1 2
|
Một thời vô song: Sự tạo
thành một
nhà văn có tên là William Faulkner
J. M.
Coetzee, trên tờ Điểm Sách Nữu Ước NYRB
[số đề ngày 7 Tháng Tư, 2005], khi điểm cuốn tiểu sử Faulkner, của Jay
Parini [One Matchless Time: A Life of William
Faulkner, Một thời vô song: Cuộc đời W. Faulkner, nhà xb
HarperCollins, 492
trang, $29.95], đã mở ra bằng một câu của chính Faulkner:
"Bây giờ,
lần đầu tôi nhận ra," Faulkner viết cho một bà bạn, khi nhìn ngoái lại
- từ
lợi điểm, là khoảng giữa những năm năm mươi của ông - "tôi có một của
báu
thật là lạ: vô học trong bất kỳ ý nghĩa chính qui nào, chẳng có bạn hay
chữ,
nói chi bạn giỏi văn, thế mà lại làm được những điều tôi đã làm. Tôi
không biết
nó từ đâu tới. Tôi không biết tại sao Ông Trời, hay các thần linh, hay
chẳng rõ
vị nào, chọn tôi làm con thuyền."
["Now I
realize for the first time", wrote William Faulkner to a woman friend,
looking back from the vantage point of his mid-fifties," what an
amazing
gift I had: uneducated in every formal sense, without even very
literate, let
alone literary, companions, yet to have made the things I made. I don't
know
where it came from. I don't know why God or gods or whoever it was,
selected me
to be the vessel"]
Coetzee cho
rằng, chút hồ nghi về mình, của Faulkner, không được “thực thà” cho
lắm. Bởi
vì, như cái kiểu nhà văn mà ông muốn trở thành, ông có đủ thứ học vấn,
đủ thứ
sách học mà ông cần. Còn nói về bạn, ông có những bạn già tay chân
xương xẩu,
nhớ dai, nhớ đủ thứ, và cũng thật hay chuyện, không phải thứ văn nhược.
Tuy
nhiên, ngạc nhiên về ông cũng không hiếm. Bởi vì, ai mà tiên đoán ra
được, một
thằng bé từ một miền khỉ ho cò gáy Mississipi, trở thành, không chỉ một
nhà văn
nổi tiếng, ở nhà cũng như ở toàn thế giới, mà còn một nhà văn đổi mới
triệt để về tiểu thuyết Mỹ, đến nỗi, đám
tiền phong ở
Âu Châu và Mỹ Châu La Tinh phải xin thọ giáo.
Về cái học
trường lớp, với Faulkner, quả là quá ít ỏi. Ông đi bụi rất sớm, ngay
những năm
đầu trung học, [ông cụ bà cụ của ông coi bộ cũng chẳng thèm quan tâm
tới chuyện
này]. Và mặc dù cũng sinh viên Đại học Mississipi, nhưng đây là do ưu
ái mấy
ông nhà binh giải ngũ muốn cắp sách trở lại. Bảng học vấn của ông mới
tồi tệ
làm sao: một semester [học kỳ sáu tháng] tiếng Anh [grade, hạng: D],
hai
semesters tiếng Pháp và Tây Ban Nha. Về cái chuyện trở thành nhà thám
hiểm,
khai phá linh hồn [hay, tâm hồn] Miền Nam hậu chiến, For this explorer
of the
mind of the post-bellum South: ông đếch thèm học sử. Về cái chuyện trở
thành một
tiểu thuyết gia muốn đan dệt thời gian
Bergson, the Bergsonian time, vào cú pháp của hồi ức, the syntax of
memory, ông
đếch thèm học triết hay tâm lý học.
Thay vì học
ba thứ lẩm cẩm nói trên, anh chàng có hơi mơ mộng là Billy Faulkner lại
ép mình
vào trong một cái đọc rất ư là chật hẹp [narrow], và rất ư là gay cấn,
khẩn
trương [intense], là thi ca Anh cuối thế kỷ, nhất là hai tay Swinburne và Housman, và ba tiểu thuyết gia
Balzac, Dickens và Conrad. Ba ông này, bằng những từ của Coetzee mô tả:
làm cho
những thế giới giả tưởng sống động và hài hòa, đủ để tiếp mộc di hoa,
theo
nghĩa, ba cây chụm lại thành hòn núi cao, tạo ra được đích thị xừ luỷ,
the real
one, [tức William Faulkner].
