Notes
1
2
3
|
Hồ Hữu
Tường tháng 3 năm 1955
theo tướng Ba Cụt vào rừng Sát chống lại ông Diệm, bị bắt và bị kết án
tử hình,
nhờ một nhóm trí thức Pháp trong đó có Albert Camus ký kiến nghị xin ân
xá; sau
khi ông Diệm đổ, Hồ Hữu Tường mới được trả tự do.
Thụy Khuê. Hợp Lưu
Gấu tính đi một đường về Võ
Phiến, nhưng TK đã nhanh nhảu đi rồi. Chưa đọc kỹ bài viết. Có mấy chi
tiết, trên,
sai.
HHT theo Bình Xuyên làm quân
sư cho Bẩy Viễn, không phải Ba Cụt [Hòa Hảo]. Bị kết án tử, nhờ can
thiệp, đổi thành
chung thân. Khi ông Diệm bị làm thịt, được thả.
*
Về văn, như Bình Nguyên Lộc,
Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm
Mậu, Duy Thanh, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn
Thị
Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã
Ca,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình
Toàn,
Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y
Uyên, Cung
Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang,
Nguyễn
Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo
Trường, Nguyễn
Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Trần Thị Ngh, v.v...
Về phê bình văn học như Tam
Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao,
Huỳnh Phan
Anh, v.v.
TK.
Note: Không thấy tên Gấu.
Chán thế!
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến
có nhắc tới Gấu, hơn một lần, rất lịch sự.
Bây giờ lèm bèm bậy bạ về
ông.
Chán thế!
*
“Một mình” viết năm 1963,
không biết ở thời điểm ấy, Võ Phiến tiếp cận triết học hiện sinh như
thế nào,
nhưng Hữu là nhân vật tiểu thuyết đầu tiên của ông có cái nhìn hiện
sinh.
Nếu trong cuốn La nausée-Buồn Nôn, Sartre mô tả Roquentin như một nhân
vật
không ngừng ý thức thấy thân xác mình và ý thức ấy càng rõ, thì anh ta
càng cảm
thấy ghê tởm. Cảm giác buồn
nôn là trạng thái xẩy ra khi con người
ý thức
được sự hiện hữu của thân xác mình. Sartre thuật lại cái cảm tưởng
buồn
nôn đó,
trong đầu một gã đàn ông, mà sự cô đơn và nhàn rỗi, khiến hắn chú ý đến
những
dữ kiện sống sượng nhất của đời sống.
TK
Nhận xét về Buồn Nôn như vậy
rồi ghép với Một Mình của VP,
không đúng. Cảm giác buồn nôn, với
Sartre, là một
cảm giác siêu hình, do cảm nhận về sự thừa mứa của hiện sinh, chứ không
phải ý
thức thân xác mình rồi ghê tởm, buồn nôn. Nhân vật của VP rất tởm thân
xác của
họ, sau khi ‘thất bại’ nghĩa là chiều theo nó, để cho thân xác chế ngự.
Điều này
Gấu này đã nhận ra, và đưa ra đề nghị, VP theo VC, là để chế ngự cái
tôi đáng tởm
đó. Thất bại, trở về, ông lại đắm chìm vào, để tìm lối thoát ra!
Tất cả
những tác
phẩm quan trọng của VP là "thành công của một sự thất bại", sau khi hy
vọng
vào chủ nghĩa CS.
Đây là trường hợp xẩy ra cho rất nhiều nhà văn trên
thế giới, vào thời kỳ này. Thí dụ như Koestler, Silone, [hay Orwell,
trên].... Có thể đọc
bài viết của Steiner, Nhà văn và chủ nghĩa CS để có một
cái nhìn toàn cảnh
*
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một
phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương
tờ nhật
báo Tự Do, và sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể
Trong Đêm
Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về
nhà mấy
tờ báo mỏng dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát
hành đâu
từ miền Trung. Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật
của
ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau
đó, tôi
mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải
thích
tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn
khổ khốn
nạn đó...
Nhân vật của Võ Phiến rất
giống nhân vật của
Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra
những Người
Tù, Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau
Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những
cuộc phiêu
lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái
thân
thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig
cũng y
hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết
người khủng
khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ
vẫn còn
là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si...
Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng
biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới
nơi, lạy
lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai,
trở về
đời. Trong bữa ăn từ giã thiên thai, anh
chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng
tiền tính
dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ
chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời,
thần tiên
đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là
đi luôn!
Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn,
không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại
Người Tình
Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn
tới mức
đó!
Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay
công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái
"libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không
thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ
không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền.
Lúc
rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm
Điêu
Thuyền, bố, Lã Bố...
*
Nhưng đọc VP như thế, thì cũng chỉ là viết về, chỉ một nhà văn VP!
Trong bài viết Võ
Phiến, nhà văn
Bình Định, dựa vào cách nhìn Zweig như là nhà văn Âu Châu,
Gấu
đã manh nha coi ông như là một nhà văn, của mảnh đất địa linh nhân kiệt
là mảnh đất Bình Định, với những biến động lịch sử long trời lở đất
của nó, qua nhân vật Nguyễn Huệ. Một Nguyễn Huệ bình Thanh tảo Bắc
Một Võ Phiến, từ mảnh đất Bình Định, đối diện với chao đảo của lịch sử,
vận mệnh của đất nước. (1)
Và thất bại.
Và, tại sao thất bại?
(1) Me
xừ người Đức, chỉ đọc
độc nhất một bài viết của Gấu trên talawas, mà đã nhìn ra, đây là câu
chuyện một
tên Bắc Kít muốn trả nợ cho cả một miền đất, và cái nền, và "hệ thống",
của
trang Tin Văn rồi!
Tuyệt!
Tks again. NQT
*
Cuối
cùng tôi xin nhắc Nguyễn Quốc Trụ rằng, đừng đưa mình lộn lại
cái thời Pháp tấn công Nam Kỳ thì hay hơn. Ông cũng đành bất lực như
đồng bào
ông mà nhìn quê hương mất dần từng mảnh vào tay kẻ xâm lược mà thôi.
Hay ông
tin là dấy lên được một phong trào phản kháng? Gần hai mươi năm trôi
qua, rồi
Trung Kỳ rơi hẳn vào tay Pháp. Hai mươi năm, vì rất nhiều lí do phức
hợp mà
hàng triệu người Việt không đủ sức ngăn nổi Pháp. Nhưng có lẽ Nguyễn
Quốc Trụ
không để xảy ra cái cảnh như người Việt thuở ấy, không, chắc ông cứu
được ‘địa
linh nhân kiệt’. Hẳn là thế.
Đáp lời NQT
"Thiên tài của
một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer thổi
Kis.
Giá mà bệ được câu
trên, của Nadine
Gordimer, vào trường hợp nhà văn Bình Định thì thật là tuyệt!
Trong Một cuộc gặp gỡ Kundera viết về ông:
Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc
mộng.
Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có
cảm
tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang
nói với
tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào
những năm
1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là Thời Sự
chẳng
có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông. "Tôi không phải là một tên ly
khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên
di dân.
Cuốn
viết về VP của NHQ, tôi có được là từ ông “Bụt
Sách” lần ghé Tiểu Sài Gòn ra mắt lần Cuối Sài Gòn, vào năm 1998, khi
còn đang
viết mục Tạp Ghi cho NMG.
