Bài Ai điếu Bà Vợ Góa nhà thơ
Mandelstam của Brodsky, lần đầu ra
mắt độc giả, March 5, 1981:
Tôi [Brodsky]
gặp bà lần
chót vào
bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế
chiều,
và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng
chén dĩa
in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu
thuốc, và
hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run
rẩy
dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái
tóc xám
mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại
của một
đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.
It's the
possession of this prism supplied to her by the best Russian poetry of
the
twentieth century, and not the uniqueness of the size of her grief,
that makes
Nadezhda Mandelstam's statement about her piece of reality
unchallengeable.
It's an abominable fallacy that suffering makes for greater art.
Suffering
blinds deafens, ruins, and often kills. Osip Mandelstam was a great
poet before
the revolution. So was Anna Akhmatova, so was Marina Tsvetaeva. They
would have
become what they became even if none of the historical events that
befell
Russia in this century had taken place: because they were gifted.
Basically, talent doesn't need history.
Would Nadezhda Mandelstam have become what she
became had it not been for the Revolution and all the rest that
followed?
Probably not, for she met her future husband in 1919. But the question
itself
is immaterial; it leads us into the murky domains of the law of
probability and
of historical determinism. After all, she became what she became not
because of
what took place in Russia in this century but rather in spite of it. A
casuist's finger will surely point out that from the point of view of
historical determinism "in spite of is synonymous with
'"because." So much then for historical determinism, if it gets so
mindful
about the semantics of some human "in spite of."
Chính vì sở hữu một lăng kính
như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20
của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng
- khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược
lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có
nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và
thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách
mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn
là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố
lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng
đếch cần lịch sử.
Liệu Nadezhda Mandelstam trở thành như là bà bây giờ, là do Cách Mạng,
và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ không phải như vậy, bởi vì
bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng một câu hỏi như thế, tự
thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những vùng đất mờ ảo,
của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới thuyết
tất định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không
phải bởi vì những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là,
bất chấp những chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn
sẽ vạch ra rằng, theo quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất
chấp" đồng nghĩa với "bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử
thì cũng chỉ có vậy, nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là
con người”, nằm ở trong ngữ nghĩa của từ 'bất chấp'...".
Ai
điếu như thế, chứ có đâu như Xứ Mít! (1)
Tuyển tập tiểu
luận 30 năm của NYRB, GCC mua ngay ngày hôm sau, khi từ Cali trở về,
kịp làm
sao, đúng cái hẹn thử “tai nghe”, hearing, của bịnh viện.
Tại tiệm sách
cũ quen thuộc, Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, kế cái trung tâm tạm trú
đầu tiên,
khi vừa tới Xứ Lạnh từ Trại Tị Nạn.
Cũng là nơi
gặp lại cô bạn, sau bao nhiêu năm trời xa cách.
Hai trở ngại
lớn, hai đại họa đúng hơn, với GCC, lần đi xa dối già này, là tai và
răng. Răng
còn đúng 1 cái. Lũ bạn khốn nạn cười khả ố, nè, có dám hôn em, với chỉ
1 cái răng
không đấy?
(1)
Thanh
Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu
thuốc
và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
Khi
viết những dòng trên, MT đinh ninh VC đã làm thịt TTT!
Y chang những dòng VP viết về nhóm Sáng Tạo trong VHTQ
Còn
đây là ai điếu của TTT, cho bạn mình:
Mai Thảo gửi
tới chúng tôi Đêm Giã Từ Hànội.
Tôi nhận được
một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi, trong đựng xấp bản thảo
đánh máy.
Bút hiệu Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn
dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:
Phượng nhìn
xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề
của truyện đột ngột khác thường. Nó không trích ra từ một tác phẩm khác
đã có.
Nó như tự trên trời rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được
của trời”.
Cái chiều sâu của nó làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc
nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi biết, cho đến lúc bấy giờ
chưa thấy
được dùng trong văn chương Việt Nam. Phải đợi vài năm sau, khi Phạm
Công Thiện
xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và
trở
thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện
thì rõ câu trích đề là một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
*
Đây là một
truyện không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt
đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe – theo
bước di
chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi
chìm
trong giấc kín bưng triền miên của chúng - , ở sự dồn đẩy khôn ngưôi
của chữ
nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới
chốn nhòa tắt
mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã
Từ Hànội là truyện hay tùy bút đều được.