Tuy nhiên,
cũng phải thêm vô, tí ti đọc Cựu Ước,
Shakespeare, và Cá Voi Trắng, và vài
năm sau đó, một nghiên cứu nhanh, những gì hai đấng đàn anh, [những
người đồng
thời nhưng nhiều tuổi hơn] - T.S. Eliot và James Joyce - đã từng ngó
qua. Thế
là chàng đã được võ trang đầy đủ, sẵn sàng nhập trận.
Về phần chất
liệu, những gì chàng thâu lượm được, trong những năm học Oxford, hay
rong chơi
nơi quê hương tôi đất mặn... Cà Mâu,
[Mississipi], hóa ra lại quá đủ, nếu không muốn nói, thừa mứa: Một sử
thi, kể
đi kể lại không bao giờ hết, về Miền Nam, một câu chuyện về độc ác, về
bất
công, về hy vọng, về thất vọng, về nông nỗi hoá thành nạn nhân, về đề
kháng.
Chàng Billy
Faulkner vừa mới bỏ trường lớp, chưa kịp đi hoang, thì cuộc Đệ Nhất Thế
Chiến nổ
ra. Quá mê mẩn với giấc mơ hoành tráng, trở thành phi công bay trên
vùng trời Đức,
chàng làm đơn nhập ngũ, và được đưa tới Không Lực Hoàng Gia, The Royal Air Force. Nơi đây đang quá cần
ba thứ nhân lực mới tinh này, thế là chàng bèn được đưa qua Canada để
thực tập.
Thảm một nỗi, chưa hết khoá học đầu, chưa bay mình ên, dù chỉ một lần,
chiến
tranh đà chấm dứt!
Chàng trở lại
Oxford, diện đồ bay Không Lực Hoàng Gia, cố sửa giọng đúng điệu dân Ăng
Lê,
chân đi hơi cà nhắc một tí. Một tai nạn nho nhỏ trong khi bay, chàng
giải
thích. Với mấy tướng thật là thân, chàng thì thào, trong người tớ còn
có một miểng
kim loại!
Chàng đánh
bóng những huyền thoại bay của mình trong nhiều năm. Và chỉ xuống
giọng, khi trở
thành nhân vật quốc gia, sợ rằng, lỡ có thằng khốn nào bới lông tìm
vết, và nếu
thế, thì nguy quá! [the risk of exposure loomed too large].
Thua thì
thua cố níu lấy con: Khổ một nỗi, giấc mơ bay không từ bỏ chàng, mà
chàng cũng
chẳng thể từ bỏ được nó. Trong nhiều năm, cố dành dụm, vào năm 1933,
chàng học
bay trở lại, và sắm cho mình một chiếc phi cơ, đi một đường quảng cáo: "William Faulkner [nhà văn nhớn nổi tiếng,
Famous Author] Air Circus" [Gánh xiệc bay].
Mấy tay
chuyên viết tiểu sử coi đây là những trò ưa mút ngón tay, thèm nổi
tiếng, thèm
được người đời chú ý tới. Frederick R. Karl tin rằng, "chiến tranh đã
biến
đổi [Faulkner] thành một người kể chuyện, a storyteller, một tay phịa
chuyện, a
fictionist, và đây là một mốc rất quan trọng trong đời chàng".
Cái chuyện bịp,
và bịp một cách thật là dễ dàng, những con người tốt bụng chung quanh,
vào thời
gian học Oxford, đã chứng tỏ cho Faulkner thấy rằng, dối trá có thể
đánh bại sự
thực. Và, hơn thế nữa, người ta có thể kiếm sống bằng điều quái dị,
vượt ra khỏi
đời thường, one can make a living out of the fantasy.
