XÁC ƯỚP TRỞ LẠI
Từ ngữ- đó là Thượng đế
(Gumilev)
1
Tôi vốn không ưa Rimbaud. Con Tầu Say
cao ngạo của chú bé
con “xách tai cả thế giới (1) này không quyến rũ tôi, còn cáicách Henry
Miller
tiên tri “tương lai là của chàng, tất cả, dù bây giờ chưa có tương lai"
(2) làm tôi thấy nực cười. Gần một thế kỷ sau Rimbaud, người ta có lẽ
đã nhận
thấy tuyên bố “trong thế giới tương lai, mẫu Rimbaud sẽ thay thế mẫu
Hamlet và
mẫu Faust" (3) nói nhẹ ra là hơi vội vàng. Rimbaud không thay thế được
ai,
ông chỉ góp thêm cho bảo tàng của Madame Tussaud trong văn học thêm một bức tượng bằng sáp nữa mà thôi. Tôi
thích một Baudelaire “tương hợp” hơn, cũng như, đối với tôi, anh chàng
Joseph
K. gần gũi với thế giới hiện đại mà tôi đang sống hơn bất cứ một Mùa
địa ngục
nào.
Cần khá nhiều thời gian để tôi nhận ra
được một điều:
Rimbaud không có lỗi, thơ của ông càng không có lỗi, và cái danh “tiên
tri thấu
thị” của ông không hoàn toàn “vô thực” như tôi đã lầm tưởng. Ông đã
tiên cảm,
sớm hơn rất nhiều người, nguy cơ tuyệt chủng của ngôn từ văn học, và mơ
ước về
một sự phục sinh kỳ diệu của ngôn ngữ :
“A đen, E trắng, I đỏ, U xanh, O tím
Hỡi các nguyên âm
Một ngày kia ta sẽ nói
điều bí mật khiến các ngươi ra đời
A là chiếc corset nhung ruồi óng ánh
bay vo ve trên những vũng tanh hôi
những vịnh tràn đầy bóng
tối (4)
Đám học trò của ông đã hoài hơi đi tìm
con chim xanh
"điều bí mật của các nguyên âm". Khác với Gauloise
hay Ferma (5). Rimbaud không định
đưa ra lời giải nào cho một bí ẩn của
cuộc sống. Các nguyên âm của ông có thể có màu: đen,
trắng , đỏ, xanh hay tím, có thể có âm thanh du
dương, cuồng nộ hay
chói tai, điều đó đâu có quan trọng. Cái chính, từ các nguyên âm, ngôn
ngữ phải
được "ra đời"- và bí ẩn nằm trong chính sự chào đời của một từ ngữ
mới.
Nỗi thống khổ tuyệt vọng của Rimbaud
chắc không phải nỗi
thống khổ của một con người "sinh nhầm thế kỷ", ông hẳn cũng chẳng
ham cái áo khoác "nhà tiên tri của phái siêu thực" mà sau này người
ta cố choàng lên vai ông. Nỗi thống khổ của Rimbaud là nỗi thống khổ
của con
người phải sống trong một nghĩa địa của những từ ngữ đã cũ mòn, đã già
đi, hoặc chết ngay từ khi mới chào đời. Ở
một
người trẻ tuổi, tuyệt vọng về cái chết của ngôn ngữ cũng chính là tuyệt
vọng
cho cái chết từ từ của tư tưởng. Chính nỗi tuyệt vọng đó mới khiến
Rimbaud hăm hở
đến thế trong việc tạo sắc màu cho những nguyên âm của mình: ông muốn
phục sinh
ngôn ngữ!
Một từ mới
ra đời là
khúc khải hoàn của cuộc sống, là chiến thắng của "xanh đỏ trắng tím"
trước màu sắc nhợt nhạt của chữ cái. Một từ ngữ mới
sống động và đáng yêu như chú bé còn nằm nôi,
má phúng phính thơm mùi sữa. Nhưng chỉ vừa mới chào đời, đã có trăm
ngàn bàn
tay thô bạo túm lấy chú, làm bầm dập chú vì những cú vuốt ve, nựng nịu,
trút
lên má chú cả triệu cái hôn làm biến sạch mùi sữa thơm ngon lành của
chú, để
đến khi họ buông chú ra, hoàng tử nhỏ của chúng ta đã trở thành một ông
già
nhăn nhúm, nhàu nát bẩn thỉu, nằm vô hồn đợi chết.
Làm thế nào để hồi sinh cho ngôn ngữ ?
