|
Nhân
"Meursault, Phản Điều Tra" đợp Goncourt (1)
Camus vs Meursault, Phản
Điều Tra
Tờ TLS,
Jan 15, 2010, mục Tạp
Ghi, tiểu mục Lễ lạc văn học, Literary Anniversaries: Năm mươi năm
trước Camus
tử nạn xe hơi trên đường đi Paris, chiếc xe hơi của ông, Facel Vega
HK500, một địch
thủ của Aston Martin vào thời kỳ đó. Tháng Nov. cùng năm nhà văn Mẽo ly
hương
Richard Wright mất tại bệnh viện Eugène Gibez, nằm trên con phố
Vaugirard.
Camus 46 tuổi., Wright 52.
Thế rồi tờ báo viết tiếp: Cái
chuyện bạn xục xạo để tìm ra một điều gì mới về Camus, thì kể như zéro,
bởi vì ông
này là nhà văn được tìm hiểu [researched] nhiều nhất trong thế kỷ vừa
qua.
Wright cũng không phải là nhà văn vô danh, tuy thế giá không bằng
Camus, nhưng
cũng đã có tới năm cuốn tiểu sử khác nhau về ông. Hi vọng độc nhất, của
chúng
ta là, tại sao không nối hai ông này lại, để tìm ra một điều gì mới?
Có, thật!
Wright là một “thằng bé da đen”
(a “black boy”: tên cuốn tiểu sử của ông), từ Mississippi
lên Chicago, rồi New York; Camus: một tên chân đen (a pied noir),
từ French Algeria, dời đi Paris.
Cả hai như thế đều là di dân bắc tiến. Cả hai đều viết về một vụ sát
nhân tình
cờ. Camus trong Kẻ Xa Lạ, L’Étranger;
Wright, trong Native Son. Cả hai đều láng cháng
với những râu ria của chủ nghĩa hiện sinh của khu Chợ Cầu Muối,
St-Germain-des-Prés. Trong lúc Camus cố giãn ra khỏi băng đảng [“Tớ đâu
phải ‘con
hoang’ của Sartre!”], Wright bệ nguyên con, nào pour-soi,
nào en-soi vào
cuộc sống đường phố của đám Mẽo gốc Phi châu, và đẻ ra được một tác
phẩm thật bảnh.
Bạn có biết tên tác phẩm là gì không? The
Outsider (1953). Đúng cái tít cuốn của Camus được dịch qua tiếng
Anh, tại
Anh, trong khi tại Mẽo, nó có tên là The
Stranger. (b)
Bận lòng
Note: GCC - mô phỏng
TLS - muốn tìm ra, liên hệ, nếu có, giữa, một bên - thú ăn thịt chó của
dân Bắc,
Cái Đói, Cái Ác, Bắc Kít, và một bên - một tên Bắc Kít có thời ghiền xì
ke là
GCC.
Chắc bạn biết câu ca dao
thần sầu:
Em như cục kít
trôi sông
Anh như chó đói
chạy rông bên bờ
[Nhớ đại khái]
Và kinh nghiệm
này: Thịt chó phải hai lửa mới ngon.
Kít có thể
coi như cơm “bậc hai”!
Và kinh nghiệm
này. Thuốc phiện, thứ pure, với dân ghiền, chỉ như nước lã, hút bao
nhiêu cũng
chẳng đủ. Phải sái, bậc nhất, bậc nhì, bậc ba, mới đã cơn ghiền.
Chó ăn uống
y chang con người. Còn hơn con người, vì chúng thưởng thức được thứ cơm
bậc hai.
Chúng như dân ghiền, chỉ khoái sái, thay vì thuốc phiện “còn trinh”!
Do ăn như
con người, nên tất nhiên/chẳc hẳn là, thịt của chúng, rất giống thịt
người!
GCC chỉ đưa
ra những dữ kiện. Phần kết luận, dành cho bạn, độc giả TV.
Kamel Daoud, prix Goncourt
du Premier roman
Hụt năm ngoái, năm nay OK!
Dans
"Meursault, contre-enquête", le journaliste et romancier algérien
proposait une relecture de "l'Etranger" de Camus.
Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a
reçu ce mardi 5 mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).
Dans ce spin-off de «l’Etranger», Daoud fait parler le frère de l’Arabe
tué par
Meursault dans le livre d’Albert Camus. Il donne un nom à cet illustre
inconnu,
Moussa, et raconte son histoire - manière de relire un classique sous
l’angle
du non-dit colonial. L’autre côté de l’histoire, en somme.
Dans une récente interview au «New Yorker», Daoud,
célèbre en Algérie pour ses chroniques
tonitruantes, présente son livre comme «une
manière d’analyser l’œuvre de Camus, […] de la faire relire
par un
Algérien et par des lecteurs d’aujourd’hui.»
