
anh ta ở ngay chính giữa chiếc thập tự.
Tôi đã nhìn
thấy cái thập tự treo trên những vòm cong đẹpmắt của nhà thờ
Đôi khi nó
giống như một tấm ảnh chụp
sự náo loạn
Tôi đã đọc
những bản dịch này trên sân khấu với Tomas, ở Stockholm
và London , và có được sự tán thành của ông rất
quan trọng với tôi. Ở vai trò một trong những ủy viên quảntrị của giải
thưởng
Griffin, tôi có mặt nơi đó khi ông được trao tặng Lifetime Recognition
Award
(Giải Thưởng Thành Tựu Trọn Đời) năm 2007, nhưng chúng tôi có cảm giác
lúc ấy –
cũng như từ nhiều năm trước đây – là giải thưởng quan trọngnhất vẫn
chưa trao tặng
cho ông. Tin (ông được giải Nobel văn chương) hôm nay,đã được chờ lâu
đến độ
không thể tin được, nhưng thế giới thi ca có thể nâng ly chúc mừng
người đàn
ông khiêm tốn này, nhà thơ vĩ đại này.
NTHH
Robin
Robertson đã xuất bản vài bài thơ trên The New Yorker, và là dịch giả
tậpthơ
“The Deleted World,” của Tomas Tranströmer, sắp phát hành bởi
Farrar,Straus
& Giroux
Bài diễn văn
nhiệm màu: Thơ của Tomas Tranströmer
Tác giả:
Teju Cole
Người dịch:
Nguyễn thị Hải Hà
Hai sự thật
tiến đến gần nhau. Một đến từ bên trong, cái kia từ bên ngoài, và nơi
chúnggặp
nhau chúng ta có cơ hội nhìn thấy bóng dáng của chúng ta. (Từ
“Preludes”Phần Mở
Đầu).
Tomas, người
được trao giải Nobel Văn chương năm nay, đã nhiều năm là một trong
những nơi
trú ẩn của tôi. Các quyển thơ của ông đặt trênkệ không bao giờ bị bỏ
quên lâu
ngày. Tôi hướng về ông mỗi khi tôi muốn được tiếnđến, càng gần càng
tốt, những
điều không thể nói. Thập niên vừa qua đầy nhữngnăm đen tối, và tôi vẫn
tiếp tục
tìm về với các nhà thơ. Họ chăm nom tôi và,dùng một câu của
Tranströmer, tôi sống
nhờ vào sữa đánh cắp từ vũ trụ của họ.Tôi đọc Walcott, Bishop,
Ondaatje,
Szymborska, Bonta, và cả chục thi sĩ xuấtsắc khác, nhưng trên tất cả
tôi đọc
Heaney và Tranströmer, hai người, bằng haicách khác nhau, đã kết hợp
những vấn
đề trọng đại nhất với kinh nghiệm cá nhân.
Đọc
Tranströmer – thời điểm thích hợp nhất là vào ban đêm, trong im lặng,
và một
mình – là buông thả theo những điều nằm bên ngoài lẽ tựnhiên. Đó là
trèo ra khỏi
giường và lắng nghe ngôi nhà nói chuyện gì và ngọngió trả lời như thế
nào. Mỗi
độc giả đọc ông xem đó là một bí mật cá nhân. Vì lý do này, không khỏi
lạ lùng
khi nhìn thấy một ông tổ sư của sự cô độc
lại được chào mừng ồn ào trên đườngphố hay là chủ đề thời thượng trên
Twitter
và có sách bán chạy nhất trênAmazon. Ông thường trú ngụ trong những
lãnh vực
yên tĩnh hơn.
Thơ của
Tranströmer chịu ảnh hưởng truyền thống Nhật Bản và khởiđầu sự nghiệp
ông đã
làm thơ haiku. Đọc ông, độc giả cũng liên tưởng đến cácnhà thơ Hoa Kỳ
như
Charles Simic (khuynh hướng siêu thực) và Jim Harrison, GarySnyder, và
W. S.
Merwin (vì cách nói đơn giản và sự thông tuệ như công ánThiền). Nhưng
Tranströmer có cách mê hoặc riêng, những thí dụ mãnh liệt nhất đếntrong
tư tưởng
tôi là âm nhạc của Arvo Pärt và những tấm ảnh chụp của SaulLeiter.