-2-
Trong tình trạng nhập nhằng của văn
học Việt nam hiện nay,
có hai “phép thắng lợi tinh thần” rất hay được các nhà văn nhà thơ của
chúng ta
sử dụng. Đầu tiên là: “tác phẩm của tôi không in được ở Việt nam”! Phép
thắng
lợi tinh thần này lập lờ "đánh lận con đen" giữa một thực tế có nhiều
tác phẩm có giá trị, nhưng do những lý do ngoài văn học, không được các
nhà
xuất bản ở Việt nam chấp nhận ấn hành, với một thực tế thứ hai: nhiều
tác phẩm
không được in chỉ đơn thuần vì không hay. Phép thắng lợi tinh thần thứ
hai,
hiệu nghiệm hơn nhiều, đó là “các anh không hiểu nổi tác phẩm của
tôi”-Phép này
còn có một dị bản nữa: “tác phẩm của tôi thuộc về tương lai”, nên những
độc giả
bình thường không có đủ nhãn lực để nhận diện ra những chân giá trị
tiềm tàng
trong những tác phẩm có lẽ sẽ trở thành bất hủ đó.
Hai phép thắng lợi tinh thần này lợi
hại ở chỗ: thứ nhất, nó
bịt tai bịt mắt nhà thơ trước những lời chỉ trích -( “ồ, họ chẳng phải
tri âm
của ta!”), thứ hai, bằng thái độ cao
ngạo vô lý, nó loại trừ
bất cứ một toan tính phê phán nào
("thế giới chỉ có hai loại người, người khen thơ ta và những đồ còn
lại"). Đằng nào hạng người trần mắt thịt thời hiện tại như chúng ta
cũng
chẳng có cơ hội sống đến lúc nghe được ông quan toà có tên là Tương lai
ấy phân xử ra sao, cho nên chúng ta đành
khép
nép khuất thân với số phận của lớp độc giả hạng hai, không bén được
những ý
tưởng cao siêu của các nhà thơ nọ.
Nhưng quả thực, đôi lúc chúng ta cứ
phải băn khoăn, có đúng
những ý tưởng của họ đã vượt thoát thời đại hay không?
Người đọc không khỏi có những ý nghĩ
trên khi đọc bài trả
lời phỏng vấn trên tạp chí Việt của Nguyễn Quốc Chánh, nhà thơ được một
số độc
giả và nhà phê bình văn học coi là "có ý hướng cách tân mãnh liệt
nhất" (6) trong thơ ca hiện đại
Việt nam. Có một "ý hướng cách tân" là rất đáng quí, nhưng liệu
Nguyễn Quốc Chánh có thực hiện được những cách
tân đó trong thơ ca của mình hay không?
Trong bài
trả lời
phỏng vấn đăng trên tạp chí Việt (7) số
tháng 8/2001, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh khẳng định "thi pháp thơ siêu
thực, mặc nhiên biến thành hơi thở, máu thịt, và làm nên phần chính yếu
trong ý
thức nghệ thuật của tôi". Thơ siêu thực, như vậy, đối với Nguyễn Quốc
Chánh, chính là đường hướng cách tân cần thiết cho thơ ca của anh.
Chủ nghĩa siêu thực (surrealism) ra
đời cách thời chúng ta
đã gần tám mươi năm- nếu tính thời điểm của Bản tuyên ngôn siêu thực
đầu tiên
do Louis Aragon, Paul Eluard, Benjamin Peret, Pierre Unik và Andre
Breton ký
năm 1924- và gắn liền với những thành tựu vĩ đại trong khoa học cuối
thế kỷ 19
đầu thế kỷ 20. Thuyết tương đối của Einstein và phân tâm học của
Sigmund Freud
đã gạt bỏ khái niệm thời gian tuyệt đối, tính đồng thời tuyệt đối và
không gian
tuyệt đối, cung cấp những khái niệm về cái vô thức, về những hiện tượng
tâm
linh trốn thoát ra ngoài ý thức trong giấc mơ...vv. Các nhà thơ siêu
thực đã cố
gắng "mở cánh cửa cho những giấc mơ" để đi tìm "con người toàn
nguyên" trong thơ ca. Vào thời đó, những từ mới như "vô thức",
"tiềm thức", "ký ức" hẳn vẫn còn căng đầy sức sống. Cho dù
chủ nghĩa siêu thực có đến muộn, thì vào những năm cuối sáu mươi đầu
bẩy mươi
tại miền Nam, những từ ngữ này vẫn được coi là đại diện của cái mới,
với những
bài viết giới thiệu đầy cảm tính của Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu
hay Huỳnh
Phan Anh. Lớp thanh niên hồi đó đã khám phá lại, cùng một lúc với chủ
nghĩa
hiện sinh và tiểu thuyết mới, chủ nghĩa siêu thực của đầu thế kỷ.