[Ông Bụt Sách cũng có nỗi khổ của ông Bụt Sách: Để “biếu” những cuốn
sách của
nhà xb của ông, cho tôi, ông cũng phải mang lén ra khỏi cửa tiệm. Ông
Bụt đã
từng than với Gấu, kiếp này, tôi có một món nợ cần phải trả. Món nợ cần
phải
trả của ông, hơi giống của Gấu, liên quan tới Gấu Cái, còn của ông,
"Bụt Cái". Gấu nghe kể, người nào tới nhà hỏi thăm Thầy
TM, là bị chửi rồi! Nhưng Gấu Đực và
Gấu
Cái, vào cuối đời, kể như sạch nợ, và điều này, Gấu phải cảm tạ ông
Trời. Ông
NHQ, giả như có điều gì bực ông Bụt, lại đi một đường “có mấy ông
Bụt”,
cũng chưa biết chừng.]
Trước khi về, NMG cho biết, số sắp tới là về VP, và đề nghị tôi viết
bài về
ông. Đó là bài viết Nhà văn Bình Định.
Do viết về VP nên tôi cũng thử đọc cuốn của NHQ, và có lấy ra được một
số chi
tiết liên quan tới tiểu sử của ông, và biết, ông VP đã từng bị VC bắt.
Chỉ mãi đến bây giờ, Gấu mới có thì giờ đọc nó, thì mới hỡi ơi, về cái
sự khoe
chữ, khoe đọc này đọc nọ, "trừ đọc Võ Phiến", của nhà đại phê bình!
Ngay cái danh hiệu vinh danh VP của NHQ cũng có vấn đề: Nhà văn của thế
kỷ 20.
Có vẻ như ông chôm của ngoại quốc.
Thí dụ Sartre đã từng được vinh danh là nhà văn, triết gia của thế kỷ
20, hay,
thế kỷ 20 là thế kỷ của Sartre.
Nhưng để vinh danh như thế, là cần phải chứng minh.
Sartre quả xứng như thế. Ảnh hưởng của ông lên thế kỷ 20 không nhỏ, mà
phải nói
là khổng lồ.
Có thể nói, nếu bạn sinh ra ở thế kỷ 20, và muốn trở thành nhà văn, là
phải
chọn lựa, giữa, Sartre và Camus, như Llosa, như Grass chẳng hạn, đã
từng làm
như vậy.
Còn Võ Phiến? Ông là nhà văn của thế kỷ 20 theo nghĩa nào, với ai? Theo
những
tiêu chuẩn như thế nào?
Ngay trước 1975, lớp của Gấu không thôi, tuy đã từng đọc, và mê Võ
Phiến, nhưng
đâu có thể coi ông là Thầy? Đâu có ai chịu ảnh hưởng của Võ Phiến?
Thật sự mà nói, tôi tin rằng NHQ không đọc được Võ Phiến.
Cuốn sách của ông về VP quả là một tai họa!
Cho cả hai!
*
Hồ Hữu Tường tháng 3 năm 1955
theo tướng Ba Cụt vào
rừng Sát chống lại ông Diệm, bị bắt và bị kết án tử hình, nhờ một nhóm
trí thức
Pháp trong đó có Albert Camus ký kiến nghị xin ân xá; sau khi ông Diệm
đổ, Hồ
Hữu Tường mới được trả tự do.
Thụy Khuê. Hợp Lưu
Gấu tính đi một đường về Võ Phiến, nhưng TK đã nhanh nhảu đi rồi. Chưa
đọc kỹ bài
viết. Có mấy chi tiết, trên, sai.
HHT theo Bình
Xuyên làm quân sư cho Bẩy Viễn, không phải Ba Cụt
[Hòa Hảo].
Bị kết án tử,
nhờ can thiệp, đổi thành chung thân. Khi ông Diệm bị làm thịt, được thả.
*
Về văn, như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn
Quốc Sỹ, Thanh
Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Duy Thanh, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam,
Nhật Tiến,
Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam,
Võ Hồng,
Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài
Trinh,
Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên
Vũ, Vũ
Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải
Thủy,
Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm
Châu,
Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Trần
Thị Ngh,
v.v...
Về phê bình văn học như Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long
Vân, Đặng Tiến,
Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh, v.v.
TK.
Note: Không thấy tên Gấu.
Chán thế!
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến có nhắc tới Gấu, hơn một lần, rất
lịch sự.
Bây giờ lèm bèm bậy bạ về ông.
Chán thế!
*
Gấu chưa từng nhắc tới TK, có thể vì vậy mà bị liệt vào thứ hàng “nhạy
cảm”?
Viết, một bài phê bình, nhận định văn học, mà cũng đi một đường thiên
vị như vậy, làm sao độc giả có thể tin cậy, về những điều lớn lao hơn?
Danh sách những tên tuổi bà TK đưa ra trên đây, chứng tỏ, bà gặp đâu
xâu đấy, thành thử quên thằng cha Gấu, thì cũng dễ hiểu!
NQT
Thật sự
mà nói, Gấu này chưa đọc
nhà đại phê bình Nguyễn Hưng Quốc.
Có đọc sơ sơ, khi mới ra ngoài
này. Đọc sơ sơ, thấy không có gì gọi là “chủ kiến”, tức những phát
giác, của NHQ
về VP, hay về thơ, rồi bận quá, quên luôn, cho tới khi đụng ông ta, về
vụ Võ
Phiến.
Có thể ông ta nghĩ Gấu muốn
chơi ông ta, khi viết, “tôi [NQT] chưa từng viết gì về Võ Phiến”. Cho
tới khi NMG
order bài viết cho đặc biệt về ông trên tờ Văn Học, Cali.
Gấu không hề tính chơi
NHQ. Nói, chưa từng viết gì về VP, như có lần Gấu tự thú, liên quan tới
thời của VP, so với thế hệ “đàn em” của ông ta, tức đám Gấu, và liên
quan
tới kinh nghiệm CS của VP. (1)
Trước 1975, Gấu còn không biết
ông VP đã từng theo VC, rồi 1954 về thành, làm cán bộ thông tin, hay
dân vận. Gấu này ít quan tâm đến đời tư của bất cứ nhà văn, và chỉ biết
một ông VP
nhà văn mà thôi.
Thành thử, khi NHQ giận dữ trả
lời, bằng bài viết “Có mấy NQT”, Gấu thực sự ngạc nhiên, và rà soát
lại, coi đã
từng thất lễ với ông ta lần nào trước đó hay là không.
Có. Chán thật.
(1)
Tôi đọc
Võ Phiến rất sớm, một phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt.
Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương tờ nhật báo Tự Do, và sau đó, còn làm
nhà xuất
bản, nơi đã từng in cuốn Kể Trong Đêm Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc
VP trước
đó ít lâu, khi ông anh mang về nhà mấy tờ báo mỏng dính, in ấn lem
nhem, như tự
in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát hành đâu từ miền Trung. Tôi chỉ nhớ cái
thuở ban đầu
làm quen những nhân vật của ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một
phần là
do, thời gian sau đó, tôi mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi
hy vọng
họ giúp tôi giải thích tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại
sao có
cuộc chiến khốn khổ khốn nạn đó...
Bông hồng là bông hồng
Bây giờ
Gấu mới có thì giờ đọc ông
đại phê bình nâng bi ông tiên chỉ.
