"Phạm
Xuân Ẩn sinh Năm Con Mèo, Giờ
Con
Trâu, ngày 12 Tháng Chín, 1927 tại nhà thương điên Biên Hòa cách Sài
Gòn hai chục dặm về phiá đông bắc. Vào thời kỳ đó, đây là nhà thương
độc nhất nhận người Việt, tại Miền Nam Việt Nam.
Con trai đầu tiên của một chức sắc
cao cấp, cadre supérieur
[chữ của Bass], một nhân viên có học thức của nhà
nước thuộc địa, Ẩn là một trong số hiếm hoi có được tờ khai sanh Tây
thuộc địa."
"Gốc
người Hải Dương, ở ngay giữa lòng
Miền Bắc Việt Nam, thuộc vùng đồng bằng đông đúc sông Hồng, nằm giữa Hà
Nội và vùng ven biển, tổ tiên Ẩn [great grandfather] là một người thợ
vàng bạc, được nhà Nguyễn triệu vô làm huy chương cho triều đình Huế,
Miền Trung Việt Nam. Ông nội Ẩn, len lỏi trong giới quan lại, leo lên
địa vị thầy giáo, và là giám đốc một trường nữ tiểu học. Trên bàn thờ
gia đình, ở ngay giữa, là hình ông, ngực đeo tấm huy chương bằng vàng.
Tấm huy chương lớn, kêu là "kim khánh", bằng vàng, hình hoa tulip, do
Hoàng Đế ban cho, chứng tỏ ông nội Ẩn giữ một địa vị cao, tương đương
với chức vị thư ký [secretary] trong chính quyền. Sau đó, Ẩn cho tôi
coi, hình anh, khi còn là một đứa con nít, với chiếc huy chương trên,
đeo ở cổ. Tôi hỏi, anh có còn giữ được nó. "Nó đã được cúng cho Hồ Chí
Minh, trong Tuần Lễ Vàng, một chiến dịch thu gom vàng bạc, ông Hồ hô
hào, dùng làm quà đút lót, cho quân đội Trung Hao rút ra khỏi Bắc Việt,
vào năm 1945, sau Đệ Nhị Thế Chiến."
"Cha
Ẩn, được huấn luyện về ngành kỹ
sư
tại đại học Hà Nội, và sau đó làm nghề giám thị, trông coi và thiết lập
những đường dây thuế má tài sản tại biên giới phía Nam Việt Nam. Ông bố
trí những tuyến đường tại Sài Gòn, và những con kênh xuyên qua Rừng U
Minh, dọc theo
Vịnh Xiêm La.
Trong khi trông coi công việc tại Căm Bốt, ông gặp mẹ Ẩn, cũng người
Bắc di vào Nam.
Bà là một người đàn bà cần cù, học vấn qua lớp nhì khiến bà có thể đọc
và viết. Công việc của một người giám thị, đạc điền vào thời kỳ Miền
Nam còn hoang dại đó bao gồm cả việc thúc đẩy, ép buộc những người dân
quê khuân vác những sợi dây sắt nặng nề xuyên qua vùng đầm lầy sông Mê
Kông, xây dựng những tháp canh ở giữa rừng để theo dõi tuyến đường.
“Khi bạn làm công việc của một người giám thị trông coi đất đai, xây
dựng đường lộ như thế, bạn chứng kiến những người công nhân Việt Nam
nghèo khổ nhặt nhạnh từng miếng ăn“. Ẩn nói. “Bạn nhìn thấy chế
độ cưỡng bức lao động của người Pháp, bạn chứng kiến những vụ đánh đập,
và những đàn áp, những lạm dụng khác. Cách độc nhất chống lại, là chiến
đấu giành độc lập.” Anh nói thêm. “Những người Mỹ cũng đã làm y như
vậy, vào năm 1776. Gia đình tôi luôn luôn yêu nước, và mong ước của
chúng tôi là đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam.”
Bass: The Spy
Nhưng, bây giờ nhìn lại, chúng
ta tự hỏi, vào những ngày đó, liệu chỉ có một cách độc nhất, là gia
nhập lực lượng Việt Minh?
