Những
dòng sông
Tặng
TTKA
TT
Thành
phố quê hương có bao
giờ phản bội: Tôi không nhớ mình đã đọc câu văn này ở đâu, của ai,
nhưng mỗi
lần có ý định trở về là tôi lại nhớ đến nó.
Tôi đã
về Việt Nam
hai lần.
Lần
đầu, khi vừa đặt chân
xuống phi trường Tân Sơn Nhất, sau hơn mười năm xa cách, tôi, sau gần
24 tiếng
đồng hồ ngồi trên phi cơ, nhích nhác, ngơ ngác, quýnh quáng, và thểu
não, lạc
mất một va ly hành lý. Một thanh niên thật trẻ, quần áo chỉnh tề chạy
đến, hỏi
han ân cần, cho biết anh làm việc ở đây, và nói sẽ tìm ra chiếc va ly
thất lạc.
Nó nằm chình ình ngay trước măït, vậy mà tôi không nhìn thấy. Như một
kẻ mộng
du, tôi sực tỉnh khi nghe tiếng nói nhẹ nhàng, êm ái, ở bên tai, "Cô
cho
cháu xin chút tiền uống cà phê". Mở xắc tay, tôi đưa anh tờ 20 đô, in
hình
nữ hoàng Elizabeth
đang mỉm cười với cả hai. Vội bỏ tờ giấy bạc vào túi quần, anh bỏ hai
cái valy
lên xe đẩy, rồi chỉ tôi tới quầy hải quan.
Thủ tục
ra cổng có vẻ không
rườm rà. Tôi thấy mọi người trước tôi qua dễ dàng. Đến lượt tôi, người
kiểm
soát, một người đàn bà cũng còn trẻ, lật qua lật lại tờ khai, sau đó
ngẩng lên
nhìn, nói cho xem giấy thông hành. Một thanh niên đứng sau lưng tôi có
vẻ sốt
ruột, đập khẽ vào vai tôi, "Thủ tục cô". Tôi vội nhét tờ giấy có hình
nữ hoàng vào cuốn sổ thông hành đưa cho bà hải quan, và mọi việc kể như
xong.
Tôi đẩy
chiếc xe chở hai cái
va ly mang nặng tình thương cùng tôi vượt nửa vòng trái đất về đến quê
nhà ra
bên ngoài, có ý tìm người bạn ra đón. Họ hàng tôi không có ở thành phố.
Tôi thở
phào khi nhìn ra người bạn gái, vẫn như xưa, tuy có già hơn một chút.
Việc
đầu tiên, sau khi đưa
tay giữ cái xe đẩy hành lý, là người bạn kéo cổ áo che sợi dây chuyền,
quà sinh
nhật của con gái tôi, và kéo luôn tay áo, che cái đồng hồ chỉ đáng giá
10 đô,
tôi đeo để biết giờ. "Trời ơi ở đây ghê lắùm, một sợi dây chuyền nhỏ
xíu
mà nó cũng giết người được, đừng có dể ngươi mà mang họa."
Nước
mắt tôi như muốn trào
ra. Chiếc taxi do người bạn thuê chở chúng tôi đi ăn, sau đó đưa tôi về
Thanh
Hòa, Cai Lậy, quê nội của tôi.
Tô phở
gà Hiền Vương, tôi
thèm được ăn sau bao nhiêu năm xa quê, không ngon như tôi mong muốn.
Ngọt mùi
đường và tanh mùi bột ngọt. "Phở ở tiệm này là ngon nhất ở đây đó".
Tôi không trả lời, sợ bạn buồn. Xe chạy về phía ngoại ô, nhìn ra ngoài,
tôi cố
tìm lại những hình ảnh quen thuộc ngày xưa, nhưng chỉ thấy dòng xe cộ
chóng
mặt, người đông nghịt, chiếc xe taxi luồn lách, giành giựt từng kẽ hở
nhỏ nhoi
giữa trời nắng như thiêu, và tôi thở ra một cách nhẹ nhõm, khi xe ra
khỏi thành
phố.
Tới Ngã
Ba Trung Lương tôi
kêu xe ngưng, cho ông tài nghỉ ngơi, ăn uống. Còn tôi chỉ muốn đặt chân
mình
xuống mặt đất, nhìn Trung Lương. Làm sao đếm được, thời thơ ấu, tôi đã
đi qua
lại ngã ba này bao nhiêu lần: đi học, đi về quê những kỳ hè, đi lên Sài
Gòn...