Có một
lúc anh đi ra bàn làm
việc ở góc nhà, mò mẫm, rồi đem lại chỗ chúng tôi trang nhất của tờ
Việt Herald
số gần đây đã gấp nhỏ lại để góc dưới tay mặt của trang báo nằm ở trên,
cho
thấy bài tôi mới viết, “Câu chuyện văn học miền Nam: Tìm ở đâu?”, bài
đã và
đang gây nhiều thảo luận thú vị. Anh đưa tôi coi, tôi nói, “ô, như vậy
là anh
đã đọc bài này rồi.” “Đọc rồi nhưng quên rồi,” chị nói hộ anh. Tôi cụt
hứng,
tính kể anh nghe, song bỏ ý định đó, về vài ý kiến của người đọc đăng
dưới bài
đó trên trang Blog Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu tại website của đài
Voice of
America. Chị bảo tôi, “bây giờ ảnh không nhớ những chuyện vừa xảy ra.”
Quả là anh không nhớ những
chuyện vừa mới xẩy ra, vì một lúc sau, anh chợt nhìn thấy trang báo còn
nằm
trên mặt bàn, chỉ cho tôi thấy tên tôi dưới tựa bài báo, như thể anh
mới nhìn
thấy lần đầu.
Trùng Dương: Viễn
Phố: Người đàn bà đằng sau bộ ‘Văn Học Miền Nam
1954-75’
Tiền
Vệ
May
mắn thay, cũng trong thời gian này, vào đầu thập niên 1980, có tin về
việc cơ
quan Social Science Research Council (Brooklyn, New York) cùng phối hợp
với cơ
quan American Council of Learned Societies (New York, New York) thành
lập một
Ủy ban Liên hợp về Đông Nam Á (Joint Committee on Southeast Asia). Họ
rao nhận
đơn xin học bổng để nghiên cứu về các vấn đề của Đông Nam Á, đúng ra là
về ba nước
Việt, Miên và Lào, do ba cơ quan Ford Foundation, National Endowment
for the
Humanities và Henry Luce Foundation đứng ra tài trợ. Học bổng, nếu tôi
nhớ
không sai, là trên 20,000 Mỹ kim, với thời hạn nghiên cứu là một năm.
...
Dù vậy, hai đề án nghiên cứu
khác cùng nạp và được chấp thuận (cùng năm với dự án nghiên cứu về báo
chí miền Nam
của nhóm Đỗ Ngọc Yến và các bạn) đã tạo được những thành quả đáng kể.
Đó là đề
án nghiên cứu văn học miền Nam 1954-1975 của nhà văn Võ Phiến, mà kết
quả là
cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, đã xuất bản đến lần thứ ba và hiện có
tại Việt
Nam Thư Quán trên Web (**). Việt Nam Văn Học Tổng Quan là cuốn đầu của
dự án
bẩy cuốn sách mà nhà văn Võ Phiến đã hoàn tất trong đời sống lưu vong.
Đây cũng
là cuốn sách đầu tiên viết về nền văn học miền Nam, 1954-1975, một thời
kỳ có
lẽ là phong phú tưng bừng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. (Độc giả
muốn
tìm hiểu những yếu tố đã đóng góp vào sự phồn thịnh của văn học miền
Nam trong
vòng có 20 năm ngắn ngủi ấy nên đọc bài viết "Văn học miền Nam" của
chị Thụy Khuê, RFI, Pháp.)
Trùng Dương: Văn học miền Nam: Những nỗ
lực hải ngoại thập niên đầu 1975-1985
Blog NXH & Bạn bè trênVOA
Đoạn
trích dẫn, trên, cho thấy:
Võ Phiến có lẽ đã bị bịnh đãng trí của những người già.
Đoạn dưới cho thấy: Bộ Văn Học
Sử Mít, ở hải ngoại, của Võ Phiến, được viết bằng tiền của Mẽo.
[Tiền của ai thì cũng được. Nhưng đúng ra Võ Phiến phải ghi rõ sự kiện
này, trong tác phẩm của ông. Lần đầu đọc VH Tổng Quan, Gấu nghĩ, có vị
Mạnh Thường Quân nào, hoặc cộng đồng Mít hải ngoại, chi tiền]
Note: Làm gì có cái Uỷ ban Nghiên cứu Khoa
học Xã hội, mà chỉ có Social
Science Research Council, thưa
ông Võ Phiến.
Và có cái gọi là
"Joint Committee on Southeast Asia", như Trùng Dương cho biết, ở trên.
Lẽ ra ông nên công khai lên tiếng và tạ ơn Mẽo, thì mới đúng, bằng cách
để đúng cái tên bằng tiếng Mẽo của nó, cái cơ quan đã cấp cho ông trên
hai
chục ngàn đô! (1)
[Hình như là 25 ngàn. VL cho biết, cũng đợp được cùng một số tiền như
trên, để viết về Thơ, còn VP, về Văn]
Bây giờ lên tiếng vẫn còn kịp!
NQT
(1)
Đừng nghĩ là Gấu này
vạch lá
tìm sâu. Đây là một sự kiện rất quan trọng. Trong hợp đồng, khi lấy
tiền, có thể
có ghi khoản này.
Bữa nào rảnh, Gấu viết về vụ “thế giới tự do” lấy tiền của Xịa,
viết văn, mà không ai hay, đến lúc ngã ngửa ra, thì đều có mùi đô la ở
trong kít
rồi!
Sự giúp đỡ về tài chánh?
Hình như "thuật ngữ" được sử dụng ở đây, là, một cái "lôn" [loan]? NQT
Một vấn đề bỏ ngỏ: Giả như không có lôn, không có phân [fund], liệu có
Văn Học Tổng Quan, có các hội đoàn, cộng đồng Mít hải ngoại?
Khi
tính nhìn lại VP, là Gấu hy vọng ông đọc, và có thể, ông sẽ có vài
lời, mà chỉ có ông mới có thể, về bộ sách của ông. Nhưng, không kịp nữa
rồi, qua đoạn trích dẫn trên cho thấy.
Giống như trường hợp đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Mộng
Giác. Gấu hy vọng, người còn sống, sẽ có cơ hội để 'sửa chữa' một vài
điều 'sai sót' của tác phẩm.
Nhưng có vẻ, chẳng ai cần.
Chán thế!
Gấu còn bị hiểu lầm, là 'vô ơn', 'có vẻ như Hai Lúa không ưa NMG'...
[Lại] chán thế!
NQT
Nhớ,
trong cuốn Thơ miền Nam
(Văn Nghệ, California, 1999, tr. 3047), khi đề cập đến thơ Quách Tấn,
Võ Phiến
viết:
“Thi sĩ Tản Đà có lần nhìn lại đời cầm bút của mình, và viết:
‘Tôi từ khi theo về nghề quốc văn kể có gần mười lăm năm, lên bổng
xuống trầm,
vào trong ra đục, phong trần chẳng quản, phi nghị mặc ai, thực cũng
mong tựa
văn chương để có ít nhiều sự nghiệp. Mới đây, tôi ở Hà Nội vào Nam,
thăm Thuận
An, qua Đà Nẵng, trải Hoành Sơn, Hải Vân, một lần đường bộ, hai lần
đường thuỷ,
càng thấy giang sơn là to, càng mới biết văn chương là rất nhỏ mà bao
nhiêu cái
tư tưởng muốn lấy văn chương làm sự nghiệp, tự nhiên như bọt bể mây
ngàn’.
Ngày xưa, khi thi sĩ viết những
lời tâm huyết ấy, tôi mới vừa biết đi
trên hai
chân chưa được bao lâu. Nằm kềnh ra không phải là đặc điểm của loài
người, bò
lê bò la bằng cả tứ chi cũng không phải đặc điểm của loài động vật
người, đứng
thẳng di chuyển bằng hai chân mới là người.
Vậy
ngày thi sĩ Tản Đà
ngoái đầu
nhìn lại sự nghiệp, tôi loạng quạng bắt đầu làm người.