*
Đứng dưới chân cây cầu lớn, cầu
Việt Trì, lần trở lại đất Bắc, vào đầu thiên niên kỷ [2001], thắp nén
hương lòng cho ông cụ của Gấu, đã từng bị một ông học trò làm thịt, và
liệng xác xuống sông, kèm cục đá tổ bố cho xác không nổi lên, đúng chỗ
này này, theo như thằng em kể lại, qua lời người dân địa phương, khi đó
còn là một bãi sông, Gấu tự hỏi, tại sao ông cụ, không chọn lựa cách
chọn lựa độc nhất, ngay hồi đó, mà chỉ là một người có cảm tình với
Việt Minh, như cô con gái của ông chú của Gấu xác nhận.
Ông chú này là huyện uỷ VC tại Việt Trì lúc đó.
Cũng ông chú
này đã xác nhận như vậy, trong đơn xin được công nhận là con liệt sĩ
của thằng em trai út của Gấu, còn ở lại đất Bắc.
Lẽ dĩ nhiên,
một lời xác nhận như thế làm sao có thể cho thằng em của Gấu làm con
liệt sĩ?
Gấu thầm cám
ơn ông chú của Gấu, khi nghe thủng câu chuyện.
Điều gì đã
ngăn cản ông cụ, khiến ông cụ nhất quyết không chịu làm một ông... VC?
*
Chuyến "qui cố hương" (chữ của một nhà
văn Việt Nam ở nước ngoài chúc mừng nhân chuyến đi), một phần là để tìm
lại những kỷ niệm thời con nít, biết đâu còn sót lại ở nơi quê nhà, Sơn
Tây, rồi những ngày chạy tản cư lên Phú Thọ khi giặc Pháp nhảy dù xuống
cánh đồng làng (1949); những ngày học ở Hà Nội... và những "chi tiết
lịch sử" liên quan tới cái chết của cha tôi. Trong những ngày ở miền Nam,
và sau này, ở nước ngoài, "một nửa" gia đình tôi đã lấy ngày 30 Tết năm
đó, là ngày người cha rời cái làng nhỏ bé ven đê sông Hồng, để rồi
chẳng bao giờ trở về, làm ngày cúng giỗ ông.
Bây giờ, tôi đã biết rõ ngày ông mất.
Cha tôi bị sát hại ngày mồng ba Tết (1946) tại Việt Trì, nơi ông làm
hiệu trưởng một trường tiểu học. Tôi cũng đã đến nơi ông bị sát hại: bị
bắn, sau đó xác bị cột đá, thẩy xuống sông, để cho đừng bao giờ nổi
lên. Bà chị tôi nhắc lại một chi tiết đau lòng, theo đó, chính tôi đã
từng nhìn thấy kẻ giết bố mình, nhờ cái quần kẻ đó mặc. Một cái quần
dạ, bị chuột cắn, thủng một lỗ lớn, và mẹ tôi đã phải vá lại. Trong trí
nhớ của tôi, chi tiết trên không hẳn như vậy. Tôi nhớ, có lần mẹ tôi
nói, bà đã nhìn thấy kẻ mặc bộ đồ com lê của chồng, bữa ông ra đi. Tuy
tin chắc chồng không còn, bà sau đó vẫn lặn lội nhiều nơi, vẫn giả đò
hy vọng. Trong số những người bị bắt có một vài người cùng làng; trong
có một ông chú của tôi, Nguyễn Trí Cầm, khi đó là Bí Thư Việt Minh, cơ
sở Hạc Trì (Bạch Hạc và Việt Trì, thuộc tỉnh Vĩnh Yên). Vài ngày sau
khi bố tôi bị sát hại, chú tôi và một vài người cùng bị bắt, dùng nước
uống bọn cai tù chia cho hàng ngày, tích tụ lại, và nước tiểu, "tưới"
lên một mảng tường đất, và trốn thoát, nhân một bữa đám cai tù mải ăn
uống say sưa. Đám người nói trên sau bị Việt Minh truy đuổi phải chạy
qua Trung Quốc.
Ông Nguyễn Trí Cầm sau cho đứa em trai út của tôi biết, cha tôi khi đó
chỉ là cảm tình viên của Việt Minh. Lý do cái chết của cha tôi: Đảng
phái nói trên đã mời cha tôi, một nhân sĩ tại địa phương, làm đại diện
cho họ tại quốc hội, nhưng ông từ chối.
Trong bao năm trời, em tôi xin xác nhận là con liệt sĩ, nhưng không
được.