Nhưng ngày đó đã qua đi từ ba chục năm
trước, và trong khi
tư tưởng của chủ nghĩa siêu thực sẽ còn ảnh hưởng nhiều tới sự phát
triển của văn
hóa loài người, thì cái hành ngôn (discourse) siêu thực và hiện sinh
của ba
mươi năm trước đã chết già, hay chính xác hơn, chỉ còn ngắc ngoải dưỡng
lão
trong những tiệm sách cũ ở đường Nguyễn Thị Nhu hay Cách Mạng Tháng
Tám. Từ ngữ
trong tập thơ Khí hậu đồ vật của Nguyễn Quốc Chánh, sau ba thập kỷ,
cũng không
trẻ trung hơn chúng chút nào. Độ dày đặc của chúng trong các bài thơ
làm tôi
phải phân ra thành những "...thể" ("cá thể, "chủ
thể","nguyên thể","thực thể", "sinh thể"),
những " trầm..." ("trầm luân","trầm khởi"), những
"mê" ("cơn mê","mê hoan", "hoang
tưởng"), những "bản..." ("bản năng","bản
ngã"), rồi còn vô số những "xác lập", "chứng nghiệm",
"nhân gian", "thi tính",
"ác tính", "phân cực", "thích nghi", "khả
phân", "thanh khí", "hỏa ngục", "sinh linh",
"cảm thức"...Những từ Hán Việt hai âm tiết nặng nề, cũ kỹ đó hội họp
nhau lại như những ông đồ già, khăn xếp quần chùng, ủ dột tế lễ. Dường
như
Nguyễn Quốc Chánh chăm lo cho việc tuyên ngôn tư tưởng mờ mịt của mình
hơn là
làm thơ, cho nên anh mới có những câu tuy hoa mỹ nhưng lại rất nhàm như:
"Thi sĩ là tên tông đồ luôn xưng tụng
về giấc mơ tự do
Vì là tông đồ, nên hắn phải trầm luân
để đồng loại ý thức về
giấc mơ mà hắn lưu giữ" (8)
Một trong những khát vọng của tinh
thần siêu thực là xây
dựng một nền nghệ thuật không có gì chung với tất cả những nền nghệ
thuật đã có
trước nó, và không ngừng phủ định mình, phủ định bất cứ cái gì đã được
sáng
tạo. Từ Rimbaud, Apollinaire đến Andre Breton, các nhà thơ siêu thực
luôn luôn
có nhu cầu sáng tạo ra những hình thức mới, làm mới ngôn ngữ bằng cách
cung cấp
cho từ ngữ cũ những ngữ nghĩa hoàn toàn khác, hoặc bằng những so sánh
táo bạo
những từ ngữ đơn giản (9). Những tư
tưởng triết học và khoa học hiện đại bao giờ cũng gắn liền một ngôn ngữ
hiện
đại. Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh đã không tiếp nối được những khám phá
của thập
kỷ bảy mươi, không đổi mới được câu chữ, không mang những ngữ nghĩa mới
cho từ,
và nhất là không có được những ý tưởng thực sự mới, thực sự phủ định
hành ngôn
siêu thực đã có từ ba mươi năm trước, nên
“ý thức cách tân” bằng thơ siêu thực chỉ tạo nên
một ảo tưởng siêu
thực (surrealism fallacy) mà thôi.
