II
Vào
những năm
"dư dả" tiếp theo sau việc xuất bản hai tập hồi ký của bà, ở Tây
Phương, căn bếp đó trở thành một nơi chốn hành hương thực sự. Gần như
đêm nào
cũng vậy, cái đám tinh anh nhất, mà may mắn sống sót chế độ, mà may mắn
lại ló
mặt ra với cuộc đời, vào thời kỳ hậu-Stalin, họ tụ tập nhau ở đây,
quanh chiếc
bàn gỗ, mười lần rộng hơn cái khung giường ở Pskov. Có vẻ như bao năm
tháng vừa
qua đã tạo ra hình ảnh của bà, như là một kẻ cùng đinh. Tôi hình
dung như
nhìn thấy bà thật rõ, trong căn phòng nhỏ ở Pskov, hay là ngồi ở một
góc sô
pha, trong căn phòng của Akhmatova, tại Leningrad, nơi thỉnh thoảng bà
từ Pskov
lén lút về, hay ló ra từ cuối hành lang căn phòng của Shklovosky tại
Moscow, là
nơi bà tá túc trước khi có một nơi chốn của riêng bà. Tôi nhớ rõ những
hình ảnh
như vậy, bởi vì có thể, ngay ở trong trong bản chất của bà, đã có bóng
dáng một
kẻ bên lề, một kẻ chạy trốn, "một người bạn của những người ăn xin, ăn
mày" như Osip Mandelstam đã từng gọi bà, trong một bài thơ của ông. Và
bóng dáng này ở với bà cho tới cuối cuộc đời.
Vào
tuổi 65, bà
viết hai cuốn hồi ký như thế quả là một sự ngạc nhiên cho nhiều người.
Trong
gia đình Mandelstam, ông chồng mới đóng vai, và là nhà văn. Không phải
bà. Nếu
bà có viết lách lăng nhăng chi đó, trước khi viết hai tập hồi ký trên,
thì cũng
chỉ là những thư từ cho bè bạn, và những đơn chống án tới Tối Cao Pháp
Viện. Bà
đâu phải loại người tính sống lại đời mình, bằng những trang hồi ký,
vào lúc xế
chiều. Bởi vì sống tới 65 tuổi như bà không phải là một chuyện bình
thường. Chẳng
phải vô cớ mà hệ thống giam cầm của Xô Viết có đoạn chỉ riêng ra rằng,
trong một
số trại tù một năm phục án được tính là ba năm. Do cái mốc này, nhiều
người Nga
trong thế kỷ này hóa ra có tuổi thọ xấp xỉ với những tổ phụ trong kinh
thánh -
bà còn có thêm một điều chung với họ nữa: tận tâm với công lý.
[Đọc
tới đây,
Jennifer Trần tôi mới hiểu ra, tại sao chính quyền Cách Mạng năm đó lại
căn dặn
mấy tên ngụy, chỉ cần mang theo mười ngày lương thực: ở nơi chốn được
gọi là
Thiên Thai, một ngày tính bằng một năm].
Tuy
nhiên, không
phải riêng lòng tận tâm với công lý này đã khiến bà ngồi xuống ở cái
tuổi 65 và
dùng quãng thời gian hưu nhàn của bà để viết những cuốn sách đó. Điều
mang
chúng vào đời là sự ôn lại - bằng cái cân tỷ lệ của một người - cũng
cái tiến
trình trước đây đã có lần xẩy ra trong lịch sử văn học Nga. Tôi nghĩ
đến sự hiện
xuất của nền văn xuôi Nga vĩ đại vào nửa sau thế kỷ 19. Nền văn xuôi
đó, xuất
hiện như thể không biết từ đâu ra, mà không thể vạch ra được nguyên
nhân, thực
sự đơn giản chỉ là những sợi tơ vương từ guồng quay thơ thế kỷ 19 của
Nga. Nó
đã đặt định cho toàn bộ nền văn viết, bằng tiếng Nga sau đó, và tuyệt
tác của
truyện Nga có thể xem như là một âm hưởng xa xa, và như là sự trau giồi
chi ly
cái bén nhạy về tâm lý và từ vựng, mà thơ Nga đã phô bầy trong 25 năm
đầu của
thế kỷ ấy. "Hầu hết những nhân vật của Dostoevsky," Anna Akhmatova
thường nói, "chỉ là những vai chính trong những tác phẩm của Pushkin,
nhưng đã già đi - như Onegins, v... v...".
