Hoàng Dược Thảo
&
Thảo Trần
Tác giả Tác phẩm
|
Đọc Elfriede Jelinek, Nobel văn
học 2004.
Press
Release
The
Nobel Prize in Literature 2004
The
Nobel Prize in Literature for 2004 is awarded to the
Austrian writer Elfriede Jelinek, "for her musical flow of voices and
counter-voices in novels and plays that with extraordinary linguistic
zeal
reveal the absurdity of society's clichés and their subjugating power".
The
Swedish Academy.
Thông
báo dành cho báo chí
Giải
Nobel văn học năm 2004 được trao tặng cho nhà văn Áo,
Elfriede Jelinek, cho "dòng chảy âm nhạc của những tiếng nói và những
tiếng nói đối nghịch của bà, trong những tiểu thuyết và kịch bản, mà,
bằng nỗi
đắm say phi thường về ngôn ngữ, những tác phẩm đó phơi ra sự phi lý của
những
khuôn sáo xã hội và cái quyền lực chế ngự của chúng."
"My
writings are limited to depicting analytically, but
also polemically, the horrors of reality. Redemption is the speciality
of other
authors, male and female."
[Viết
của tôi hạn chế trong việc miêu tả, theo cách phân
tích, mà cũng có tính tranh luận, những điều ghê rợn của thực tại, Cứu
chuộc là
biệt tài của những cây viết khác, nam và nữ].
Elfriede
Jelinek trả lời phỏng vấn.
Dưới
đây là bản dịch bài viết của Bob Corbett, giáo sư danh
dự triết, tại đại học Webster University, St Louis, Missouri, trên tờ
Guardian trên
lưới, online, số đề ngày Friday October 8, 2004.
Giận
dữ và tởm lợm trước một thế giới không thể làm sao cho
tốt đẹp hơn.
Anger,
rage and disgust at a world which cannot be made
better.
Tôi
khám phá những bản viết của Elfriede Jelinek vào năm 1998
khi giảng dạy ở Vienna. Bà
thách đố
tôi bằng một nỗi bi quan chua chát, không khoan nhượng. Sự giận dữ, đến
phát
khùng, trước thế giới của bà khiến tôi ngỡ ngàng, và bị dội ngược,
nhưng quyền
uy của cách viết của bà khiến tôi phải ngồi thẳng người, ngay ngắn lại,
và làm
những ghi chú.
Tôi
làm quen bà lần đầu, là với cuốn tiểu thuyết “Đời ơi,
thời ơi, sao tuyệt vời như thế này!” [Wonderful Wonderful Times]; chỉ
nội cái
tít không thôi đã tiếu lâm, đã chua chát, rồi. Sau đó, tôi đem nó vào
việc
giảng dậy, môn giả tưởng triết học.
Năm
người trẻ tuổi, sống vào thời hậu chiến ở Vienna, đớn
đau vô cùng vì sự vô nghĩa, và, để tìm cách thoát ra khỏi lỗ đen, họ
quyết định
‘chơi” lẫn nhau, một cách tình cờ, không thằng nào nghinh thằng nào,
nghĩa là
không để lộ ra một dấu hiệu gây hấn nào. Tay
đại ca của
họ, Rainer Maria Witkowski, làm tôi choáng, khi cho rằng, họ làm như
vầy, là để
vinh danh con người nổi loạn của Albert Camus, một nhà văn có một ảnh
hưởng
quan trọng lên chính cuộc đời của tôi.
Tức
giận, gay cấn, bực bội, nhưng tôi cứ đọc đi đọc lại.
Jelinek đẩy tôi vào trận dông bão, khi mà tôi kịp ngộ ra một điều, đây
là những
con người thực. Cũng thực, là họ không sống lân la kế cận, bà con lối
xóm với
tôi, nhưng mà ở ngoài bìa, họ là người vùng ven. Vốn rất ư tự hào về
mình, là
một tay “hiện thực” bậc nhất, lần này tôi bị trúng đòn “gậy ông đập lưng ông”. Và tôi phải đối đầu với
nó, không thể bỏ chạy,. Nói rõ hơn, phải làm cách nào ‘giao lưu hòa
giải’ [to
come to terms] với Jelinek.
Như
tôi hiểu được, đây chính là cái điều mà, chỉ một đại
nghệ sĩ, như bà, mới làm được. Bà nhìn thế giới, một góc nào đó của thế
giới,
và lật tẩy nó ra, cho tất cả những con người còn lại, là chúng ta, ở
trong cõi đồng
vọng [medium] của bà đó. Tôi muốn biết thế giới của tôi, và tôi cần ai
đó
“trích” cho tôi một cú, tôi cần sự thách đố, do những nhà nghê sĩ ban
cho, và
Jeninek đã trở nên thật là quan trọng, càng những năm về sau này của
cuộc đời
của tôi.
Thứ
hiện thực chủ nghĩa của bà là thực, và là của hiếm,
nhưng nỗi bi thương chán nản của bà khi đối diện với chủ nghĩa hiện
thực đó mới
hung hiểm, mới thách đố làm sao. Tại sao không chấp nhận những con
người như
thế đó, vậy đó, và chấp nhận luôn cả những thế giới xấu xa dị hợm của
họ, và cứ
thế để cho cuộc đời trôi đi? Tôi nhận, thật trớ trêu tuyệt vời, là, tôi
bắt đầu
nhìn ra, rằng nỗi uất giận, và sự tởm lợm của bà đối với thế gian không
phải
chỉ thuần là bi quan chán chường, nhưnng là một niềm lạc quan trầm lắng.
Có
thể bà chẳng tin rằng thế giới này có thể là một nơi chốn
tốt đẹp hơn, nhưng bà giận dữ, rằng cớ làm sao nó lại khốn kiếp như
vậy. Bà rất
bực, theo một cách thế đạo đức. Tôi thèm
được như như bà.
Trở
lại với Vienna
năm 1998, tại một tiệm sách tiếng Anh mà tôi đã nói ở trên, người chủ
tiệm đã
tỏ ra rất là hài lòng khi biết tôi tìm kiếm những cuốn sách của
Jelinek. Bà
than, Jelinek thì gần như là vô danh, chẳng ai thèm biết đến, ở bên
ngoài nuớc
Áo. Trong những lần bàn luận với một số bạn bè người Áo, tôi khám phá
ra rằng,
ngay ở bên trong nước Áo, bà cũng ít được biết đến, mà có vẻ như ‘người
ta’
không ưa bà.
Tôi
thật sự sướng điên lên, về đầu óc minh triết của mấy ông
Hàn Thuỵ Điển, tôi muốn nói, cái tổ chức, định chế liên quan tới việc
chọn lọc
và ban giải thưởng Nobel đó, về cái việc họ nhận ra được tài năng và
chỗ đứng
quan trọng của bà trong văn học.
Những
tác phẩm khác, hiện đang được lưu hành rộng rãi, và
được nhiều người biết tới, trong số đó, có Người Thầy Dạy Dương Cầm, và
hai
cuốn tiểu thuyết khá ngắn: Lust [Thú Tính], và Woman as Lovers [Đàn bà
như
Người Yêu]. Có lẽ có còn có thêm vài cuốn ngăn ngắn nữa sẽ được dịch
qua tiếng
Anh, và tôi đang chờ đợi chúng.
·
Bob Corbett is professor emeritus of philosophy at Webster
University, St
Louis, Missouri. His
comments
may be found on his web page:
www.webster.edu/~corbetre/personal/reading.html
[Bạn
có thể đọc thêm về tác giả bài viết này, trên website
của ông: www.webster.edu/~corbetre/personal/reading.html]
NQT
dịch
|