Đáùm cưới tôi, xe cô dâu phải dừng ở đây, vì năm đó nước lụt xoá luôn
con lộ,
qua khỏi Cua Ông Cọp mới có xe đi tiếp.
Chợ Cai
Lậy, Chùa Phật Bửu Ni
Tự, Cầu Kinh và sau cùng là căn nhà của nội. Căn nhà tôi đã sống và lớn
lên như
một cây tầm gởi. Cô Năm Vân đón tôi trong nước mắt, "Tao tưởng không
bao
giờ còn gặp lại mầy". Tấm bảng Đông Y Sĩ treo trước cửa không còn. Căn
nhà
cũng chỉ còn một nửa. Cô Vân cho biết, sau khi ông nội tôi mất, căn nhà
được
phân làm hai, cho Cô Vân và Cô Tư. Cô Tư đã bán phần của mình cho người
khác,
và sau đó dọn về Bình Phú. Nửa căn nhà xiêu vẹo, rách nát, tơi tả. Nơi
nầy đã
có một thời thịnh vượng. Ông bà nội tôi đã nuôi nấng, giúp đỡ biết bao
nhiêu
người sa chân lỡ bước, dân trong làng đã từng gọi, đây là viện mồ côi.
Cô Vân
có hai người con trai lớn, đã đi làm nhưng không đủ ăn, lấy đâu mà sửa
nhà.
Nhìn ảnh nội trên bàn thờ, tôi muốn khóc và tưởng chừng như trong tay
mình đang
còn cầm những tờ giấy bạc phẳng phiu, nội dành dụm từng đồng để đầu
tháng đưa
cho tôi đóng tiền cơm trọ học, tôi quay mặt, và những giọt nước mắt cố
kìm giữ
từ khi vừa mới đặt chân xuống phi trường bây giờ mới đổ xuống nửa căn
nhà còn
lại của nội.
*****
"Mầy ở
đây hay về Hưng
Long"?
Thật
khó trả lời, bởi vì nửa
căn nhà không có chỗ cho tôi, hay cho bất cứ một người nào khác. Hai vợ
chồng
Cô Vân, hai trai, hai dâu, hai cháu nội chen chúc trong một khoảng bề
ngang
chừng 3 mét, bề dài có lẽ được 10 mét. Nhàø không làm sao có nổi cái
cầu tiêu.
Muốn đi, phải ra chợ Cai Lậy đi cầu tiêu công cộng. Tôi muốn ở lại đây
ít nhất
cũng một vài ngày, để đi thăm mả ông nội bà nội, để đi chùa và để tìm
lại chút
kỷ niệm tuổi thơ. Tôi cứ thế lặng thinh và nhìn ra phía bên ngoài. Cây
Cầu Kinh
lát gỗ bây giờ là cây cầu xi măng, nó làm sao nhận ra tôi, vậy mà sao
tôi vẫn
nhớ nó? Nắng vẫn còn, chợ chưa tan, bà con láng giềng chạy lại hỏi han,
mừng
rỡ. và tôi tíu tít với người với cảnh.
Tôi đã
rời nơi này có lẽ đã
hơn 20 năm. Sau ngày theo chồng, tôi có về một lần khi bà tôi mất. Sau
ngày hòa
bình, lại về một lần để cầu cạnh cậu tôi, đã từng đi tập kết, để lo cho
chồng
đang ở tù cải tạo.
Cây mai
chiếu thủy trước cửa
nhà đã chết vì nước lụt. Con sông nhỏ vẫn còn, và như thế tuổi thơ của
tôi cũng
vẫn còn, ở trong nó. Nơi đây, tôi đã tập bơi khi vừa lên bảy tuổi. Đã
nhào
xuống tắm mỗi buổi chiều đi học về, khi nước đầy, và đã có lần tưởng
chết hụt ở
đó. Cũng trong con sông này, lần đầu tiên tôi thấy mình có kinh, khi 15
tuổi,
vào một dịp hè bãi trường trở về nhà, tôi vẫn giữ thói quen cởi quần áo
nhảy
xuống sông tắm cho kịp con nước vừa lớn vào buổi chiều. Khi tắm xong,
tôi bỗng
cảm thấy có một giòng nước ấm ấm, và nhìn xuống, thấy mầu nước hồng
hồng, chảy
xuống đùi, tôi la hoảng, tưởng con sông làm tôi đau. Từ đó ông tôi
không cho
xuống sông tắm nữa. Và đột nhiên tôi nhớ ra mối tình con nít, lãng mạn,
của
tuổi mới biết mình là thiếu nữ đó, nhưng dòng sông giờ đã cạn, như con
người
tôi đã cạn, đã dạn dầy....