Trở về nhà,
Faulkner sống một cuộc sống bồng bềnh, trôi nổi, a drifting life. Chàng
mần
thơ, về “cái rốn”, mượn chữ của nhóm TCT [Tạp Chí Thơ], để dịch từ
“epience”;
Faulkner khi dùng từ này, thực sự để chỉ những người đàn bà “eo hẹp”
[narrow-hipped], mà ông đêm ngày mơ tưởng; những bài thơ của chàng,
theo
Coetzee, cho dù cái mũi của bạn lạc quan, dễ dãi cách mấy thì cũng
không thể
nào ngửi được! Chàng bắt đầu ký, không phải Falkner, như tên khai sinh,
nhưng
Faulkner, và, nhà có dòng, chàng bắt đầu nhậu như hũ chìm. Trong vài
năm chàng
làm nghề bán tem [postmaster] tại một bưu điện nhỏ cho tới khi, do
trình diễn tệ
quá, trong việc bán tem, chàng bị cho nghỉ việc [until he was dismissed
for
poor performance]. Chàng trải qua hàng giờ trong quầy bán tem như thế
đó, để đọc
và viết.
Đối với một
người nào khăng khăng đi theo sự mách bảo của “thiên hướng của chính
mình” [his
own inclinations], thật kỳ kỳ, nghĩa là, thay vì xếp mền chiếu, lên
đường kiếm
chút ánh sáng nơi những đô thị lớn, chàng chọn thành phố nơi chàng sinh
ra, và ở
đây, cái việc viết lách của chàng bị coi là một trò nhạo báng. Jay
Parini, người
viết cuốn tiểu sử mới nhất về Faulkner, đã giải thích, Faulkner không
làm sao rời
xa bà mẹ của ông, một người đàn bà mà tình cảm dành con trai nhiều hơn
là cho
ông chồng đần độn, nhu nhược.
Trong những
lần “đột nhập” New Orleans, Faulkner mở ra được một vòng tròn những ông
bạn
giang hồ tứ chiếng của mình, và gặp Sherwood Anderson, một tay viết
biên niên sử
về Winesburg, Ohio, tình bạn sau này làm chàng đau đớn. Chàng bắt đầu
cho in những
bài viết ngắn trên báo chí New Orleans; hơn thế nữa, chàng còn mê lý
thuyết văn
học. Willard Huntington Wright, đệ tử của Walter Pater, đã gây ấn tượng
ở nơi
chàng. Trong Ý Chí Sáng Tác [The Creative Will, 1916], chàng đọc,
Wright cho rằng,
nhà nghệ sĩ thứ thiệt là cô đơn do bản chất, “một vị thần chỗ nào cũng
có mặt,
vị thần này tạo khuôn tạo dáng cho cái gọi là định mệnh của một thế
giới mới, rồi
dẫn dắt tới cõi viên mãn của nó, “đứng một mình, tự chuyển động, độc
lập”, và
khiến cho kẻ tạo ra nó sướng điên lên được, [exalted of spirit]. Kiểu
nghệ
sĩ-thần thánh, theo Wright, là Honoré de Balzac. Tay này còn hơn cả
Émile Zola,
vốn chỉ có thể coi là một tay mô phỏng [copyist] thực tại hiện hữu
trước đó [a
pre-existing reality].
Vào năm
1925, Faulkner làm chuyến đi nước ngoài đầu tiên. Chàng trải qua hai
tháng ở
Paris và chàng thích nó. Chàng tậu một cái mũ beret, để râu, và bắt đầu
viết một
cuốn tiểu thuyết - chẳng mấy chốc liệng thùng rác - về chàng họa sĩ với
vết
thương chiến tranh mò tới Paris thực hiện giấc mơ nghệ thuật. Chàng
quanh quẩn
quán cà phê James Joyce thường hay ngồi. Ở đó, có lần chàng thoáng thấy
nhà văn
nhớn, nhưng lại rụt rè không dám tới gần.