Có
thơ rồi mới
có văn, luôn luôn là như vậy, và nó là như thế, hơn một lần, trong đời
Nadezhda
Mandelstam. Là một nhà văn, và nhà thơ, bà là [nguồn] sáng tạo của cả
hai nhà
thơ mà đời bà không có cách chi mà có thể tách rời ra khỏi họ: Osip
Mandelstam
và Anna Akhmatova. Không phải chỉ vì người thứ nhất là chồng và người
thứ nhì,
bạn thân cả đời của bà. Nói gì thì nói, 40 năm đằng đẵng làm góa
phụ có thể
làm mờ những kỷ niệm hạnh phúc nhất (và trong cuộc đời vợ chồng của họ,
hạnh
phúc này thật là thất thường, không phải chỉ riêng là do những đói khát
trên
toàn xứ sở do cách mạng, nội chiến, và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất).
Cũng thế,
có nhiều năm, bà chẳng làm sao gặp được Anna Akhmatova, và một bức thư
là điều
chót, đối đế, đành phải trông vào nó. Thư từ, giấy má, nói chung chung,
là chuyện
chết người. Điều làm cho cuộc hôn nhân, và tình bạn, thêm bền bỉ, hóa
ra lại là
một vấn đề mang tính kỹ thuật: hãy cố mà nhớ, những gì không thể
trông cậy
vào tờ giấy, nghĩa là, hãy cố nhớ, những bài thơ, của cả hai, chồng và
bạn.
Làm cái điều vào thời chưa phát minh ra máy in như thế, thời kỳ
tiền-Gutenberg
- chữ của Anna Akhmatov - chắc chắn không phải chỉ có Nadezhda
Mandelstam. Tuy
nhiên, ngày đêm nhẩm đi nhẩm lại hoài lời của người quá cố, không chỉ
để hiểu
biết thêm về chúng, nhưng còn làm sống lại giọng nói của chồng, rất ư
là của
ông, chẳng thể là của ai, và như thế, bóng dáng chồng vẫn như kề cận,
như ngày
nào đã từng thề thốt, "nào nem công chả phượng, nào gừng cay muối mặn",
"for the better or for the worse - và cái phần gừng cay muối mặn đó,
mới đớn
đau, mới đáng nhớ làm sao.
Cũng vậy, là thơ của bạn mình, người lâu lắm chưa được gặp lại, và, một
khi đã
có chớn, cái "kỹ thuật nhớ" như thế đó, sẽ chẳng thể nào ngưng. Điều
này cũng được làm, đối với một vài tác giả khác, về một hai tư tưởng, ý
nghĩ của
họ, cho tất cả mọi chuyện không thể có cách nào khác để mà sống sót,
ngoài cách
nhớ đó ra.
Dần dà, chúng nẩy nở ở trong bà. Nếu có cái gì thế cho tình yêu, thì đó
là hồi ức.
Và muốn nhớ nhung, hồi ức, là muốn không chia xa, muốn trở thành thân
quen, gần
gũi. Dần dà những dòng thơ của những nhà thơ đó trở thành nỗi niềm, con
người của
bà. Chúng cung cấp cho bà, không chỉ tầm
nhìn, góc viễn, nhưng, quan trọng hơn, chúng trở thành tiêu chuẩn ngôn
ngữ của
bà. Bởi vậy, khi khởi sự viết những cuốn sách trên, là bà muốn đặt -
vào lúc
này, nó trở thành, như linh tính, như trực giác ở trong bà - những câu
kệ của
mình, ở trong thế tương tranh, đối đầu với những câu thơ của họ. Tính
trong
sáng, sự không hề hối hận, ăn năn ở trong những trang sách của bà,
ngoài việc
chúng nói lên tâm hồn của bà, còn là những hiệu quả văn phong tất yếu,
không thể
nào tránh được, của thơ ca, nhờ thơ ca mà có; chính thơ ca đã tạo nên
vóc dáng
tâm hồn bà. Trong cả hai, nội dung và văn phong, những cuốn sách của bà
đúng là
một lời bạt cho một ấn bản, thứ tối cao, tối thượng của ngôn ngữ. Mà
thơ ca, yếu
tính của nó là ngôn ngữ. Với bà, ngôn ngữ, và qua đó, thơ ca, trở thành
máu thịt,
nhờ nhẩm đi nhẩm lại đến thuộc nằm lòng
những dòng thơ của chồng.