Sau
này, gần cuối đời ngẫu nhiên gặp câu văn của cụ, thoạt tiên tôi bất
giác
mỉm cười: ‘Mới từ Hà Nội vào Nam
cụ đã khớp!’
Võ Phiến [được NHQ trích dẫn trong blog trên VOA của ông]
Thú
thực, Gấu không hiểu Võ Phiến hiểu cái sự cảm khái của Tản Đà ra
sao, khi
thi sĩ của vùng Núi Tản, Sông Đà làm một chuyến đi từ Bắc vào Nam và
ngộ ra rằng
văn chương chỉ là cứt đái so với thực tại.
Khớp, là vậy?
Nữa, những dòng trên đây, đâu có liên quan gì tới Quách Tấn?
Ý của Tản Đà, là, văn chương, dù vĩ đại cỡ nào, chẳng
là gì so với đời sống thực.
Đã vậy, lại ngồi ru rú ở một
xó nhà mà còn cứ tưởng là văn chương của mình là lớn lao, tư tưởng của
mình là
vĩ đại.
Sự nghiệp văn chương của Tản Đà,
như chúng ta đều biết, lớn lao là chừng nào, vậy mà chính tác giả cho
thấy, chỉ một chuyến đi, ra khỏi nhà, từ Bắc vào Nam,
là tiêu!
Vậy mà
ngài tiên chỉ hạ một đường đao ‘khớp’ ngọt lịm.
Thảo nào Võ Phiến chẳng ‘khớp’ tí nào, khi, chẳng biết một tí gì về phê
bình,
dám ‘cứu tử’ cả một nền văn học!
*
Từ cảm khái của Tản Đà, là vấn nạn,
Văn chương có thể gì ?[Que peut la littérature ?], gây một
trường tranh cãi tại Tây một thời, và cũng là vấn nạn mà đám hiện sinh,
trong có Sartre, đề ra, thí dụ như trong Văn chương là gì ? của ông,
và từ đó là hành động dấn thân, xuống thuyền, nằm vùng, vô bưng
lên rừng... của biết bao tuổi trẻ, của nhiều thời.
Bởi vì
chỉ là một đoạn trích dẫn, cho nên không hiểu, từ đó, Võ Phiến muốn dẫn
chúng ta tới đâu. Tuy nhiên, đoạn văn của ông, "Ngày xưa, khi thi sĩ
viết những lời tâm huyết ấy, tôi mới vừa biết đi trên hai chân chưa
được bao lâu. Nằm kềnh ra không phải là đặc điểm của loài người, bò lê
bò la bằng cả tứ chi cũng không phải đặc điểm của loài động vật người,
đứng thẳng di chuyển bằng hai chân mới là người", khiến chúng ta liên
tưởng tới đoạn sau đây, của Steiner:
Trees
have
roots, men and women have legs. With which to traverse the barbed-wire
idiocy
of frontiers, with which to visit, to dwell among the rest of mankind
as
guests. There is a fundamental implication to the legends, numerous in
the
Bible, but also in Greek and other mythologies, of the stranger at the
door, of
the visitor who knocks at the gate at sundown after his or her journey.
In
fables, this knock is often that of a concealed god or divine emissary
testing
our welcome. I would want to think of these visitors as the truly human
beings
we must try to become if we are to survive at all.
Cây có
rễ, đàn ông, đàn bà có chân. Với chúng, con người băng qua biên cương
kẽm gai ngu độn, với chúng, con người đi thăm viếng, ăn ở, chung với
đám còn lại của nhân loại , như là những người khách. Có một sự hàm ngụ
căn bản đưa tới những giai thoại, đầy rẫy ở trong Kinh Thánh, và còn
trong những huyền thoại Hy Lạp và ở những nơi khác nữa, về kẻ lạ nơi
cửa nhà, hay một khách viếng thăm, gõ vào cánh cổng làng, thành
phố.. vào lúc sẩm tối, khi chấm dứt cuộc lữ. Trong những câu
chuyện ngụ ngôn, cái gõ đó thường là của một vì thánh thần giả trang,
hay một thiên sứ muốn thử lòng kẻ ở phía bên trong, đằng sau cánh cửa.
Chúng ta có thể coi đây, những khách này, như là những con người thực
sự mà chúng ta phải cố, để mà trở thành như họ, nếu sống, đối với chúng
ta, sau cùng có nghĩa là, sống sót.
Bạn có
nhận ra hay không, chỉ một đoạn cảm khái như trên, mà Tản Đà đã tiên
tri ra cả một giai đoạn lịch sử của Mít, và cái kết cục như bây giờ.
Nhưng
vẫn có một cái gì đó, vượt ra khỏi suy luận:
Tại
sao Võ Phiến, sau những dòng đốn ngộ về đôi chân con người, và câu
đố của con nhân sư chìm ở trong đó, [đố biết con gì buổi sáng đi bốn
chân, buổi trưa hai chân...], lại có thể hạ một đường 'khớp' như
thế?
Khó
hiểu thật!
Có
thể là do trích dẫn, chăng?
Cái
đoạn giải thích đoạn văn trên đã bị thiến mất?
*
Đi tìm
nhà văn Võ Phiến, tôi
bắt gặp một nhà tùy bút. Đi tìm nhà tùy bút Võ Phiến, tôi bắt gặp một
nhà
nghiên cứu.
NHQ
Blog VOA
NHQ
không cho chúng ta biết:
Giả như độc giả, hay chính nhà phê bình, đi tìm Võ Phiến,
thì... sao?
Cái ông Võ Phiến đó, gạt tất
cả những ‘râu ria’, nhà tùy bút, nhà nghiên cứu, nhà truyện ngắn, nhà
truyện dài….,
thì còn cái gì?
Còn cái
tâm nhỏ xíu của ông
ta.
Đó là sự thực.
Cái mà Võ Phiến thiếu nhất, là
một tấm lòng nhân hậu, và nó biểu lộ ra, thật rõ, qua những câu, thí dụ
như:
‘Mới
từ Hà Nội vào Nam
cụ đã khớp!’
[NHQ
trích dẫn]
Hay
như câu này, được Mặc Đỗ trích dẫn, khi Võ Phiến phạng cả nhóm của ông:
Scan từ một số báo Thời Tập của Viên Linh
Cái từ "làm
dáng", được TTT sử dụng, khi điểm cuốn Siu Cô Nương, khiến Mặc
Đỗ
bực lắm.
Khi Võ Phiến, sử dụng lại, "độc như thịt vịt", là nhắm, một mũi tên
bắn hai con chim!
Đúng như thế, Mặc Đỗ điên lên lần thứ nhì, lại nhè TTT phạng thêm cú
nữa.
Bởi vì đã một lần MD trả lời vụ này rồi, như trong bài viết của Gấu về
Malraux,
[cũng một tổ sư làm dáng, không chỉ làm dáng mà còn phịa ra những giai
thoại về
mình, a myth maker].
Hemingway cũng chẳng thua ai trong chuyện này!
Nghệ
thuật làm dáng
Chúng
ta luôn có dáng điệu của một kẻ sắp sửa ra đi, Camus viết như vậy. Một
Dũng của
"Bến Gió", của "sông Đà": kéo cổ áo cao lên một chút, tóc xổ
tung ra, mặc tình cho nó bù xù trước gió! Vũ Khắc Khoan, khi sinh thời
có kể một
huyền thoại về Nguyễn Tuân: Mặc áo gấm, nhảy xuống sông, thi bơi! Khi Siu Cô
Nương của Mặc Đỗ được trình làng, Thanh Tâm Tuyền, trong một bài
điểm sách, đã
coi, đây chỉ là những nhân vật làm dáng. Mặc Đỗ, sau đó, đã chỉ ra
những nét
làm dáng trong Ung Thư.