Như vậy là,
sau cùng, như những chi tiết như trên cho thấy, chẳng một tí gì, về một
chàng sẽ
là nhà văn. Chẳng có một tia sáng nào loé ra, về một thiên tài văn
chương. Thế
mà, vừa mới trở lại quê hương Mẽo được ít lâu, chàng ngồi xuống bàn, và
viết ra
một sơ đồ 14 ngàn từ, những ý nghĩ, tư tưởng, nhân vật. Đây chính là
cái cốt tuỷ,
mà sau này, chàng dựa vào đó, đẻ ra được những cuốn tiểu thuyết, xin
nhắc lại,
những cuốn tiểu thuyết lớn lao, trong những năm từ 1919 tới 1942. Cái
bản thảo,
bản nháp, cuốn bí kíp đầu tay của chính ngài giáo chủ môn phái văn
chương “dòng
ý thức, ý thức nội tâm, dòng lảm nhảm một mình, độc thoại nội tâm”…. gì
gì đó,
có tên là Yoknapatawpha County [Bản, Làng, Quận, Miền…
có tên là Yoknapatawpha]. Một Thiên Thai của
chàng.
Khi còn là một
đứa bé, Faulkner cũng có một bà chị Hoài [Hoài này là từ Nguyễn Tuân, Tóc Chị Hoài,
không phải Sến. NQT]. Thực ra, tên cô bạn gái lớn tuổi hơn cậu là
Estelle
Oldham. Hai cô cậu đã từng thề non hẹn biển. Nhưng khi đã đến tuổi có
thể làm vợ
chồng, cha mẹ cô gái, do chẳng mấy thích thú cái thứ tuổi trẻ bông lông
vô nghề
nghiệp của Faulkner, bèn cho cô gái lấy chồng xa, một anh chàng luật sư
sáng
giá. Khi Estelle trở về nhà bố mẹ, thì đã là một goá phụ, tay bế tay
bồng [with
two small children].
Faulkner có
vẻ như chẳng hy vọng gì về chuyện tiếp nối ân tình. Nhưng, “bảnh” như
mình
không lẽ rút dù. Và họ thực hiện lời chỉ trăng thề, bên giếng ngày nào.
Estelle cũng
chẳng hơn, nàng cũng hồ nghi. Cuộc hôn nhân không hạnh phúc, phải nói
là tệ hại.
“Họ chẳng hợp đôi chút nào”, cô con gái của họ, Jill, nói với Parini.
“Chẳng có
gì là đúng cả, nếu nói về cuộc hôn nhân”.
Estelle là một
người đàn bà thông minh. Nhưng nàng có thói quen xài tiền, luôn cả thói
quen cần
nhiều người làm để sai bảo. Cuộc sống trong “khung rêu” [chữ của Thuỵ
Vũ, để chỉ
những gia đình địa chủ mền nam đang suy thoái, chờ cuộc đổi đời, là
Cách Mạng,
do miền bắc đem lại. Nguyên văn Coetzee: một căn nhà cũ kỹ, rệu rạo,
mục nát],
với một ông chồng sáng nào cũng hí ha hí hoáy, mân mê ba con chữ, chiều
loay
hoay thay ba cây cột mục nát, hay săm soi ba ống nước, một cuộc sống
như thế quả
là một cú sốc lớn đối với nàng. Một đứa bé ra đời, nhưng chết hai tuần
lễ sau
đó. Jill sinh năm 1933. Cuộc sống chăn gối của đôi vợ chồng kể như
ngưng từ đó.
Hàng ngày
nhìn thấy nhau, ra vô nhìn thấy nhau, nhưng nghìn trùng xa cách, thế
là, mặc ai
người nấy uống. Vào cuối tuổi trung niên của đời mình, Estelle cố bỏ,
và bỏ được,
rượu. William, chẳng bao giờ. Ông có những cuộc tình với những người
đàn bà trẻ
hơn, và không đủ sức, hay bất cẩn, hay không thèm giấu diếm, thế là
chiến tranh
xẩy ra hàng bữa, cuộc sống vợ chồng ngày càng biến thành, như người
viết cuốn
tiểu sử thứ nhất về Faulkner là Joseph Blotner, viết, “một cuộc chiến
tranh du
kích bát nháo tại gia”.
Gì thì gì,
trong 33 năm, cho tới khi Faulkner mất vào năm 1962, cuộc hôn nhân cứ
thế tiếp
diễn, cứ thế tồn tại. Tại sao?