Tôi gặp
chàng tại tiệm chụp
hình của Cai Lậy. Chàng hơn 30 tuổi, độc thân, mê thơ, mê nhạc, mê lý
tưởng, mê
làm cách mạng, là chính trị viên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,
hoạt động
nội thành. Tôi và chàng chép cho nhau những dòng thơ, những bản nhạc.
Hai đứa
tôi không gặp nhau thường xuyên và cố giữ mối tình trong sáng cho đến
khi chàng
ra đi. Phụ trách đưa một đoàn thanh niên học sinh miền nam ra bắc, trên
đường
trở về, chàng đã chết, đâu đó, giữa núi rừng Trường Sơn.
Năm
cuối trung học, một người
quen đã tìm gặp và đưa cho nàng một quyển vở học trò rách bìa, nhàu
nát, ghi
đầy những vần thơ, chữ của chàng, một chiếc nón tai bèo, trên vành nón
có ghi
tên nàng, và đó là những kỷ niệm vật chất, độc nhất, và cũng là cuối
cùng của
chàng.
***
Hạnh
phúc hay đau khổ đều có
nước mắt: Tôi không bao giờ nghĩ rằng có ngày mình còn được trở lại nơi
này.
Con lộ từ ngã tư Cai Lậy về Hưng Long, từ quê nội về quê ngoại, trước
trải đá
nay tráng nhựa, không còn ghồ ghề lởm chởm, và tôi không nhận ra Bờ Su
Đũa của
tôi, không nhận ra con đường dẫn vô nhà ngoại. Những hàng dừa cao lả
ngọn cũng
không còn, sự thiếu vắng của chúng làm tăng cơn thèm mong, được uống
một trái
dừa tươi khi về đến quê ngoại, thèm nhìn lại những cây cầu chỉ là những
thân
dừa, thân tre, thèm lập lại những buổi chiều ngồi bờ sông Trà Tân, nước
sông
vẫn đục ngầu phù sa, mấy dề lục bình vẫn trôi dật dờ, chở theo những
cánh hoa
màu tím, bên kia bờ cát vẫn bồi và dòng sông đã uốn cong chảy về hướng
Thục
Đẹp, nên sóng càng vỗ mạnh vào bờ bên lở. Cậu tôi bảo, nó lở vô nhanh
lắm, mới
đó mà đã thấy gần tới nền nhà cũ của ngoại rồi. Con sông rồi sẽ đổi
hướng và
đứng ở đây, có thể nhìn tới ngoài Vàm Ngũ Hiệp, nơi cha tôi bị Tây bắn
chết rồi
thả trôi sông. Cậu tôi nói có lẽ phải 100 năm nữa thì đất bờ bên này sẽ
được
bồi trở lại...
Cậu tôi
khóc, "Tưởng
không bao giờ còn gặp con nữa". Những người thân yêu của tôi đã nói một
câu giống nhau, bởi vì cùng nghĩ như nhau: sông chảy ra biển sẽ mưa về
nguồn.
Ai cũng thương tôi, đứa cháu mồ côi cha khi vừa hai tháng tuổi và mẹ
cũng đã
rời bỏ từ khi mới lên hai, các cậu cũng không cưu mang nổi, người chạy
tản cư
qua cù lao, người tập kết ra bắc, người đi lính quốc gia, Ngoại già
yếu, phần
phải chạy giặc, nên đành đưa tôi về Nội. Tôi rời bỏ dòng sông quê ngoại
khi vừa
sáu tuổi, thỉnh thoảng được ngoại rước về chơi một hai ngày, dù vậy tôi
vẫn
thương quê ngoại nhiều hơn và mỗi lần về như thế, tôi lại thấy Ngoại
cằn cỗi
thêm lên, cùng mảnh đất ngày càng nhiều bom đạn đổ xuống, bởi vùng này
là vùng
xôi đậu, ngày quốc gia đêm cộng sản. Khi ngoại mất tôi không được nhìn
mặt lần
cuối vì tôi ở quá xa, và cũng không ai biết tôi ở đâu để mà báo tin.
Bước ra
vườn, cây trái xum
xuê, toàn là nhãn, mộ của ngoại cũng nằm dưới gốc một cây nhãn già,
không còn
những cây dừa, cây ổi sẻ của tôi ngày xưa. "Mấy chục năm rồi làm sao
còn
mà kiếm, nó già quá hết trái, cậu mới đốn bỏ, vẫn còn cái gốc đây nè".