NQT Trở
lại nơi một thời vang bóng
*
Khi còn nhỏ, Ẩn đã có lần suýt chết
đuối, khi chiếc xuồng
trong có chú bé bị bão cuốn phăng đi, và chú suýt chìm theo xuồng. Sau
đó, chú
bé được gửi ra Huế, sống với ông bà, và
trở lại nam khi bà của cậu mất, và lại được gửi đi bắc khi chú học hành
chẳng ra
gì và thi rớt. Ông già tách chú ra khỏi mấy chị em và tống chú về vùng
quê, hy
vọng cuộc sống giữa những người nông dân làm chú sợ, và khiến chú học
chăm hơn.
Thay vì vậy, chú lại khoái đời sống ở đây, tha hồ đi câu cá và rong
chơi khắp
vùng. Khi chú lại thi rớt, chú bị ông già nện cho một trận cẩn thận, và
bắt trở
lại Sài Gòn, sống vào khuôn vào khổ hơn.
Ẩn tương tư Sài Gòn, vào lúc đó, là
một thành phố thuộc địa
lười biếng, với những đồn điền cao su bao quanh. Anh bơi lội trên sông
Sài Gòn,
kết bạn làm xưởng tầu Ba Son, nhẩy tầu điện qua Chợ Lớn. Khi trở về ghé
ciné
gần cầu Đa Kao. Anh coi những cuốn phim với tài tử Johnny Weissmuller
trong vai
người rừng Tarzan ở đó. "Một giấc mộng đẹp tuyệt vời về tự do ở trong
rừng," Ẩn nói. "Tôi nghĩ, với chủ nghĩa Cộng Sản, tôi sẽ như Tarzan.
Và tôi đưa giấc mơ đó vào cách mạng."
“Hãy nhìn Tarzan,” Ẩn kêu lên. “Anh ta
có gì đâu? Chỉ trần
một cái khố”. Đó là chủ nghĩa Cộng Sản, như là một giai đoạn trong
trắng, thuần
khiết nhất của thiên nhiên, một thiên đường theo kiểu của Rousseau. Đó
là một
ấn bản của chủ nghĩa Cộng Sản, như là một thứ triết học ở bậc trung
học, Ẩn có
được là nhờ những cuốn sách do Đảng Xã Hội Pháp gửi cho những học sinh,
sinh
viên ở những xứ sở thuộc địa. “Đúng, tôi là một người Cộng Sản,” anh
nói, “Chủ
nghĩa Cộng Sản là một lý thuyết đẹp đẽ, một lý thuyết nhân bản nhất.
Những sự
giảng dậy về Thượng Đế, về Đấng Sáng Tạo, thì cũng vậy. Chủ nghĩa Cộng
Sản dậy
bạn yêu nhau, không giết nhau. Cách độc nhất để làm được điều này, là
mọi người
trở thành anh em. Đúng là không tưởng, nhưng đẹp, đẹp thiệt.”
Ẩn, tay điệp viên phân tích tình hình
chính trị, hiểu rất
rõ, chủ nghĩa Cộng Sản phải trách nhiệm về hàng triệu người chết
trong
thế kỷ 20, và trong thâm tâm, anh biết những giới hạn của chế độ Cộng
Sản mà
anh đang sống dưới nó. Nhưng anh chàng Ẩn khi còn trẻ kia đã chọn một
chọn lựa,
là chiến đấu giành độc lập cho xứ sở, và lực lượng mạnh nhất, có hiệu
lực nhất
trong việc dẫn đạo cuộc chiến đấu chống lại người Nhật, Pháp, Mỹ, Trung
Quốc,
Căm bốt, và những kẻ xâm lược khác, là những người Cộng Sản. "Ở Việt
Nam, tổ chức nào đoàn thể nào bạn phải chọn lựa gia nhập để chiến đấu
giành độc lập chi xứ sở?," anh hỏi, "Bạn đâu có một chọn lựa nào
khác ngoài chuyện gia nhập Đảng Cộng Sản".