Tôi bơi ra
ngoài trong cơn mê muội
trên nước
đen lấp lánh
Tiếng kèn tu
ba đều đặn trôi vào
Đó là giọng
người bạn: “Nhận huyệt mộ của bạn và bướcđi.” (Từ “Two Cities” Hai
Thành Phố)
Thơ của ông
chứa đựng sự đơn giản rất minh bạch; nó bànhtrướng cho đến khi nó đẩy
cái bản
ngã của bạn ra khỏi tổ ấm, và chỉ còn bạn,một mình với Sự Thật. Trong
thơ của
Tranströmer, bạn chiếm chỗ không gian mộtcách khác biệt; thân thể trở
nên vật
thể, tư tưởng trôi nổi, đồ vật có đờiriêng và kể cả những thứ không
phải là vật
thể, ngay cả quan niệm, đều có sựsống. Hồi ký của ông, “Ký Ức Ngắm Nhìn
Tôi,” tạo
cảm hứng cho tôi đặt tên cộtbáo hằng tuần tôi phụ trách cho tờ báo
Nigeria NEXT
(trong những năm cócột báo của tôi) “Chữ Nghĩa Theo Tôi.” Có rất nhiều
thứ đi
theo trong thơ của Tranströmer,ngắm nhìn nhiều, từ xa và ở gần, cây
cối, quá khứ,
nhà cửa, khoảng cách, cơn yênlặng, và ruộng đồng, tất cả đều đảm nhiệm
vai trò
người quan sát. Có rất nhiều giấc mơ.
Tôi mơ tôi
đã phác họa những phím đàn dương cầm
trên bàn
trong bếp. Tôi nhấn phím đàn, không âm thanh.
Láng giềng đến
xem. (Từ “Grief Gondola #2” Gondola ĐauBuồn số 2)
Thơ của
Tranströmer được phiên dịch sang Anh ngữ rất nhiều (ngay cả khi không
được
phiên dịch, cho đến tuần này, là sách bán chạy nhất), cónhiều bản dịch
khác
nhau do nhiều dịch giả như May Swenson, Robin Fulton,Robin Robertson và
nhiều
người khác. Quyển thơ tôi thích nhất là “TheHalf-Finished Heaven (Thiên
Đàng
Dang Dở),” một tuyển tập do Robert Bly phiêndịch. Ngôn ngữ của Bly
trong sáng
và trực tiếp đến độ dường như đốt giai đoạn phiên dịch. Đây là tuyển
tập tôi
thường đọc nhất trong những năm kinh hoàng dưới thời Bush và Cheney,
mặc dù là
vào khoảng thời gian ấy, lòng tin vào ThượngĐế của tôi cũng phai mờ,
tôi cảm thấy
tôi cần, giữ vững niềm tin trong một đám nhân chứng. Tôi đã lạc lối rời
xa giáo
điều tôn giáo, nhưng cơn đói thèm một bài diễn văn nhiệm màu chưa nguôi
ngoai.
Những bài thơ huyền bí củaTranströmer, bay vần vũ ở bên cạnh bờ vực của
những
điều không thể nói thànhlời, gặp tôi ngay ở điểm chính của nhu cầu.
Tôi mở cánh
cửa đầu tiên. phòng rộng đầy ánh sáng mặt trời. Xe nặng nề chạy bên
ngoài làm
đĩa bát run rẩy.
Tôi mở cánh
cửa thứ hai. Bạn bè! Bạn uống chút bóngtối và trở nên hữu hình.
Cánh cửa thứ
ba. Căn phòng khách sạn nhỏ hẹp. Nhìn ra ngõ hẽm. Ngọn đèn chiếu sáng
mặt nhựa
đường. Kinh nghiệm, chất phế thải của nó đẹp. (Từ “Elegy” Điếu Ca).
Và, tác phẩm
“The Scattered Congregation, Nhóm Người Tản Mác”gồm có năm phần ngắn,
có những
dòng thơ này:
Chúng tôi
chuẩn bị khoe ngôi nhà. Người khách nghĩ:bạn sống sung sướng. Xóm tồi
tàn phải
nằm trong lòng bạn.
Nicodemus, kẻ
mộng du đang trên đường đi đến Địa chỉ.Ai giữ Địa chỉ ấy? Không biết.