Ý hướng cách tân có thể là nguyên nhân
khiến Nguyễn Quốc
Chánh cố gắng "làm khác" các cấu trúc câu của anh. Nhưng không thể
làm khác những câu thơ Việt bằng cách "Hán hóa" từ ngữ và "Tây
hóa" cấu trúc của câu, thay thế
những cách diễn đạt đơn giản bằng cách diễn đạt rối rắm của câu bị động
trong
ngôn ngữ nước ngoài, như câu "Những câu thoại được bảo kê bởi tiếng nổ
gắt
những cú đấm cao thủ" (10) của anh. Những từ hai âm tiết Hán Việt khiến
ta
hay có ảo tưởng về độ sâu của từ ngữ và độ sâu của tư tưởng, còn một
cấu trúc
câu rối rắm như vậy chỉ chứng tỏ bạn có một tư duy thiếu rành mạch và
sáng sủa
về những điều mình đang nói, do đó, ngôn ngữ của bạn sẽ giảm tính
thuyết
phục. (11)
Ngôn ngữ của nhà thơ, Nguyễn Quốc
Chánh có thể phản bác, tập
trung vào “va chạm và biểu tượng” (12) nên có thể "rành
mạch và sáng sủa" không quá
quan trọng đối với thơ ca. Nhưng cái bí ẩn hoặc mơ hồ của ngôn ngữ, của
các
hình tượng, ít nhất cũng phải đủ sức kết nối với nhau trong một hệ
thống, khi
"các mùi hương, các sắc màu, các âm thanh đối đáp nhau” (13). Nhận xét
về
thơ Nguyễn Quốc Chánh, một độc giả trên tạp chí Việt thừa nhận " cái
rhythm bên trong của NQC có vẻ như không có, hoặc không nhất quán, hoặc
như
trật, ít khi thực sự thuyết phục. Nói theo kiểu cũ là cái khí chưa tụ,
cho nên
chất có nhiều mà trọng lượng dường như chưa được bao nhiêu" (14). Đọc Nguyễn Quốc Chánh rất mệt, không phải mệt
vì phải suy ngẫm những ý tứ sâu xa gì của nó, mà mêït vì cái chất đều
đều, đơn
điệu (monotone) của thơ anh. Monotone trong từ ngữ, đã đành, còn
monotone ở các
biểu tượng, ở cái cách anh "nhân cách hóa" tất cả những gì có thể
nhân cách hóa được, nào những "biển mệt nhoài"; "mặt trời chồm
qua", "chiều nén vết bỏng", "ngày rạng nuốt dần em",
"đêm ngoác răng lạnh mồm", "những ô cửa nhìn ngây những tầng nhà
ngái ngủ". Những hình ảnh đứng riêng có thể là hay, là lạ, nhưng vì quá
nhiều trong một tập thơ, chúng gây chứng bội thực cho người đọc và làm
chúng ta
nghi ngờ cái "ý hướng cách tân mãnh liệt " của anh chỉ chỉ là sống áo
màu mè bề ngoài. Những hình tượng kỳ quặc trong thơ Nguyễn Quốc Chánh
không
"tạo thành những tiếng vọng dài...trộn lẫn vào nhau"-nói như
Beaudelaire-không liên kết với nhau, không "tụ" được thành những bài
thơ, mà chỉ là "những ý rời" (15). Và tư duy vụn vặt của "những
ý rời", thiếu những ý tưởng lớn khiến cho Nguyễn Quốc Chánh hay làm
những
bài thơ thật...loanh quanh. Anh viết :
"Chân không đèn đường không đèn bóng
thì đen
Chân không đèn đường có đèn thì đen
bóng
Dưới hai đèn thì hai bóng bóng nào
cũng đen" (16).
hay
"Sáng đi về hướng mặt trời bóng ngã
sau lưng và nắng
xuyên qua ngực
Trưa đi về hướng mặt trời bóng đổ
quanh chân và nắng xoay
vần tóc
Chiều đi về hướng mặt trời bóng ngã
sau lưng và nắng vẫn
xuyên qua ngực" (17).
Tập thơ Khí hậu đồ vật, theo tôi, là
chưa thành công trong
"ý hướng cách tân" của nó. Những con chữ, những biểu tượng
trong tập thơ của Nguyễn Quốc Chánh là những
con chữ đã chết, những biểu tượng đã dùng mòn. Vì thế, một thầy phù
thuỷ cao
tay ấn có thể dùng bùa chú khiến chúng nhỏm dậy, đi thành hàng ngũ,
nhưng đội
ngũ đó vẫn là đội ngũ của một đám xác ướp "dậy non". Ngay cả khi có
những hình tượng hay, thì những cố gắng của Nguyễn Quốc Chánh vẫn là
những cố
gắng "tô lại" nét vẽ của những người đi trước, hay nói như Milan
Kundera, thiếu đi "sự tiếp nối của những khám phá", tập thơ của
Nguyễn Quốc Chánh sẽ rất dễ bị "rơi
ra ngoài lịch sử phát triển của thơ ca".
(1)Chữ của Henry Miller trong Thời của
những kẻ giết
người-Nguyễn Hữu Hiệu dịch-Hồng Hà ấn hành-Sài gòn 1971.