Mười tám tuổi, và là học sinh trung
học trường Cần Thơ, tại đồng bằng sông Cửu Long, Ẩn bỏ học, vào năm
1945 để gia nhập lực lượng Việt Minh. Hơn một trăm học viên của khóa
huấn luyện, chỉ có năm chục khẩu súng, có khẩu cổ lỗ sĩ từ thời Đệ Nhất
Thế Chiến. Học viên phải giữ lại vỏ đạn, để làm viên mới. Mặc dù
đã có mặt trong cả hai cuộc chiến chống Nhật và chống Pháp, Ẩn coi kinh
nghiệm chiến trường này như những ngày đi hoang. Nhưng trên một trang
Web của nhà nước, làm sao có thể bỏ qua những hành động yêu nước ngay
từ khi còn nhỏ xíu của Người Anh Hùng Của Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân,
và Ẩn đã được mô tả, "một tay chiến đấu bảo vệ đất nước đã từng tham
gia tất cả các trận đánh ở Nam Việt Nam".
*
Tính tiên tri khủng khiếp nhất, của
Người Mỹ
Trầm Lặng, không phải là về số phận một đất nước Việt Nam sau chiến
tranh - sẽ chẳng có gì mọc lên từ đống tro than đó - nhưng số
phận của những cô Phượng và luôn cả những bé gái chưa đến tuổi để làm
một cô Phượng. Tôi tin là Greene đã nhìn qua một cô Phượng mà ra số
phận của người đàn bà Việt Nam. Đây là điểm thiên tài ở Greene, theo
tôi. Trong cuộc song đấu giữa anh và thế giới, hãy phù trợ thế giới,
[In the duel between you and the world, back the world. Kafka]: Thế
giới, với Greene trong Người Mỹ Trầm Lặng, là Việt Nam, hay quyết liệt
hơn, là Phượng. Thân phận người đàn bà Việt Nam
đã được cái xã hội trọng nam khinh
nữ đó quyết định từ thuở nào rồi, trước khi có chế độ thực dân. Và khi
nó có, là để đẩy xung đột đến cực điểm. Đừng tưởng tới ngày này, những
cách gọi Me Tây, Me Mỹ đã mất đi sự miệt thị của chúng.
Khi viết về Nỗi Buồn Chiến Tranh, tôi có đưa ra một nhận xét, anh chàng
Kiên ở trong đó có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ
cho cuộc tình. Nói khác đi, người đàn ông Bắc Kỳ đó
không thể nào chịu đựng được cái gọi là tai nạn của Phương: bị chính
những đồng đội của Kiên làm thịt. Nên nhớ, thoạt đầu Bảo Ninh đặt tên
cuốn truyện là Thân Phận Tình Yêu. Là cha, ông biết rất rõ diện
mạo đứa con của mình.
Chẳng có chứng cớ nào, trong nhật ký của Greene cho thấy, ông đã từng
gặp một tay Pyle ở ngoài đời. Pyle thực sự không liên can đến một ông
trùm Xịa như Lansdale, và Ẩn lại càng không liên can gì tới bất cứ một
Fowler hay
một Pyle, người Mỹ trầm lặng. Điều gì làm tên điệp viên yêu thương
"chúng ta" [Us, chúng ta, còn là US: Mẽo], và kết quả nóng hổi, là sự
xuất hiện của một ông thủ tướng
VC tại Nhà Trắng? Chẳng lẽ VC yêu thương Mẽo đến nỗi, tượng đài tưởng
niệm những người Việt bỏ chạy VC phải bị dẹp bỏ, nhưng tình yêu kia
phải được duy trì, bằng bất cứ giá nào? Chẳng lẽ "VC chúng ta" đánh
thắng thằng
VNCH là để... thế chỗ của nó?
*
Tự nhiên như người Hà Nội.
Mô phỏng câu trên, ta có thể nói ngây thơ như người Mẽo trầm lặng.
Quả có một cái gì đó, ở nhân vật Pyle, phải nói rất ư là ngây thơ.
Gấu đã từng ngồi trong Quán Chùa nhâm
nhi ly cà phê, cái bánh Sừng Trâu [croissant] và ngắm một anh Yankee
đứng ở ngã tư bên ngoài, bên kia đường là một công viên nho nhỏ, con
đường Gia Long với những tàng lá me ở trên cao, và lá me trải dài trên
những lối đi dẫn tới toà biệt thự ở trên lưng đồi được sử dụng làm Bộ
Quốc Gia Giáo Dục, và anh Mẽo thì ngơ ngác, phải nói là say mê, ngắm
nhìn con phố Tự Do, với một hai cô gái và gánh hàng rong, một hai cái
xích lô uể oải đi lại, và một buổi sáng "bình thường rất đỗi lạ thường"
của nó.