Ở đây, cứ coi như một "chân lý": không thể có
văn chương, nếu không có làm dáng. Nhưng đấy chỉ là khởi đầu, là thói
quen mút
ngón tay của con nít; sau đó phải là chấp nhận rủi ro, hiểm nguy, là
chọn lựa,
quyết tâm thực hiện thực tại "của những giấc mơ".
Vua
Bịp
Nhớ, có lần ngồi Quán Chùa với
TTT, Gấu lôi chuyện 'làm dáng' ra lèm bèm, ông cười nói, đánh trúng
quá, thành ra
ông ta đau đến tận già.
Y chang cú Gấu đánh nhà thơ
NS.
Đến tận già vẫn thù Gấu!
Một nhà văn thuộc loại đàn em
của Gấu, để nhẹ ông anh một phát, giả như anh chỉ chuyên về sáng tác,
thì tuyệt vời quá.
Nhưng “khổ cho anh”, viết phê bình quá ác, làm sao bỏ cho được?
Quả có thế!
Khi Gấu ra được ngoài này, đã
thề với lòng mình, không bao giờ sử dụng lại cái thứ văn chương khốn
nạn, là phê
bình văn học, điểm sách điểm báo gì nữa.
Xém giữ được, cho đến khi nằm
mơ thấy mình lui cui xuống mé sông Mekong, nơi chùa Bàn Long, Parksé,
những ngày
chờ qua sông, và nhìn thấy xác thằng cha Gấu trôi lềnh bềnh, giật mình,
thức dậy,
và hiểu ra rằng, chỉ có mỗi một cách bỏ phê bình, là viết… phê bình!
Và phải viết thật ác!
Thèm miếng thịt kẻ thù, là làm
thịt kẻ thù!
Hà, hà!
Bởi vì kẻ thù của Gấu, chính
là… Gấu!
*
Nhưng, thê thảm nhất, là những dòng viết của Võ Phiến, về nhóm Sáng
Tạo, khi, ngoài Mai Thảo ra, cả nhóm này đều ở trong trại cải tạo,
không làm sao lên tiếng trả lời được, và cho dù có ở ngoài, thì cũng vô
phương.
Đây là phát súng ân huệ của ông tiên chỉ dành cho những kẻ thù, để thoả
mãn cái sự đố kỵ của ông ta. NQT
*
Cái thiếu lớn nhất, ở Võ Phiến,
là tầm nhìn, khi viết Tổng Quan Văn Học, do cái tâm tủn mủn mà ra!
Ông nghĩ
rằng, ông là kẻ sống sót, sau cùng, độc nhất, viết về một nền văn học
kể như
xong rồi, với những tác giả, kể như chết rũ trong tù cải tạo. Ông không
nghĩ,
rằng, họ có cơ hội để mà đọc ông.
Ngay chính Mai Thảo cũng nghĩ
như thế, về bạn của ông, là TTT.
Trong Chân Dung Nhà Văn, ông
nhắc lại kỷ niệm lần đầu gặp TTT, tại một nhà in [hình như nhà in của
Vũ Ngọc Các,
thời gian làm báo Dân Chủ] và ông lầm với một tay thợ sắp chữ, và tay
này hỏi
xin ông một điếu thuốc lá!
TTT, phải đợi đến khi Mai Thảo
mất, mới kể lại kỷ niệm, lần đầu nhận bản thảo Mai Thảo gửi tới, và bắt
cả
bọn ngồi nghe ông đọc.
Một kỷ niệm, như sau đây, làm sao
quên được, với tác phẩm đầu tay, của bất cứ một tác giả?
*
Mai Thảo gửi tới chúng tôi Đêm Giã Từ Hànội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi, trong đựng
xấp bản
thảo đánh máy. Bút hiệu Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn xuống
vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề của
truyện đột ngột khác
thường. Nó không trích ra từ một tác phẩm khác đã có. Nó như tự trên
trời rớt
xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được của trời”. Cái chiều sâu
của nó
làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi biết, cho đến
lúc bấy
giờ chưa thấy được dùng trong văn chương Việt Nam.
Phải đợi vài năm sau, khi Phạm
Công Thiện xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới
tràn lan
và trở thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là một câu ở trong truyện. Phượng là
tên
nhân vật.
*
Đây là một truyện không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng
nghe –
theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự
vật ẩn
hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của chúng - , ở sự dồn đẩy
khôn
ngưôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết
mê mải
tới chốn nhòa tắt mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã Từ Hànội là truyện hay tùy bút đều được. Cứ
theo ký ức
cùng cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì đó là một bài
thơ. Thơ
là thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng dội, đòi được
nghe lại
(nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một truyện ngắn, một bài
tùy bút,
một quyển tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời nghe và gặp
lại một
câu thơ, một bài thơ.
Đêm Giã Từ Hà Nội là một bài thơ thỉnh thoảng vẫn vẳng dội
trong tôi mà tôi không thể nhớ
toàn vẹn - tỷ như lúc này đang viết đây tôi không cách nào tìm đọc bài
thơ ấy trừ
cách tưởng tượng dựa vào ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu trích
đề.
*
Nhớ trong buổi họp kiểm bài
vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không thể ngăn nổi mình yêu
cầu các
anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn trong
một kỳ
báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc say sưa, hùng hồn liên
hồi. Và
các anh chịu khó ngồi nghe trên căn gác lửng tối chật của tòa
báo. Anh
Tế kết thúc buổi họp nói đùa "Anh làm chúng tôi mất cái thú tự mình
khám
phá".
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến
những đứa con
tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích
đề của
Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá
lời, sử
dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo:
"Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ
của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng
trên ga
Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm
rét lạnh
của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn
xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu
thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách ra khỏi mạch
không ít
thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự
lập trên
cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc].
*
Đăng bài Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa soạn. Mai Thảo đến.
Anh đi chiếc xe đạp đầm sơn trắng, đầu còn đội mũ phớt kiểu Hà
Thành
Công Tử. Yên xe đạp được nâng lên cao hết cỡ vẫn chưa vừa với tầm
chân của
anh. Chúng tôi rủ nhau ra quán cà phê đầu hẻm gần đấy, ngồi trên ghế
thấp trên
lề đường Lê Lai trông sang bờ tường rào của nhà ga Sàigòn nói chuyện.
Hồi ấy anh
mới vào Nam, còn ở chung với gia đình anh Viên trong một căn phố đường
Jacques
Duclos, thuộc khu Tân Định (đường này song song với đường Trần Quang
Khải, trong
khoảng từ nhà hát bội đến lối vào Xóm Chùa. Tôi nói bỡn: “Anh ở trúng
vào con
đường mang tên một tay tổ Cộng Sản Pháp”).
Chuyện giữa hai chúng tôi xoay quanh văn chương, thi ca. Anh đọc và nhớ
khá
nhiều thơ Việt Nam
thời hiện đại kể cả loại thơ ít người đọc như thơ Nguyễn Xuân Xanh
trong Xuân
Thu Nhã Tập. Anh rất chịu thơ Chế Lan Viên. Nhân đề cập đến
thơ ở
Hànội rồi Sàigòn lúc ấy, tôi nhắc đến một bài thơ gần đây tình cờ đọc
trong một
trang Văn Nghệ của một tờ báo mới xuất bản: một bài thơ mới, lạ, chững
chạc,
dưới ký tên lạ hoắc chưa từng thấy: Nhị; một bài thơ lạnh, tôi
rất thích
chất lạnh của thơ,và cách biểu hiện cảm thức bằng những hình
ảnh dở
dang, trở đi trở lại dưới những ánh rọi khác nhau, đồng thời với cái
tiết điệu
biến hoá được nối kết lại bằng những câu trùng; tôi đọc những câu thích
nhất,
có hơi thơ gần siêu thực:
Lại thấy con đường như lặng
Những đỉnh cây xanh
Và những ngón tay trên phím dương cầm
Đôi guốc mộc trong căn phòng trừu tượng.