Cứ theo ký ức cùng cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì đó
là một
bài thơ. Thơ là thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng
dội, đòi được
nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một truyện
ngắn, một
bài tùy bút, một quyển tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời
nghe và
gặp lại một câu thơ, một bài thơ.
Đêm Giã Từ
Hà Nội là một bài thơ thỉnh thoảng vẫn vẳng dội trong tôi mà tôi không
thể nhớ
toàn vẹn - tỷ như lúc này đang viết đây tôi không cách nào tìm đọc bài
thơ ấy
trừ cách tưởng tượng dựa vào ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu
trích đề.
*
Nhớ trong buổi
họp kiểm bài vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không thể ngăn
nổi mình
yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn
trong một
kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc say sưa, hùng hồn liên
hồi. Và các
anh chịu khó ngồi nghe trên căn gác lửng tối chật của tòa báo. Anh Tế
kết thúc
buổi họp nói đùa "Anh làm chúng tôi mất cái thú tự mình khám phá".
Năm di cư thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên
xưng nó là
câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa
ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự
nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của
Pushkin."]
Khi từ Phú
Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng
Cỏ, trông
xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của
một ngày
cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm...
dưới
ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ. [Câu văn là một câu
gắn
liền trong mạch văn, tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất
toàn. Câu
thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó
gợi nhắc].
*
Đăng bài
Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa soạn. Mai Thảo đến.
Chúng tôi
thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.
Good Night,
Sweet Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người
An Giấc, Công Tử của Lòng Ta.
Thanh
Tâm Tuyền
2-98
[Lần đầu
đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân
1998]
Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Joseph Brodsky
Gửi DTH.
Jennifer Tran
Trong 81 năm của cuộc đời của
bà, Nadezhda
Mandelstam trải qua 15 năm là vợ nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, và của
thế kỷ
này. Và 42 năm là bà vợ goá của ông. Còn lại là tuổi thơ và những năm
vừa mới
lớn. Trong giới văn, là vợ góa của một nhà thơ lớn là lời giới thiệu
bảnh nhất
về mình. Điều này lại càng đúng, vào những năm 1930 và 1940, chế độ sản
xuất ra
quá nhiều những bà vợ góa của văn thi sĩ, đến nỗi vào giữa thập niên
1960, mấy
bà đủ túc số để tổ chức một công đoàn.
"Nadya là một bà goá phụ may
mắn
nhất", Akhmatova vẫn thường nói. Khi nói như vậy, là bà muốn nhắc
tới sự công nhận rộng rãi, the universal recognition, đối với nhà thơ
Osip
Mandelstam. Và, mặc dù Akhmatova rất có lý khi nói như vậy, thì đây
cũng chỉ là
một cái nhìn từ phía bên ngoài, không tính tới đất nước thần thoại
chiếm tới
1/6 diện tích quả địa cầu, tức Nga xô, chính nó. Vào lúc mà ông chồng
có được
danh tiếng như vậy, Nadezhda đã ở vào tuổi sáu mươi, sức khỏe thật là
mỏng
manh, phía sau bà, là hai thập niên góa bụa, đói khát, thiếu thốn đủ
thứ, Cuộc
Chiến Lớn, và nỗi sợ triền miên, có thể bị Mật Vụ tóm bắt bất cứ lúc
nào, vì là
vợ một kẻ thù của nhân dân.
Chết là cùng chứ gì! Thành thử
tất cả
quãng đời còn lại, chỉ là giải lao, chỉ là hưu nhàn.
Tôi gặp bà lần thứ nhất, đúng
là vào mùa
đông năm 1962, tại thành phố Pskov, nơi mà, cùng với vài người bạn,
chúng tôi
làm một chuyến tham quan những ngôi nhà thờ ở địa phương [những ngôi
giáo đường
đẹp nhất của cả đế quốc, theo tôi]. Nghe nói về chuyến đi, Anna
Akhmatova bèn
gợi ý, nếu có đi thì nên đến thăm Nadezhda Mandestam, lúc đó đang dậy
tiếng Anh
tại trường sư phạm địa phương, và gửi chúng tôi vài cuốn sách để đưa
cho bà. Đó
là lần thứ nhất tôi nghe tới tên bà, Tôi cũng chẳng hề biết, có một
người đàn
bà như thế hiện hữu ở trên cõi đời này.