Một trong những
lý do trần tục nhất của nó, là, cho tới cuối thập niên 1950, Faulkner
không làm
sao mà chịu đựng nổi những thủ tục đầu tiên [tiền đâu] của một vụ ly
dị. Luôn cả
chuyện, ly dị rồi, làm sao mà chu cấp nổi, một bà vợ chỉ thích xài
tiền, cộng
thêm một lũ con, những binh đoàn có tên là Faulkners, hay Falkners, lại
thêm
ông bà già vợ, tất cả đều sống phụ thuộc vào ông. Ấy là chưa kể, lại
phải tái
lăn lưng vào cuộc đời, nghĩa là, phải tái trình diện với xã hội loài
người, một
cách bảnh bao tươm tất, như là một người đàn ông goá vợ, và một nhà
văn. Nhưng,
như Karl, một trong những người viết tiểu sử của F. cho thấy, còn một
lý do sâu
thẳm nữa, là, F. không làm sao rứt ra khỏi bà vợ. Họ sinh ra là để làm
khổ lẫn
nhau, và, nếu không có lý do làm khổ lẫn nhau thì làm sao giải thích
được chuyện
họ sinh ra đời, và... lấy nhau? Như Karl viết: Ở từng sâu thẳm nào đó,
Faulkner
cần Estelle [Đây là câu Gấu Cái thường ngày ca cẩm Gấu Đực: Anh cần tui
chứ anh
đâu có iêu tui]. "Estelle không có thể nào mà thoát ra khỏi mớ bòng
bong,chằng chịt ở những vùng xa xăm nhất mà trí tưởng tượng của
Faulkner vươn tới",
Karl viết. "Không có Estelle [Gấu Cái], là đếch có Faulkner [Gấu Đực]”.
Nên nhớ một trong những truyện ngắn thần sầu của Faulkner là... The Bear, Con Gấu]. Nguyên văn: "Không
có Estelle... ông ta không thể
nào tiếp tục [viết]". Nàng là bà mệnh phụ "không cám ơn" của
chàng. [She was his madame sans merci: Nàng là bà mệnh phụ tàn nhẫn,
không xót
thương, của chàng] - cõi lý tưởng, thánh nữ mà người đàn ông thờ
phượng...
nhưng cũng còn là vật bất tường, miền tàn khốc, cõi huỷ diệt.
Bằng cách chọn
Estelle làm vợ, bằng cách chọn nhà của chàng ở Oxford, giữa bộ lạc
"Falkner", Faulkner tự chọn mình một thách đố khủng khiếp: Làm sao
làm ông chủ, người được sự hỗ trợ của toàn thể gia đình, người cha, con
đực đứng
đầu cả một bộ lạc… giống như một đàn ruồi, xâu xé, từng đồng xu kiếm
được,
trong khi, cùng lúc, làm sao phục vụ con quỉ nằm ở nơi đáy sâu con
người ông.
Trường kỳ kháng chiến, cùng một lúc chịu đựng cả hai mặt trận như thế,
sức voi
cũng chịu thua, cho nên, như Parini gọi ông, “một con quỉ của sự hữu
hiệu”, với
khả năng của vị thần Appolon, cuối cùng, khối lượng công việc cũng quật
ngã
ông. Để cung phụng đàn ruồi, thiên tài chói chang của văn chương Huê Kỳ
thập
niên 1930 sau cùng đành phải để việc viết tiểu thuyết qua một bên - đây
là thứ
viết lách mà chàng quan tâm tới nhất, chàng sinh ra đời, là để viết
tiểu thuyết
– quay qua, đầu tiên là viết ba đồ làm xàm, bá láp cho mấy tờ lá cải,
sau tới kịch
bản phim cho Hồ Ly Út.
[Đây chính
là điều mà Gấu Cái ca cẩm thường ngày: “Tài” của mi đâu phải để làm
trang...
nhà! Tài của mi, là để viết “tỉu thết”, thứ để đời, nhờ đó mà ta được
thơm
lây!]
[còn tiếp]
Note: Nhân
search NNT vv SN, tìm lại được bài viết dở dang này, và nhận ra, có cái
gì giông
giống, giữa Faulkner và NNT [cũng ít học như nhau, hà hà!], và có cái
gì going giống
giữa vợ chồng Faulkner và Gấu Đực và Cái:
"Không
có Estelle [Gấu Cái], là đếch có Faulkner [Gấu Đực]”.