Nào
đâu những trái cóc, ổi, vú sữa... nhiều trái còn xanh, ngoại cũng nhặt
nhạnh,
mang lên nội cho tôi, vì đâu dễ đi hoài, dù lúc nào ngoại cũng muốn lặn
lội,
tay xách nách mang xóm làng cây trái lên cho tôi, tôi nắm chặt bàn tay
mình để
khỏi bật khóc.
Cậu mợ
Ba tôi già đi nhiều,
nhất là mợ Ba, người đã nuôi dưỡng tôi, khi má tôi bỏ đi, nói là đi
buôn bán
nhưng sau đó thì không trở về, bỏ lại quê nhà đứa con thơ chưa đầy thôi
nôi cho
đứa em dâu vừa mới bước chân về nhà chồng, mợ Ba tôi kéo khăn lau nước
mắt,
"Mợ nhớ con, nhắc con hoài, tưởng con chết rồi"....
Bữa cơm
trưa ngày hôm sau là
bữa cơm cúng ông bà. Quây quần quanh, ngoài cậu mợ tôi, là mấy đứa em,
con của
mấy cậu tôi, đứa nào cũng có chồng có con lớn, sắp làm xui hết rồi,
hình như
tôi có gần ba chục đứa cháu. Tôi không ăn, nỗi mừng vui, tíu tít đã làm
tôi no.
Bữa cơm trưa ngày hôm sau thì thật là hợp khẩu. Mấy đứa em nấu cho tôi
một nồi
canh khoai mỡ với tôm bằm vò viên, nêm chút nước mắm, rắc chút tiêu bỏ
chút rau
ôm, và một con cá trê vàng chiên dầm nước mắm gừng. Tụi nó nói cá trê
bây giờ
không còn cá lớn như hồi xưa, người ta săn bắt nhiều quá, mà cá lớn thì
không
ngon vì là cá nuôi. Mọi người nhìn tôi ăn, và tôi thực tình muốn là một
thượng
khách được săn sóc chiều chuộng, tại quê hương của mình, giữa những
người bà
con ruột thịt như thế này. Dì Út tôi, ngày nào bò qua cây cầu dừa trước
cửa nhà
ngoại kêu khóc, khi tôi bỏ dì dể về nội ở, hai dì cháu xấp xỉ tuổi
nhau, chơi
với nhau như bạn bè, bây giờ tóc đã bạc, vẫn gầy gò còm cõi như hồi
xưa, dì vỗ
vỗ lưng tôi, nói không ra lời, "Dì tưởng không bao giờ có được ngày hôm
nay, dì nghe nói con đã chết" rồi dì bật lên khóc nức nở, tiếng khóc
của
dì khiến mợ Ba tôi khóc theo, rồi cậu Ba, cậu Tư cũng rưng rưng nước
mắt, còn
tôi để mặc cho những giọt nước mắt của mình tự do chảy dài. Như tôi đã
nói, hạnh
phúc hay khổ đau đều cần tới chúng.
Đi thăm
bạn bè, tứ tán mười
phương, chỉ còn lại một vài ba người sống rải rác ở cái thị trấn nhỏ bé
này.
Ngôi trường làng, nơi tôi trải qua những năm đầu trung học, không còn,
khu đất
nằm ở ven bờ sông, dưới chân cây Cầu Đúc dã trở thành chợ mới, sầm uất,
ghe
xuồng dưới sông tấp nập, con sông Cái Lớn nước đục ngầu, và tôi, cánh
bèo trôi
dạt, may thấy mình được như một giống cá hồi, đi tứ phương biển cả, vẫn
tìm được
lối về.
Buổi
chiều chợ tan, tôi lang
thang dưới chân cầu với một đứa cháu, ngó về phía chân trời, mỏi mắt
tìm cây
cầu vồng của tuổi thơ.
Nắng
vẫn chang chang, khung
trời vẫn xanh ngắt mà lòng kẻ tha hương khi trở về cố quận nghe quặn
đau như
người thiếu nữ dậy thì mới ngày nào nhìn giòng nước mầu hồng chẩy xuống
đùi,
biết rằng mình vừa mới ra khỏi tuổi thơ, và bây giờ, về có nghĩa trở về
với cát
bụi.
Cát bụi
thì ở đâu cũng là cát
bụi, thì cớ sao mà không mong, là cát bụi ở nơi quê nhà?
Thảo
Trần