Bà sống trong một căn hộ gồm
hai phòng.
Người ở phòng thứ nhất, là một bà có tên thật tiếu lâm là Nyetsvetaeva
[Không
phải - Tsvetaeva], phòng thứ nhì, là Bà Mandelstam. Một căn phòng tám
mét
vuông, rộng cũng bằng phòng tắm ở Mỹ. Chiếc giường sắt, loại giường
đôi, chiếm
gần hết căn phòng, hai chiếc ghế mây, một cái rương đựng quần áo có
gương nhỏ,
và một cái bàn ngủ, dùng cho đủ mọi thứ việc, trên đó là vài cái chén
dĩa của
bữa ăn chiếu chưa kịp dọn, bên cạnh mấy chén diã, là cuốn The Hedgedog
and the
Fox, Con Nhím và Con Chồn, của Isaiah Berlin: Sự kiện cuốn sách đang
được mở ra
đọc, nằm chình ình trên bàn không thèm giấu giếm dưới gối, hay xó xỉnh
nào, cho
dù một tiếng gõ cửa bất thình lình, cho thấy, đích thị đây là thời kỳ
bắt đầu
của giai đoạn hưu nhàn, the beginning of respite.
Cuốn sách, hóa ra là của Anna
Akhmatova
gửi cho. Trong gần nửa thế kỷ, nhà thơ là bạn thân nhất của, trước là
của hai
vợ chồng, sau của bà vợ goá. Bản thân nhà thơ, hai lần góa bụa. Người
chồng
đầu, thi sĩ Nikolai Gumilyov, bị đám Cheka - tên đầu tiên, "tên khi còn
là
con gái, the maiden name", của KGB - xử bắn, vào năm 1921 [theo lệnh
trực
tiếp từ Lenin, như nhà thơ Joseph Brodsky cho biết. LND.]; người chồng
thứ nhì,
sử gia về nghệ thuật, Nikolai Punin, chết trong trại tập trung.
Akhmatova đã
giúp bạn mình bằng mọi cách mà bà có thể, và trong những năm chiến
tranh, đã
cứu bà bằng cách đưa lén vào [thành phố] Tashkent, nơi một số nhà văn
đã được
di tản tới đó, và chia phần ăn hàng ngày với bà. Mặc dù cả hai người
chồng đều
bị chế độ sát hại, và người con trai ngắc ngoải 18 năm dài trong trại
tù,
Akhmatova một cách nào đó, lại dễ thở hơn là Nadezhda Mandelstam, không
phải chỉ
riêng vì, bà được nhà nước tuy chẳng thích thú chi, nhưng cũng đành
phải coi bà
là nhà văn, và bởi vì là nhà văn, nên được chế độ cho phép sống tại
Leningrad hay
Moscow. Đối với vợ một tên kẻ thù của nhân dân, làm sao được ưu đãi như
thế?
Trong nhiều thập niên, người
đàn bà này
chỉ có mỗi một việc, là chạy trốn, chui nhũi mãi, trong những ao bùn
phía sau
lưng chế độ, những thị trấn nhỏ của cái đế quốc rộng lớn đó; ngồi chưa
kịp nóng
đít ở nơi này, thì đã vội vàng dọt đi nơi khác, ngay khi vừa ngửi ra
dấu hiệu
của sự nguy hiểm. Cái vị thế "chẳng là ai" [nonperson] này dần dần
trở thành bản chất thứ nhì của bà. Bà là một người đàn bà ốm o, nhỏ
nhắn, và
với những năm tháng như thế, bà càng ngày càng thêm ốm o, nhỏ nhắn, như
cố thu
mình lại, thành nhẹ hẫng, bỏ gọn vào trong túi, cho mỗi lần vội vàng
dọt. Và
cũng như vậy, bà chẳng có cái chi thuộc về bà: không đồ đạc, không nghệ
phẩm, không
thư viện. Sách vở, ngay cả sách ngoại, không ở trong tay bà được lâu:
vừa đọc
xong, hoặc thoáng đọc, là đã chuyển cho người khác - sách thì phải như
thế, đúng
không? Vào những năm dư dả nhất của bà, tức là cuối thập niên sáu mươi
và đầu
bẩy mươi, vật đắt tiền nhất mà bà có được, trong căn hộ một phòng của
bà ở ngoại
ô Moscow, là một chiếc đồng hồ treo tường ở nơi nhà bếp. Một trên trộm,
và lẽ
dĩ nhiên, mấy ông mật vụ, với lệnh xét nhà, có vô đây, thì cũng đành
chưng hửng.