Hay:
Nhưng, như
Karl, một trong những người viết tiểu sử của Faulkner cho
thấy, còn một lý do sâu thẳm nữa, là, Faulkner
không làm sao rứt ra khỏi bà vợ. Họ sinh ra là để làm khổ lẫn nhau, và,
nếu
không có lý do làm khổ lẫn nhau thì làm sao giải thích được chuyện họ
sinh ra đời,
và... lấy nhau? Như Karl viết: Ở từng sâu thẳm nào đó, Faulkner cần
Estelle
[Đây là câu Gấu Cái thường ngày ca cẩm Gấu Đực: Mi cần ta chứ mi đâu có
êu ta!]
Một
thời vô song: Sự tạo thành một nhà văn có
tên là William Faulkner
Nương bóng Gấu
Đực
A l'ombre de
Faulkner
Faulkner và
vợ tại Rowan Oak: Lá phổi của văn chương Mẽo
[Hình, báo Lire (Đọc), số
Tháng Năm 2005].
"Bao
nhiêu thế hệ trải qua, và Miền Nam chúng ta đã biến những người phụ nữ
thành những
bà mệnh phụ. Những vị phu nhân. Thế rồi Chiến Tranh xẩy ra, và biến
những vị
phu nhân đó thành [vợ mấy tên Ngụy, sĩ quan cải tạo] những hồn ma."
Faulkner: Absalom, Absalom!
Bản Yoknapatawpha của Faulkner.
Hua Tát của NHT.
Macondo của Garcia Marquez.
Mê Thảo của Nguyễn Tuân, Greene,
và Hai Lúa.
Camus nói,
con người, sinh nhằm một thế giới phi lý, có mỗi một phận sự thực sự,
là sống,
âu o về đời sống, về cuộc loạn, cuộc tự do của mình đó. Ông còn nói,
giải đáp độc
nhất cho nan đề sống, là chết. Và chết, là thuộc con đường sai lầm. Con
đường đúng,
là phải dẫn tới đời sống. Con người không thể cứ thế tiếp tục rên rỉ vì
đau
thương lạnh lẽo. Chính vì thế mà ông nổi loạn. Ông từ chối rên rỉ vì
lạnh lẽo.
Ông từ chối đi theo con đường dẫn đến cái chết...
Ông nói,
"Tôi không thích tin rằng cái chết mở ra một cánh cửa khác. Với tôi, nó
là
cái cửa đóng lại." Ông cố tin như vậy. Nhưng thất bại.
Khi ông được
Nobel, tôi gửi điện cho ông, "Chào mừng một tâm hồn không bao giờ ngừng
nghỉ, trong việc tự tìm kiếm, tự hỏi mình", "On salue l'âme qui
constamment se cherche et se demande".
Faulkner viết
về Camus
Thời gian là
chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà
những kẻ
thắng trận không thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới, một
bãi biển
lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm mồ
chỉ đường,
được nâng niu, gìn giữ không phải bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ
thần
chiến tranh với cành cọ vàng và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu,
một đầy
tớ gái, của chính sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm,
bất động.
Con người thực
ra đâu cần sự thành đạt, cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối
với cả
một quốc gia, một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là
một điều tốt,
cho nó.
[còn tiếp]
William
Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The
Road Back, của Erich Maria Remarque, trong
W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn,
Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern
Library, NY, ấn bản 2004.
Tôi đọc những
dòng mở ra bài điểm sách trên, mà cứ tưởng tượng ra rằng thì là, đây là
những lời
tưởng niệm, ở một bãi biển có những cái thuyền, cái bè tị nạn người
Việt đã từng
ghé.
Ba mươi năm
rồi, có vẻ như chúng ta, những người Việt đã từng bỏ chạy quê hương
Miền Nam,
đã cảm nhận ra, cái gọi là sự chiến thắng vượt quá sự thất trận, mà
những kẻ thắng
trận chẳng thể nào hiểu nổi, hay tiên đoán ra được.
Có khi bây
giờ, chúng đã hiểu ra điều này, khi cố tình cho hạ những tấm bia tưởng
niệm?