Cúi đầu xuống cúi đầu xuống.
Anh lặng nghe tôi bình phẩm, đọc thơ, rồi nói: Nhị là tôi.
Chúng tôi thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.
.....
Chúc Người An Giấc, Công Tử của Lòng Ta.
Thanh Tâm Tuyền
Trong
đất trời
Cái vụ đối xử chẳng ra gì với
những người
còn kẹt lại này, nói ra thật là xấu hổ, nhưng quả thực nó là như vậy.
Chán thế.
Bản thân Gấu cũng bị trù ẻo, chẳng khác gì mấy ông kia.
Khi mới ra ngoài này, đọc, mấy ông chứ không phải một ông, viết về Gấu,
sau cái
đòn phủ đầu, ngay lúc vừa tới trại tị nạn [Đi làm cái chó gì nữa, hết
mùa vượt
biển từ lâu rồi], lòng Gấu lạnh tanh, chẳng còn ham cái vụ viết lách gì
nữa.
Chỉ muốn làm một thằng bán bảo hiểm nhân thọ, túi thủ theo một cuốn
Faulkner,
lần này đọc nguyên bản tiếng Anh, cho nó hách, mỗi khi đói khách, là
lôi ra
tụng...
Gấu
bị nặng, còn là vì
cái sự lành bệnh
nữa!
Tưởng nó chết rồi, sao... chưa chết?
Sao chưa chịu chết?
*
Nhân
đây, nói
chuyện Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến.
Khi lấy tiền của
Mẽo để viết nó, chắc chắn VP còn nhớ trong đầu, cái vụ Mai Thảo bị
Nguyên Sa tố
lấy tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo. Ông không muốn mang tiếng, và vờ đi,
và thay
vào đó, là lời cám ơn “Uỷ ban Nghiên cứu Khoa học, Xã hội”, nghĩa là
thay vì để
tên thực, bằng tiếng Anh của cơ quan cung cấp tiền, ông dịch cái tên
tiếng Anh
ra tiếng Việt.
Nên nhớ, một cái
tên riêng không thể nào dịch được, và không thể sử dụng bản dịch thay
thế bản
chính được.
Gấu đã từng kể
chuyện, hồi học Đệ Thất trường Nguyễn Trãi Hà Nội, có ông thầy dậy
tiếng Anh tên
là Xuân, và một bữa, có anh học trò hí hoáy vẽ lên bảng một bức hí hoạ,
và ghi
là Mr. Spring. Đúng lúc đó, Thầy bước vô, và định phạt anh học trò,
nhưng anh này
láu lỉnh cãi:
-Spring không phải
là tên Thầy.
Ông thầy gật gù, đúng!
Y chang trường hợp
của Võ Phiến.
Gấu, ra ngoài này,
lần đầu được một người bạn đưa cho đọc, tự hỏi, ở đâu ra cái Uỷ ban
đáng quí này.
Liệu nó có giúp được gì một thằng cha Gấu, với cả lố tác phẩm ở trong
đầu?
Những chuyện này
không thể không viết ra. Gấu đâu có thù hằn gì Võ Phiến, hay Nguyễn
Mộng Giác,
[sử dụng tên HPNT cho một nhân vật của ông] hay bất cứ một ông
bạn quí. Gấu đã tính vờ hết, nhưng, đúng như Gấu đã từng kể,
nhiều lần, về cái bữa nằm mơ nhìn thấy xác Gấu nổi lều bều trên dòng…
Bến Hải,
tỉnh dậy, bèn viết ra tất cả, chẳng chừa một chuyện gì, để thanh thản
mà đi!
Dù thế nào thì thế
nào, Gấu cũng vẫn là một tên Yankee mũi tẹt. (1)
Giả
như Gấu không bỏ
chạy vào
năm 1954, thì cũng là một trong những tên ăn cướp, và miệng lúc nào
cũng có mùi
vị chiến lợi phẩm, hẳn thế!
Viết
là viết
trong cái thú
đau thương
đó, đâu thù hằn chi ai?
Cái vụ Dọn, là cũng
trong tinh thần đó, nhưng như chàng dũng sĩ hạ san trừ quỉ của Nhất
Hạnh, đúng
vào lúc Gấu sắp biến thành quỉ thì bạn bè hét lên, này coi chừng, thế
là tỉnh dậy,
may quá!
(1)
As
a Hungarian Jew and
native
German speaker who wrote in English, he isn't a natural part of
anybody's
literary canon. There is an Orwell Society at Eton, but I doubt very
much that
there is a Koestler Society at any school in Budapest.
[Một
tên Bắc
Kít bỏ
chạy vô Nam, viết bằng thứ tiếng Mít của đám Mỹ Ngụy, của đám Chống
Cộng điên
cuồng hải ngoại, đâu phải là một phần tự nhiên của bất cứ một cõi văn
của bất cứ
một người nào? Có một cõi "thơ từ đâu tới', một cõi SCML, thí dụ, ở quê
hương
Mít, nhưng cõi của mi, Gấu nhà văn, ở đâu?
Hà Nội hay Sài Gòn?
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell
Chỉ là đồ
chơi
Những
lầm lẫn của VP, hay của
NMG, theo Gấu, là thuộc phạm trù đạo đức văn học, không liên quan tới
đời
thường. Cả hai, theo như Gấu biết, là những con người mẫu mực, sống
những cuộc sống
mẫu mực. Nhưng khi viết, họ đã vi phạm điều không thể vi phạm. Một khi
vi phạm,
tác phẩm dù có hay cỡ mấy, thì cũng coi như bỏ đi.
VHTQ vi phạm đạo đức văn học, ngay ở trong cái viễn tượng viết nó của
VP: như
là một bài ai điếu cho một nền văn học, và những tác giả làm nên nền
văn học
đó, thay vì để cứu tử nó, bảo vệ nó. Giọng điệu huênh hoang, tếu táo,
tạp ghi
không ra tạp ghi, khảo luận chẳng ra khảo luận, phê bình lại càng
không, càng
làm hỏng nó.
Bởi thế, khi nhìn lại, vào lúc "cuối cùng", có thể VP ngộ ra, và ngậm
ngùi, "no big deal", "ở về phía đồ chơi".
Có lẽ, đây là phút nói thật của ông.
*
Since then, at an
uncertain
hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale
is
told
This heart within me
burns.
(1)
Coleridge, The Rime of the
Ancient Mariner.
(1) Cynthia Ozick trích dẫn,
trong bài viết về Primo Levi.
Tạm dịch:
Kể từ đó, đâu biết giờ
nào,
Cơn hấp hối đó trở lại,
Và cho tới khi câu chuyện
thê
lương của tôi được kể
Trái tim này trong tôi
bỏng
rát.
Coleridge: Bài hát của người
thủy thủ già.
Trong
bài viết Võ Phiến, nhà
văn Bình Định, Gấu trích lại.