(2) Sdd
(3) sdd
(4) A noir, E blanc, I rouge, U vert,
O bleu : voyelles,
Je dirai quelque jour vos naissances
latentes :
A, noir corset velu des mouches
eclatantes
Qui bombinennt autour des puanteurs
cruelles,
(Voyelles-Rimbaud-Hoàng Hạc dịch)
(5) Một người do "thiếu thời gian",
một người do
"thiếu giấy" mà khiến bao nhà toán học vất vả hàng trăm năm sau để
tìm cách chứng minh những phương trình của họ.
(6) Xem tạp chí Việt số tháng 8/2001-
Đinh Linh phỏng vấn
Nguyễn Quốc Chánh
(7)Bài phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Quốc
Chánh của Đinh Linh
đăng trên tạp chí Việt số tháng 8/2001 là một bài phỏng vấn đọc hết
sức... vui!
Cái hài hước thứ nhất là những phát biểu ngộ nghĩnh của Nguyễn Quốc
Chánh về
thơ của anh "trong thơ, tôi luôn chọn điểm dương để rơi, thậm chí cực
dương, nên thơ tôi không thể tụ và lắng, chỉ có tán và động, không thể
truyền
cảm và âm vang, chỉ có va chạm và biểu tượng. Vì tụ và lắng là âm, còn
tán và
động là dương, truyền cảm và âm vang là âm, va chạm và biểu tượng là
dương, mơ
hồ là âm, cụ thể là dương…Cái hài hước thứ hai là chính người "nhận ra
tính hiếu chiến gần như bản năng, tiềm ẩn trong phần đông con người
Việt Nam,
và điều đó làm tôi hoảng sợ hơn những cuộc đọ súng tưởng tượng với
Pôn-Pốt" lại viết "đọc cuốn sách hay thì có cái thú của một người bị
đánh văng khỏi khán đài" (đáng ra phải dùng chữ chính xác là võ đài) và
“viết là cầm súng lục bắn bừa vào đám đông”- thì đúng là bản năng hiếu
chiến
của người Việt dù có giấu kỹ đi thế nào cũng sẽ lộ ra ngay.
(8) Khí hậu đồ vật-NXB Trẻ-1997-tr.6
(9) Hãy lấy ví dụ bằng bài L'Union
libre của A.Breton mà
Nguyễn Quốc Chánh tâm đắc: Vợ tôi có đôi vai bằng rượu sâm banh/Và bằng
máy
nước có đầu cá heo đuôi dưới băng giá/...vv. Cái mới ở đây là cách so
sánh, còn
từ ngữ của ông dùng là những từ rất giản dị và sống động của cuộc sống.
(10) Khí hậu đồ vật-NXB Trẻ-1997-tr.43
(11) Trong mười lăm năm đi học ngoại
ngữ của mình, không có
cuốn sách nào cho tôi những lời khuyên quí báu hơn cuốn Giản dị hóa
tiếng Anh
của bạn (Simplify your English). Cuốn sách này phê phán thói hoa hòe
hoa sói
của những người mới đi học, cố tình viết tiếng Anh một cách rắc rối và
rất hay
dùng câu bị động- vì tưởng rằng điều này mới chứng tỏ khả năng ngoại
ngữ của
mình. Trong khi có thể nói đơn giản: "tôi đang đọc cuốn sách này",
thì họ lại nói: "cuốn sách này đang được nghiền ngẫm bởi tôi". Lẽ ra
chỉ cần nói: "tôi được biết..." thì họ lại nói "có những thông
tin lôi cuốn sự chú ý của tôi rằng..."...vv và vv.
(12) Chữ của Nguyễn Quốc Chánh trong bài trả lời phỏng vấn trên tạp chí
Việt-8/2001
(13) Chữ trong Tương
hợp của Beaudelaire
(14) Tạp chí Việt số
8/2001-
(15) Chữ của Nguyễn
Quốc Chánh
(16) Khí hậu đồ
vật-NXB Trẻ-1997-tr.15. Theo đúng cách lý
luận "con kiến mà leo cành đa" này, Tản Đà cũng đã nổi tiếng với bài
luận lòng vòng và ngô nghê bậc nhất của ông " đồ ăn ngon, không có rượu
ngon, không ngon/đồ ăn ngon, có rượu ngon, không có bạn thân ăn, không
ngon..."
(17) Khí hậu đồ
vật-NXB Trẻ-1997-tr.21