Ngư Ông và
Biển Cả
Cuốn hay nhất
của hắn ta. Thời gian còn chứng minh thêm, nó sẽ là cuốn độc nhất, duy
nhất, và
hay nhất, so với bất cứ một cuốn nào khác, của lũ chúng ta, tức những
kẻ đồng
thời với hắn. Lần này, trong cuốn sách đó, hắn ta khám phá ra Thượng
Đế. Ông Trời.
Kẻ Sáng Tạo.... Nhưng cũng lần này, trong cuốn sách đó, hắn ta nói về
sự thương
hại...
W. Faulkner
"A book
is the writer's secret life, the dark twin of a man: you can't
reconcile them."
William
Faulkner: Mosquitoes [1927]
(1)
Một cuốn
sách là cuộc đời bí ẩn của nhà văn, cái thằng anh em sinh đôi u tối của
hắn ta:
bạn đừng hòng hoà giải hai thằng chả này.
(1) Coetzee
trích dẫn trong bài viết trên tờ Điểm sách Nữu Ước, Thời Vô Song
*
Thời gian là
chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà
những kẻ
thắng trận không thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới, một
bãi biển
lánh nạn ở bờ bên kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm mồ
chỉ đường,
được nâng niu, gìn giữ không phải bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ
thần
chiến tranh với cành cọ vàng và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu,
một đầy
tớ gái, của chính sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm,
bất động.
Con người thực
ra đâu cần sự thành đạt, cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối
với cả
một quốc gia, một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là
một điều tốt,
cho nó.
William
Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The
Road Back, của Erich Maria Remarque, trong
W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn,
Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern
Library, NY, ấn bản 2004.
Tôi đọc những
dòng mở ra bài điểm sách trên, mà cứ tưởng tượng ra rằng thì là, đây là
những lời
tưởng niệm, ở một bãi biển có những cái thuyền, cái bè tị nạn người
Việt đã từng
ghé. NQT
Ba mươi năm
rồi, có vẻ như chúng ta, những người Việt đã từng bỏ chạy quê hương
Miền Nam,
đã cảm nhận ra, cái gọi là sự chiến thắng vượt quá sự thất trận, mà
những kẻ thắng
trận chẳng thể nào hiểu nổi, hay tiên đoán ra được.
Có khi bây
giờ, chúng đã hiểu ra điều này, khi cố tình cho hạ những tấm bia tưởng
niệm?
*
Chuyện nghề.
Ngài thân mến,
Bản thảo gửi
trả Ngài bữa nay, tốc hành.
Lý do không
ngửi được, [the reason they have not been accepted], là:
...
Hoa Lan Đen
nặng phần sử thi, nhưng thừa mứa, cần thu vén lại, thiếu hẳn một xen
trung tâm,
kịch tính cao.
Tôi tính
ngưng phán, nhưng không thể. Cho dù có phải làm ông bực. Tôi coi cái
nghề viết
lách quá cao, nên đếch cần cái chuyện ông bực hay không bực. Tôi không
chịu nổi
Hoa Lan Đen. Câu chuyện mà ông kể cho tôi nghe về gia đình đó, được
lắm. Nhưng
ông có viết nó ra đâu...
Nếu ông
không định viết nó, tại sao lại gửi cho tôi?
Tôi nghĩ là
ông đọc chưa đủ. Tôi không định nói tới ba cái tào lao, là tìm kiếm, là
sự kiện,
research, facts. Ba thứ cứt đái đó ai cần [Who in the hell cares for
facts] ?
Ông chưa đọc
đủ, những câu chuyện của những con người, họ kể chúng ra thật là tuyệt
vời. Hãy
đọc những cuốn sau đây, rồi sau đó, hãy viết lại Hoa Lan Đen:
Anh em nhà
Karamazov của Dostoevsky.
Buddenbrooks của
Thomas Mann.
Tess of the
d'Urbervilles của Thomas Hardy.
Bất cứ một
cuốn nào khác của Hardy mà ông thích.
Lời tôi phán
có thể làm ông bực mình, làm ông quê một cục, This may offend you. Nếu
đúng như
thế, tôi thành thực khuyên ông, chớ bao giờ hăm he viết lách gì nữa.
Yours
sincerely,
William
Faulkner
[Trích Harper's Sept 2006]
|