Và, bây
giờ, tự hỏi, liệu VP, vào giờ phút "cuối
cùng", cũng đã ngộ ra, như Primo Levi, "cũng chỉ là đồ chơi, playful",
(2) mà thôi?
(2)
Viết về tập truyện mới xb bản của Primo Levi, A Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những chuyện chưa xb], của
Primo Levi, dịch từ tiếng Ý, Anita Desai tự hỏi, liệu có thể dùng từ
"playful" [dzui thôi mà] để nói về những tác phẩm của Primo Levi, như Sống
sót Lò Thiêu, Liệu đây có phải một người ?, về cuộc đời mà ông đã
trải qua, nhưng không thể nào, chẳng bao giờ bỏ lại phía sau mình.
Và bà trả lời, playful, đúng là cái tính từ "ấn tượng", "chót", mà một
nhà phê bình có thể nghĩ ra được, khi "đọc" Lò Thiêu, khi đang đi trên
Đại Lộ Kinh Hoàng, khi đang hứng những trận mưa hỏa tiễn của VC giáng
xuống đầu dân Sài Gòn…, bởi vì, đọc tập truyện, quả là bà chỉ nghĩ đến
"một góc trời chỉ biết rong chơi", của TCS!
Tất cả những
truyện ngắn trong đó đều gợi nên cái sự rong chơi, vui đùa, cười cợt!
Ấn tượng thật!
*
Primo Levi là một nhà văn
người Ý gốc Do Thái, sống sót Lò Thiêu, trở về căn nhà mà ông dự định
sẽ sống
hết cuộc đời ở đó, cuối cùng tự huỷ mình, một năm sau khi cho xuất bản
tác phẩm
chót, “Những kẻ chết đuối và những người được cứu thoát”, như là kinh
nghiệm
sau cùng về Lò Thiêu.
Mấy câu thơ trên được ông
dùng làm đề từ cho cuốn sách trên.
Trong một cuộc phỏng vấn dành
cho Risa Sodi, khi người phỏng vấn cho biết, sử gia H. Stuart Hughes đã
liệt kê
ông là một trong sáu nhà văn Ý gốc Do Thái, hay nói gọn nhẹ, “nhà văn
Do Thái”,
và hỏi, “cái định nghĩa ‘nhà văn Do Thái’ có hơi quá đối với ông
không”, Primo
Levi đã trả lời:
- Ở Ý, chụp cái mũ “nhà văn
Do Thái”, hay “nhà văn không Do Thái”, là điều không thể xẩy ra. Cái mũ
này,
người Mỹ ban cho tôi đầu tiên, chứ không phải người Ý. Ở Ý, người ta
biết tôi
là nhà văn, và “chuyện cũng thường thôi,” có người còn biết thêm, tôi
gốc Do
Thái; theo kiểu, ông ấy là con ông A, ông B nào đó. Ở Mỹ lại là chuyện
khác.
Khi tôi tới đó vào năm 1985, người ta làm cho tôi có cảm tưởng, lại
được gắn
cho ngôi sao Do Thái ở trên ngực! Nhưng tôi chẳng cần…. Ngoài ra, tôi
nhớ, sử
gia Hughes đã gọi tôi là “người Do Thái độc nhất”, hay “người Do Thái
thực sự
đầu tiên”, (le premier vrai juif), tôi không nhớ rõ đúng từ ông dùng.
Riêng về phần
tôi, những cuốn sách khoa học giả tưởng chẳng mắc mớ gì tới Do Thái,
cuốn
“Chiếc mỏ lết” cũng chẳng phải là một “cuốn sách Do Thái”. Nhưng nói gì
thì
nói, tôi thoải mái (de bon gré) chấp nhận cái định nghĩa “nhà văn Do
Thái”.
Người phỏng vấn hỏi tiếp, “Ở
đầu cuốn ‘Những kẻ chết đuối và những người được cứu vớt’, ông trích
dẫn những
dòng thơ trong ‘Bài ca của người thuỷ già’; sau khi đọc cuốn sách đó,
tôi [Risa
Sodi] tự hỏi, liệu có thể ngưng ‘kể’ được không”.
Primo Lévi trả lời:
-Người ta có thể tìm thấy câu
trả lời ở trong cùng cuốn sách đó. Một số bạn tôi, những bạn rất thân,
chẳng
bao giờ nói tới [Lò Thiêu] Auschwitz.
Ngược
lại, một số khác, không bao giờ ngưng nói. Tôi thuộc một trong số sau
đó. Tôi
hơi lố (exagéré), khi trích dẫn nhà thơ Coleridge. Trái tim của tôi
không
thường trực bỏng rát…. Có thể nói, tôi hơi làm dáng (rhétorique: sử
dụng tu từ)
khi trích dẫn những dòng thơ đó.
Nhưng quả là những dòng thơ
thật là tuyệt vời!
*
Với riêng Gấu, chỉ với những truyện
ngắn, là xứng đáng để chúng ta vinh danh một “Võ Phiến, nhà văn”.
Ngoài ra, quả “chỉ là đồ chơi”,
thực!
Và, truyện ngắn của ông, chưa
ai lần vô được cõi này. Những gì mà những nhà phê bình Mít, viết về
truyện ngắn
của ông, đều là nhảm cả!
Lần Gấu
đọc Coetzee viết về
Marcellus Emants, và chợt nhận ra, có thể áp dụng những nhận định của
ông, vào
trường hợp Võ Phiến.
Trước hết, xin giới thiệu bài
của Coetzee, sau tìm ra những tương đồng giữa hai tác giả, xoáy vào
điểm này:
Cái con người Mít, đặc biệt là
Mít miền Trung, như được Võ Phiến miêu tả, có những điểm rất ư là kỳ
cục, phải
nói là, hơi bình bịnh, ông lấy ở đâu ra?
*
Trong bài viết [về nhà văn
Hòa Lan], Marcellus Emants: A
Posthumous Confession [in trong Stranger Shores,
nhà xb Viking, NY, 2001], Coetzee cho rằng, nhận xét của Emants, trong
một tiểu
luận về Turgenev, cũng có thể áp dụng cho chính ông ta [và với tôi, cho
Võ
Phiến]: Khi còn trẻ [Emants viết], chúng ta tạo ra một lý tưởng kỳ quái
về một
cái tôi mà chúng ta mong muốn là [cái tôi đó]. Nhưng cuộc đời của chúng
ta, với
những kiểu cọ của nó, khốn thay, được xác định không phải bởi lý tưởng,
mà là
bởi những sức mạnh vô thức ở bên trong chúng ta. Chính những sức mạnh
vô thức
này thúc đẩy chúng ta hành động, và chính những hành động này, sau cùng
làm bật
ra cái con người mà chúng ta thực sự là. Cái sự cố gắng vô ích, làm sao
cho lý
tưởng ăn khớp với những sức mạnh vô thức kia, làm chúng ta vỡ mộng, và
đau, đau
lắm. Nỗi đau càng nhức nhối, khi chúng ta nhận ra, cái hố thẳm không
thể vượt
qua, giữa lý tưởng và cái tôi thực sự.
Áp dụng vào trường hợp Võ Phiến, tôi nghĩ,
việc ông theo CS là nhằm lấy tập thể hủy diệt cái tôi - một cái tôi
bịnh hoạn,
thí dụ như nhân vật mang dấu bàn chân của vợ ghi lên ruộng, ở ngoài
đồng, về
nhà thờ... Và khi thất bại, trở về thành, ông hủy diệt cái tôi đó, bằng
cách
viết ra, theo nghĩa: viết tức là chữa trị, chữa trị bằng cách phơi
bày...