Làm tại Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế, Gấu còn được chứng kiến những
cảnh tượng lý thú hơn nhiều, ở đám quân nhân Huê Kỳ đầu tiên tới Sài
Gòn, với cái bắt tay
"những ngày xưa thân ái", trên tờ poster Viện Trợ Mẽo hồi nảo hồi nào.
Cuộc chiến quá kéo dài, và những nhơ bẩn, làm cho họ ngày càng
xấu đi, có thể nói như vậy.
Gấu quen Cao Bồi, là vào những ngày
anh còn ngồi Quán Chùa, không phải Ông Tướng Givral sau này.
Quen qua ông anh, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, hình như vậy.
*
Có một điều rất ư lạ lùng, là, trong
số người thù hận Miền Nam, nhất là
chế độ VNCH, đa số là đám được đãi ngộ từ chế độ đó, hoặc được học bổng
du học, hoặc công chức, thí dụ
như tham sự ngoại giao, tuỳ viên sứ quán, nhờ vậy mà thoát cuộc chiến.
Những danh từ miệt
thị, thí dụ, cờ ba que, thây ma VNCH, thường là từ đám khốn nạn này.
Tôi nhắc lại, đám khốn nạn này.
Chế độ VNCH, theo như tôi hiểu được - thì cứ coi gồm toàn tay sai thực
dân cũ, rồi thực dân mới - chưa từng gây ra những tội ác
tầy trời đối với chính đồng bào của họ, như trong thời cải cách ruộng
đất, hay thời lò cải tạo sau này.
*
Ngoài
ra, cái vụ việc vinh danh cờ vàng, ở các cộng đồng hải ngoại,
không phải là một trong những toan tính làm sống lại cái thây ma VNCH.
Bởi vì làm sao làm sống lại một thây ma, cho dù là thây ma của ông
Hồ?
Cũng chỉ là một trong những cách tưởng nhớ người thân đã gục xuống vì
lá cờ.
Tưởng nhớ những ngày còn tương đối thanh bình trước khi chiến tranh trở
nên khốc liệt. Gấu Già
cũng đã từng viết thư cho Gấu Con, về lá cờ vàng, trong mong ước, như
là một trong những
thằng già cuối cùng còn nhớ lá cờ đã từng có lần phủ lên một thằng Gấu
Em.
*
Xì
Lô thân thương,
Xì
Lô, cô Út sinh ngày 13 tháng 4 năm 1975. Sau này những
lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn thường than thở, phải chi không
có cô
chắc là gia đình đã đi Mỹ từ những ngày tháng Tư năm đó rồi. Bữa nay
sinh nhật
thứ 21, bố mẹ chỉ có cô ở bên. Mấy anh chị của cô ở quá xa, biết ngày
nào gặp
lại. Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả đều khỏe mạnh, an lành. Bố mẹ
chỉ
mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người
ta nói, những đứa trẻ sinh ra từ một gia đình vợ chồng
không hòa hợp, nói rõ hơn, những đứa trẻ bất hạnh thường dễ thành công
trên
đường đời nếu chúng vượt qua được những mặc cảm tuổi thơ. Có lần cô
nói, từ khi
con qua đây, mới đó mà đã gần nửa năm, gạt nỗi nhớ anh chị qua một phần
trái
tim, mỗi lần thấy bố mẹ vui đùa con ứa nước mắt vì sung sướng. Suốt
tuổi thơ
chúng con chưa hề biết đến những giọt nước mắt hân hoan hạnh phúc đó.
Thật
cũng may, cuối cùng bố mẹ lại tìm thấy nhau, cho dù bố
mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm lại từ đầu, thì mọi chuyện vẫn y
nguyên
như vậy. Chắc là bố sẽ lo cho mẹ thêm một chút xíu, nhờ vậy mẹ sẽ bớt
đi một
chút, niềm tủi thân.
Như
con biết đấy, gia đình mình, ngoài chú Sĩ đã tử trận, bố
còn một người chị và một đứa em trai út ở miền Bắc. Trong những năm
chống Mỹ
cứu nước, chú Bảo bị qui thành phần có mẹ và anh di cư nên không được
quyền đi
bộ đội, sau đó chú làm công nhân cho nhà máy đường Việt Trì, nhờ vậy mà
còn
sống. Bá Hiền lấy chồng có được một đứa con gái. Chồng vào Nam
chiến đấu mất tích. Qua đây gần một nửa thế kỷ, bố mới nhận được tin
tức của
chị và em. Đúng là nửa thế kỷ, bởi vì khi ông Nội mất tích ngay từ năm
1945 vì
tai họa đảng phái, bà Nội phải đem mấy đứa con gửi mỗi đứa một nơi, bố
không
gặp bá Hiền, chú Bảo kể từ ngày đó.