Nhưng đó
là nơi chúng ta sẽ đến.
Trong nhiều
bài thơ có một sự bất lực, cảm giác bị cái gì đó lôi cuốn đi mà không
thể kháng
cự và cũng không nhìn thấy. Thơ ông có những nhận định về xã hội rất
chua chát,
cảm giác công lý bị thương tích (“khu tồi tàn phải nằm trong lòng bạn”
– nhiều
năm Tranströmer là chuyên gia tâm lý ở mộtcơ quan dành cho trẻ vị thành
niên phạm
pháp). Trong thơ ông cũng có vẻ bất động không thể phân biệt được với
một tốc độ
tuyệt nhanh, tương tự âm nhạc của ArvoPärt có thể cùng một lúc vừa
nhanh vừa chậm.
Cũng may là tôi không biết hỗ thẹnvề chuyện bị ảnh hưởng, bởi vì tôi
nhận ra có
rất nhiều quan niệm của Tranströmer tôi đã “gói” trong các tác phẩm của
tôi.
Khi tôi được hỏi điều gì tôi yêu thích nhất về New York ,tôi thường trả
lời bằng
một câu ngắn lấy từ trong Schubertiana”:
Bên ngoài
thành phố New York, ở một chỗ trên cao nơi cái nhìn thoáng qua bạn thu
vào những
ngôi nhà nơi tám triệu người đang sống.
Những hình ảnh
mà Tranströmer dùng để làm phong phú thơ của ông làm tôi nghĩ đến khái
niệm
“acheiropoieta,” “nghệ thuật sáng tạo không dung tay; trong nghệ thuật
Byzantine, những hình ảnh được tạo ra mà không dùng tay là những hình
ảnh người
ta cho là chúng tự biến thành vật thể mà do họa sĩ vẽ nên.Tấm mạng
Turin và tấm
mạng Veronica là những thí dụ nổi tiếng nhất. Những hình ảnh này được
ghi nhận
bởi cách tiếp xúc trực tiếp, và chúng thường là hình ảnh Gương Mặt
củaChúa.
(Albrecht Dürer, trong thái độ thiếu khiêm tốn của ông, đã gián tiếp
dung những
phương pháp này khi ông ta vẽ điên cuồng chính diện thân thể trần
truồng của
ông vào năm 1500.) Tôi có cảm giác cách dùng hình ảnh của Tranströmer
cũng giống
như thế, và giống như cách in từ phim chụp ảnh mặt phụ (negative) hay
mặtchính
(positive). Không có chứng cớ cụ thể; mà thay vào đó là cái cảm giác
của sựđến
bất thình lình của vật đã hiện diện sẵn, như trường hợp con cá voi trồi
lên để
thở: khổng lồ, hân hoan, và mau kết thúc.
Sự thỏa mãn,
thú vui, cảm giác dễ chịu người ta nhận được từ những bài thơ này ở chỗ
chúng
nó dường như đã hiện diện trước chúng ta. Hoặc có lẽ, nói một cách
khác, sự nhiệm
mầu nằm trong khả năng chúng có thể trình bày các khía cạnh của cuộc
đời của
chúng ta đã lâu năm bị chôn vùi dưới phong cách cá nhân, văn hóa, và
ngôn ngữ.
Những bài thơ nhớ đến chúng ta và, nếu chúng ta tuyệt đối giữ yên tĩnh,
sẽ cho
chúng ta cơ hội nhìn thấy bóng dáng của chúngta.
NTHH
Teju Cole:
Nhà văn, sử gia nghệ thuật, nhiếp ảnh viên trênphố. Sinh ra ở Hoa Kỳ
năm 1975,
cha mẹ là người Nigeria, sống ở Brooklyn, tácgiả của hai tiểu thuyết,
tiểu thuyết
ngắn Every Day is for the Thief (Mỗi NgàyLà Một Kẻ Cắp), và một tiểu
thuyết dài
là Open City (Thành phố Mở). Cộng tácviên của Qarrtsiluni, Chimurenga,
the New
Yorker, Transition, Tin House, etc.Hiện đang viết một quyển ký về Lagos
và
Small Faté (Định Mệnh Nhỏ Bé). Giáo Sư ở Bard College (Khóa mùa Xuân
2012).
Soure
|