Il ne faudrait pas résumer le roman à cette seule
démarche. Il a sa propre
histoire à raconter, celle de Haroun, le frère de Moussa. Il parle sa
propre
langue, bien plus ronde que la camusienne. Mais c’est bien l’ouverture
du
roman, dans laquelle le narrateur reproche à Camus d’avoir glosé sur
l’absurdité de la condition humaine en taisant la violence de la
condition
coloniale, qui s’est imposée comme le texte le plus fort paru l’année
dernière.
Sorti en 2013 en
Algérie
et en juin dernier chez nous, le roman de Kamel Daoud a connu un très
joli
succès. Il a notamment été finaliste du grand Goncourt, en novembre, et
a reçu le prix des Cinq
Continents. Aujourd’hui, tandis
que son
auteur se trouve menacé par un appel à la
fatwa, il s’exporte. Il paraîtra
en juin aux Etats-Unis, où «l’Etranger» est un classique révéré,
sous le titre «The Meursault
Investigation».
L'Académie
Goncourt a par ailleurs remis d'autres prix. Le prix de la
Poésie/Robert Sabatier,
lui, va à William Cliff, et celui de la Nouvelle à Patrice Franceschi
pour «Première personne du singulier» (Points Seuil).
Sách
Báo Mới [new]
Nhân nói về
tác giả gối đầu giường, thì, với Gấu, còn có Camus. Đọc hồi mới lớn,
quá mê, khác
hẳn ông anh TTT. Khi Camus mất vì tai nạn xe hơi, TTT đi 1 bài thật là
nặng nề
về Camus, kết thúc bài viết bằng 1 câu thật là nặng nề, cái chết của
Camus đóng
chặt ông vào quá khứ, nhớ đại khái.
Hậu thế cho
thấy TTT sai lầm về Camus. Thế giá của Camus, ngày càng sáng chói. Thái
độ của
Camus, khi chê Camus, tương tự Vargas Llosa, nhưng ông Nobel này có dịp
nhận ra
sai lầm của mình.
TTT không có cái may mắn này.
Vả chăng người ta nói,
yêu
Camus, nhiều hơn là mê 1 tác giả nhà văn, đúng như 1 cái tít trên tờ
The New
Yorker.
Camus @ 100
"Một đời đáng
sống". Cuốn này cũng tuyệt lắm. Camus rất mê Nietzsche, nhưng chính cú
Lò Thiêu làm ông khựng lại và đọc lại Nietzsche, như đoạn sau đây cho
thấy:
Camus first
discovered Friedrich Nietzsche as a teenager- his university professor
and
mentor, Jean Grenier, made the introductions-and his first published
essay,
edited by Grenier and published in the journal Sud,
was on Nietzsche and music. His lifelong engagement with
Nietzsche, admiring but critical, sprawls across his notebooks. "I owe
to
Nietzsche a part of who I am," he acknowledged, gratefully. What Camus
most admired was Nietzsche's slashing and mordant style, as well as his
fierce
clarity about a world that no longer supported the religious or
metaphysical
fictions with which humankind had burdened it. In The Myth of Sisyphus,
Camus
praises Nietzsche for having banished all hope for the future:
"Nietzsche appears
to be the only artist to have derived the extreme consequence of an
aesthetic
of the Absurd, inasmuch as his final message lies in a sterile and
conquering
lucidity and an obstinate negation of any supernatural consolation.”
Casting himself
as the surveyor of the varieties of nihilism flowering in our emptied
cosmos,
Nietzsche had the courage to call a void a void. Yet, he was a nihilist
not by vocation,
but by necessity: "He diagnosed in himself, and in others, the
inability
to believe and the disappearance of the primitive foundation of all
faith-namely, the belief in life." Michel Onfray notes that Camus, a
serious reader of Nietzsche, was nevertheless not a Nietzschean." By
the time
he published The Myth of Sisyphus Camus discovered that Nietzsche had
dazzled
other readers apart from himself, but with catastrophic consequences.
In a
world relieved of God and morality, everything was indeed permitted.
Under the
sun of Algiers, the embrace of fate-Nietzsche's amor fati,
his Zarathustrian
"Yes!" to all joys and all woes-dovetailed with Camus' youthful love
of the world. But the iron
sky over Auschwitz, Camus insisted, forced us to
reconsider the ways in which yet others had interpreted Nietzsche.
We know,
Camus announced, Nietzsche's
"posterity and what kind of politics were to claim the authorization of
the man who claimed to be the last anti-political German. He dreamed of tyrants
who were artists. But tyranny comes more naturally than art to mediocre
men." And yet Nietzsche remained with Camus to the end. On
January 2,
1960, when the car in which Camus was driving smashed into the plane
tree
alongside the road, killing both him and the driver, his friend Michel
Gallimard,
Camus' briefcase was flung several yards from the car. It contained his
identity papers, a copy of Shakespeare's Othello) the manuscript for
The First
Man and a copy of The Gay Science. In this collection of aphorisms,
Nietzsche
jousts with Socrates, the philosopher who never wrote, yet at the same
time
never seemed to be short of words. Not only was Socrates "the wisest
chatterer of all time," Nietzsche remarks, "he was equally great in
silence." He then laments, ironically, that Socrates failed to be
silent
when it was most essential: as he died, he uttered his famously elusive
remark
to his friend Crito: "I owe Asclepius a rooster." For Nietzsche, this
meant nothing less than that even Socrates, the most cheerful and
courageous of
men, nevertheless "suffered life." As a result, Nietzsche concluded:
"We must overcome even the Greeks!"