Emants được coi là nhà văn thuộc trường phái
những nhà văn "Tự Nhiên" (Naturalists), bởi vì ông (như anh em nhà
Goncourt) quan tâm tới cuộc sống dục tính che giấu của giới trưởng giả,
và (như
Zola), ông dùng ngôn ngữ của những khoa học mới về di truyền, dòng dõi,
và tâm
lý trị liệu, để giải thích những động cơ của con người, nhưng vẫn theo
Coetzee,
trong khi những nhà văn Tự Nhiên viết loại tiểu thuyết kinh nghiệm
(roman
expérimental), dựa vào những "data", Emants tới với những chất liệu
của ông bằng con đường của hồi nhớ, cơ may, và introspection (xem xét
nội tâm)
[tương tự Võ Phiến], những người đi trước ông thuộc những nhà
văn hiện thực Âu
Châu, đặc biệt là Flaubert và Turgenev.
Nguồn
Đọc lại Võ Phiến
Khi Gấu
viết về Võ Phiến, hay
về Nguyễn Mộng Giác, mấy ông này đều còn sống, nhưng tình hình sức khỏe
nghe nói
cũng căng. Giả như không viết ra, mấy ông này đi xa rồi, thì là hết
viết, bởi vì
nếu viết, là lâm vào tình trạng như bạn quí của Gấu viết về Xìn Phóng,
hay nhà
thơ DTL viết về thằng em nhà thơ NTN của ông!
Những gì Gấu viết về hai ông,
đều ở ngoài văn học. Ông NMG chỉ cần lên tiếng, đúng, giá mà đừng dùng
cái tên
Tường cho một nhân vật trong Mùa Biển Động.
Bởi vì chính ông đã từng xác
nhận, có mượn một số chi tiết đời thường của HPNT, ngoài ra là hư cấu.
Muợn vài chi tiết mà quên
chuyện mượn cái tên cúng cơm của người ta ư?
Ông Võ Phiến thì cũng thế. Ông
còn sống, thì phải lên tiếng, [đúng, tớ đúng ra phải để cái tên tiếng
Anh của cơ
quan của Mẽo đã chi tiền cho tớ], và có thể, còn phải gửi tí tiền cho
những người
đã cung cấp tài liệu cho ông, để viết VHTQ, nếu có người cần tí tiền!
Những chuyện như vậy, tại sao
không lên tiếng, vì chúng liên quan tới đạo đức văn học?
Gấu đâu có đụng chạm gì đến đời
tư của hai ông?
Về Võ Phiến, Gấu cần phải
thanh toán cái chuyện ở bên ngoài văn học, như trên, thì mới có thể
viết về ông,
như một nhà văn, với những truyện ngắn thần sầu, với những nhân vật
quái đản, nửa
người nửa không phải là người, mà là một thứ mutan gì đó, chưa ra dạng
người!
Ông
được coi là nhà văn lớn lao, bởi một đám bất tài, thi nhau thổi ông, để
được thơm
lây. Chưa có ai viết đúng, viết đẹp, viết hay về Võ Phiến cả, theo Gấu.
Nhớ, khi viết bài Nhà văn Bình
Định, cho số Văn Học đặc biệt về ông, một bạn văn có mail riêng cho
Gấu, nhận xét,
cả số báo có bài của anh là bảnh nhất, đúng ra phải để ngay ở trang
đầu, nhưng
theo Gấu, để ở mục Tạp Ghi do Gấu phụ trách đúng hơn, và cái này, là do
nhã ý của
NMG: Để ra ngoài, để lên trang đầu, là phụ lòng những người cộng tác
khác của tờ
báo.
*
Since then,
at an uncertain hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale is told
This heart within me burns. (1)
Coleridge, The Rime of the Ancient Mariner.
*
… Cấu trúc bài
viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu N tưởng bị lẫn
đoạn.
Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy diễn rất thích.
N rất thú vị vì chú thích truyện ngắn của Võ Phiến. Nhìn thì thấy ngay
tùy tạp
của họ Võ không giống ai. Nhưng 'khác', trong một dòng chảy chung, thì
đúng là
truyện ngắn. Hồi đầu đọc N nể quá.
Chú chỉ ra tính chất văn chương miền Nam
và miền Bắc hay quá.
V bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong
một thể
loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời
đi tìm
tri kỷ, phải dạy người ta một diều gì đó nhưng không dạy đời.
Hàng tháng N đều đọc chú cho thằng cu nghe. Cả tưởng niệm O. Paz làm V
buồn
cười. Hôm qua đọc được một nửa thì cháu ông trẻ ngủ. Như vẫn thường khi
nghe
đọc thơ.
Kính.
*
Khi viết bài Võ
Phiến, nhà văn Bình Định, đặt trong cái thế của Stefan Zweig, nhà văn
Âu Châu,
liên tưởng đến cái chết vì tự sát của Zweig, và của Primo Levi, kẻ sống
sót Lò
Thiêu, Gấu bèn trích mấy câu thơ làm đề từ của Primo Levi cho tác phẩm
sau cùng
của ông, xb trước khi ông tự sát… Gấu đã
manh nha trong đầu, mình sẽ viết về những câu chuyện thê lương chưa
từng được kể
của một trái tim bỏng rát, của một nhà văn Bình Định, và mảnh đất chịu
đủ thứ
tai trời ách nước, là mảnh đất Miền Trung… nhưng lúc đó, do không kiếm
ra được
những truyện ngắn của VP, đành bỏ dở.
Đề tài mà Gấu định
viết, những nhân vật
của VP, sở dĩ khùng
khùng điên điên là do cái
libido quậy, một phần,
tất nhiên, nhưng còn là hậu quả của cuộc huynh đệ tương tàn, qua,
không chỉ
hai cuộc nội chiến, mà còn suốt chiều dài lịch sử dựng nước Mít.
Những nhân vật của
VP sau lại thấy xuất hiện ở những entries cùa Blog Nguyễn Quang Lập,
thí dụ.
[Nhân vật, có
thực, sau khi phá thai, gửi cho chàng mớ lông chim, mà chẳng thú vị
sao, và
biết đâu, là hậu duệ của cái em trong Thác Đổ Sau Nhà của Võ Phiến! Bạn
để ý,
nhân vật nữ của VP luôn lấn lướt nhân vật nam. Đây là do... phong
thổ chăng?]
Đây là một đề tài,
thèse rất thú vị, cho những ai tính viết về VP, sau này. NQT
*
Bạn có thể đọc Võ
Phiến, cùng
lúc đọc Koestler, để soi sáng một số điểm Võ Phiến chưa từng viết ra,
về mắc mớ
của thế hệ của ông với chủ nghĩa CS.
Dưới đây là một số trích đoạn,
trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường.
Trong
lúc rảnh rỗi, tôi viết
một cuốn tiểu thuyết Tới và Đi, Arrival and Departure, và một số tiểu
luận, sau
được đưa vô The Yogi and the Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba,
trong một bộ ba tập, trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc
xung đột
giữa đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động
cơ cá
nhân… có thể nói, đây cũng là một trong những đề tài chính của những
truyện ngắn
của Võ Phiến. NQT] – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh
phong nhã [vẫn
còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài
Xưa như Diễm,
nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS [ui chao, tại
sao VP lại
chỉ theo, mà không vô Đảng VC, và tại sao ông bị chúng bỏ tù, chúng ta
chỉ biết
lơ tơ mơ về chuyện này, qua cuốn viết về VP của NHQ].
Tập đầu của bộ ba, là Những tên
giác đấu, Le Gladiators...
|
|