Mượn
một câu của
W.H. Auden, thơ ca lớn "xô đẩy" bà vào văn xuôi, [great poetry 'hurt'
her into prose]. Đúng như vậy. Bởi vì gia tài của hai nhà thơ lớn này
chỉ có thể
phát triển và tỉ mỉ, chi li mãi ra, bằng con đường văn xuôi. Với thơ,
họ chỉ có
thể có đệ tử. Và điều này đã xẩy ra. Nói một cách khác, văn xuôi của
Nadehda
Mandelstam là môi trường độc nhất cho ngôn ngữ-chính nó, bởi vì chỉ có
như vậy,
ngôn ngữ mới thoát ra khỏi tình trạng ao tù, trì đọng. Tương tự như
vậy, nó là
môi trường độc nhất khả hữu, cho một cõi tâm linh được hai nhà thơ dựng
lên,
qua cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Do đó, tuy hoàn tất thật là tuyệt vời
hai chức
năng - hồi ký và chỉ dẫn về cuộc đời của
hai nhà thơ - hai cuốn sách còn làm được điều lớn lao sau đây: Chúng
thắp sáng
ý thức dân tộc. Riêng phần này, ít ra, chúng thật đáng được lưu truyền,
sao
chép.
Tuy
nhiên, vẫn
còn chút ngạc nhiên nho nhỏ, rằng sự thắp sáng ý thức quốc gia dân tộc
này, nó
là hậu quả của việc tố cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách của Bà
Mandelstam thực
sự là đã nhắm tới Ngày Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và văn
chương của
nó - một sự phán xét rất ư là chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự
nghiệp
vĩ đại có tên là xây dựng thiên đàng trên trái đất này được khởi công
thực hiện.
Chút ngạc nhiên nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn hồi ức này, đặc biệt là cuốn
thứ
nhì, đã không được ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm Linh.
Giới cầm
quyền, tôi phải nói, họ tỏ ra thành thực [honest] hơn, so với đám trí
thức, ấy
là nói về mặt phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói, việc sở hữu
những cuốn
sách đó là phạm luật. Nhưng về phía đám trí thức, nhất là đám ở Moscow,
họ nhao
nhao lên, như là một cái chợ, trước những lời cáo buộc nhắm vào rất
nhiều thành
viên nổi tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của nó, về chuyện
thậm thụt
với chế độ, và đám người vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà giảm
đi rất
nhiều.
Có
những lá thư
hở, hoặc nửa kín nửa hở, có những quyết định rất ư là tởm lợm, là sẽ
không thèm
bắt tay, có những tình bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu
bà đúng
hay là sai, khi chỉ tay vào kẻ đó, và nói, đây là một tên chỉ điểm. Một
tay ly
khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà đã ỉa lên cả một
thế
hệ chúng ta". Những kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại, và
ngồi
viết phản-hồi ký! Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã bắt
đầu như
vậy, và chừng sáu năm sau đó, cũng đám người đó, đã xào xáo, chia năm
sẻ bẩy,
trước thái độ của Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.
Có
một điều gì
trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy
tinh thần
của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí
Thư Đảng,
hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say
chất vấn một
nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ,
là một
thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về
mặt tinh
thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm
gì. Tuy
nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để
cho nó
đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn
về những
tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực,
mà tới từ
sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ
lậu hơn, đối
với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về
văn hóa
- như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.
còn tiếp
Jennifer Tran chuyển ngữ.