Con
đã đọc thư chú Bảo thì biết gia đình mình ở ngoài Bắc.
Đó là quê hương mà bố phải từ bỏ, theo bà Nội vào Nam,
và khi chú Sĩ chết, bố tự nhủ sẽ chẳng khi nào trở về. Đấy là một phần
lý do
tại sao bố lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương Miền Nam,
các con sẽ cần tới nó như bố cần tới mẹ vậy.
Trước
tháng tư năm 75, ngoài công việc của một công chức, bố
còn làm thêm cho một hãng thông tấn nước ngoài. Khi hiệp định Paris
chấm dứt chiến tranh Việt Nam
được ký kết, bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một
tỉnh lỵ.
Nhưng biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29
tháng 4
bố không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại
người sếp
cũ, lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di
tản. Lúc
đó cơ quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo
chỉ có
thể đi bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố
đi được
thôi. Bố không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng
Sản Bắc
Việt đang chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ
đợi người
dân Sài-gòn. Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua
cho
biết, ngày xưa bà Nội đã nói với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào
Nam,
nhưng Bá không đi vì còn mê phong trào. Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó
bố chạy
theo người Mỹ, gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi
nhục như
hầu hết những gia đình Miền Nam
khi Cộng Sản Bắc Việt thắng trận. Nhưng chính những ngày tháng sống
dưới chế độ
Cộng sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ mà gia đình mình đã trải
qua
khiến bố mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi
phải trả
một giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên tiếng Việt. Đó
là khí
giới hữu hiệu nhất để chống lại sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn
là hội
nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên, và tuyệt vọng.
Hôm
nay là sinh nhật của con, đúng ra chẳng nên nhắc chuyện
đau buồn nhưng tháng Tư vẫn luôn luôn làm những ngưòi như bố mẹ cảm
thấy bứt
rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem cất kỹ lá cờ phủ trên quan tài chú Sĩ
vào một
nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái tim của mình..
Tự Truyện
Ngay cả cuộc biểu tình rầm rộ gây chấn
động thế giới, vụ Trần Trường,
với một cá nhân tham dự là Gấu, ý nghĩa của nó cũng "khác" với những
người khác, kể cả những người coi đây là một toan tính làm sống lại cái
thây ma VNCH.
"Tôi
đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy
không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt,
và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh
bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong
vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS
trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau
di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình!
Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu
tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam
cũng như khi đã chạy qua Cali
sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi
biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như
đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc
lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho
tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò
hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con
mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?
Sự Câm Lặng
*
....Nhận định này không đồng nghĩa với
việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ
lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít cộng đồng
người Việt tị nạn. Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có thể viết lại.
PTH: Còn lại gì
Cái vụ "ăn mày dĩ vãng, làm tình với thây ma", nỗ lực phục hồi gì gì
đó, hóa ra lại là của VC,
như bà Dương Thu Hương chỉ ra:
"Một nhà văn cho ra đời cuốn tiểu thuyết mang tên: 'Ăn mày dĩ vãng'. Vô
tình hay hữu ý thì cái nhan đề này khá chính xác với tính cách của
chính phủ hiện hành. Nói một cách khác, chính quyền Việt Nam là chính
quyền mắc chứng dâm thi. Nó chỉ có thể làm tình với thây ma vì điều đó
đem lại sự thoả mãn và cho nó lý do tồn tại. Bản thân nó vô giá trị. Vì
thế, không có cách nào khác nó phải dựng thây ma của quá vãng lên, tô
son vẽ phấn cho vị thần hộ mệnh.
DTH: Cuộc chiến tranh chống Mỹ, với tôi, là
cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc
Ba mươi năm sau, Việt Nam vẫn chưa một lần chính thức ghi nhận cuộc di
tản đau thương của gần một triệu người Việt miền Nam.
PHT, bđd
Cách chính thức ghi nhận cuộc di tản của VC ở trong "lịch sử không thể
làm lại" của nhân loại, đó là đập bỏ những đài tưởng niệm tại các trại
tị nạn.