Được mê nhất trong số
những nhà văn Tẩy (a)
Note: TV sẽ
đi hai bài trên, nhân năm sắp tới, 2013, năm nay, là kỷ niệm 100 năm
năm sinh của
Camus, 1
trong những ông Thầy của Gấu hồi mới lớn.
Về già, Gấu tự hỏi, giả như
không gặp
ông hồi đó, và những ông như Lukacs, Henri Lefebvre, Koestler.. thì số
phận Gấu
ra sao?
Có thể nói, ông
trời già, chủng cho Gấu, đủ thứ thuốc chủng, ngừa “trùng độc” - chữ này
thuổng
Da Màu, dịch từ “virus” – có sẵn trong máu, là Cái Ác Bắc Kít, nhằm
ngăn ngừa nó
gây họa:
Bò lên rừng phò đao phủ
thủ HPNT!
« Camus paie
pour sa rectitude, sa droiture, la justesse de ses combats, il paie
pour son
honnêteté, sa passion pour la vérité. »
Michel
Onfray
[Camus trả
giá cho tính chính trực, sự cương trực, xác đáng trong những trận đánh
của ông,
ông trả giá cho sự thành thực, lương thiện, cho đam mê sự thực của mình]
Résistant au
mirage du communisme
[Cưỡng lại ảo
vọng Cộng Sản]
Sun, Dec 23,
2012
Thư Chào hỏi
K/G ông Cà
Chớn,
Một mình ông
( là Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục
ông rồi,
tôi biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à
nghe !
Tks again
Best Tết to
U & Family
NQT
Hai cuộc chiến, với Pháp, và
với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn
trở lại
Việt Nam.
Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối
với mẫu
quốc ngày nào của dân Mít:
FOREWORD
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Nam Le, bestseller
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
*
Cái tít truyện “Love and
Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:
THE
BOAT is an engaging and
free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le,
organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first
story,
"Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a
title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in
1950), a
young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just
arrived from Australia.
Nam has
settled in Iowa
to attend the renowned Iowa Writer's
Workshop.
As he struggles to meet its
creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam,
since
"ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a
license to bore. The characters are always flat, generic." It's that
last
friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the
Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian
vampires and
Colombian assassins, and Hiroshima
orphans - and New York
painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the
perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia
as he is called to task by his boss for failing to carry out an
execution. Next
comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted
painter seeking desperately to make amends with his estranged (and
engaged)
daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist.
Another
story, titled simpy "Hiroshima,"
traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the
nearby
countryside in the days immediately preceding the dropping of the
atomic bomb.
"Hiroshima" is sandwiched between two
other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian
town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran.
After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam
for his
title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and
survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in
the
Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that
has lost
its engines.
So what to make of the
metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam
succumbs to the pressure of his
writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He
interviews his father, a survivor of the My Lai
massacre, and converts this horrific story relatively quickly and
easily into
typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his
father has
read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author
discarded
ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the
first story)
for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has
he, upon
attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of
others,
returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing
story? Is
the reader intended to compare the relative merits of Nam's
own
ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at
large? Or are
we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of
the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or
escape, the
other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that
the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener
is
touching in its treatment of intergenerational relationships and
differences in
perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst,
and
death for the sake of freedom. In between, the other stories show
notable
flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia
engages the reader with anything approaching the story-telling power of
the
opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional
friend in his opening story is correct, that one writes best about what
one
knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic
literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial
talent that
promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a
future
range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to
recommend this book on its merits and also advise readers to keep a
watchful
eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*
The poet's, the
writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor
and hope
and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the
glory of
his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can
be one
of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William
Faulkner: Nobel Prize
Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này,
cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?
Gặp Hà Nội 1
phát là mê liền.
Chưa ghê bằng
1 ông nhà văn Mít hải ngoại, Bắc Kít 1954, bị bố mẹ bắt di cư, rồi bắt
qua Mẽo,
mất mẹ căn cước Mít, về Hà Nội, nhìn hai vết đạn Tẩy để lại trên thân
thể Hà Nội
mà đau như cắt, và khi hỏi, về không, làm sao không, về đâu, Hà Nội chứ
đâu nữa!
Ở hay Về
Với Hà
Nội,
tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp
có chút
ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ.
Kẻ
lạ cũng
là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng
bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có
người
bạn hỏi
đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.”
Không kịp
suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
Nguồn
|