Vào những năm "dư dả" tiếp theo
sau việc xuất bản hai tập hồi ký của bà, ở Tây Phương, căn bếp đó trở
thành một
nơi chốn hành hương thực sự. Gần như đêm nào cũng vậy, cái đám tinh anh
nhất,
mà may mắn sống sót chế độ, mà may mắn lại ló mặt ra với cuộc đời, vào
thời kỳ
hậu-Stalin, họ tụ tập nhau ở đây, quanh chiếc bàn gỗ, mười lần rộng hơn
cái
khung giường ở Pskov. Có vẻ như bao năm tháng vừa qua đã tạo ra hình
ảnh của
bà, như là một kẻ cùng đinh. Tôi hình dung như nhìn thấy bà thật
rõ,
trong căn phòng nhỏ ở Pskov, hay là ngồi ở một góc sô pha, trong căn
phòng của
Akhmatova, tại Leningrad, nơi thỉnh thoảng bà từ Pskov lén lút về, hay
ló ra từ
cuối hành lang căn phòng của Shklovosky tại Moscow, là nơi bà tá túc
trước khi
có một nơi chốn của riêng bà. Tôi nhớ rõ những hình ảnh như vậy, bởi vì
có thể,
ngay ở trong trong bản chất của bà, đã có bóng dáng một kẻ bên lề, một
kẻ chạy
trốn, "một người bạn của những người ăn xin, ăn mày" như Osip
Mandelstam đã từng gọi bà, trong một bài thơ của ông. Và bóng dáng này
ở với bà
cho tới cuối cuộc đời.
Vào tuổi 65, bà viết hai cuốn
hồi ký như
thế quả là một sự ngạc nhiên cho nhiều người. Trong gia đình
Mandelstam, ông
chồng mới đóng vai, và là nhà văn. Không phải bà. Nếu bà có viết lách
lăng
nhăng chi đó, trước khi viết hai tập hồi ký trên, thì cũng chỉ là những
thư từ
cho bè bạn, và những đơn chống án tới Tối Cao Pháp Viện. Bà đâu phải
loại người
tính sống lại đời mình, bằng những trang hồi ký, vào lúc xế chiều. Bởi
vì sống
tới 65 tuổi như bà không phải là một chuyện bình thường. Chẳng phải vô
cớ mà hệ
thống giam cầm của Xô Viết có đoạn chỉ riêng ra rằng, trong một số trại
tù một
năm phục án được tính là ba năm. Do cái mốc này, nhiều người Nga trong
thế kỷ
này hóa ra có tuổi thọ xấp xỉ với những tổ phụ trong kinh thánh - bà
còn có
thêm một điều chung với họ nữa: tận tâm với công lý.
[Đọc tới đây, Jennifer Trần tôi
mới hiểu
ra, tại sao chính quyền Cách Mạng năm đó lại căn dặn mấy tên Ngụy, chỉ
cần mang
theo mười ngày lương thực: ở nơi chốn được gọi là Thiên Thai, một ngày
tính
bằng một năm].
Tuy nhiên, không phải riêng
lòng tận tâm
với công lý này đã khiến bà ngồi xuống ở cái tuổi 65 và dùng quãng thời
gian
hưu nhàn của bà để viết những cuốn sách đó. Điều mang chúng vào đời là
sự ôn
lại - bằng cái cân tỷ lệ của một người - cũng cái tiến trình trước đây
đã có
lần xẩy ra trong lịch sử văn học Nga. Tôi nghĩ đến sự hiện xuất của nền
văn
xuôi Nga vĩ đại vào nửa sau thế kỷ 19. Nền văn xuôi đó, xuất hiện như
thể không
biết từ đâu ra, mà không thể vạch ra được nguyên nhân, thực sự đơn giản
chỉ là
những sợi tơ vương từ guồng quay thơ thế kỷ 19 của Nga. Nó đã đặt định
cho toàn
bộ nền văn viết, bằng tiếng Nga sau đó, và tuyệt tác của truyện Nga có
thể xem
như là một âm hưởng xa xa, và như là sự trau giồi chi ly cái bén nhạy
về tâm lý
và từ vựng, mà thơ Nga đã phô bầy trong 25 năm đầu của thế kỷ ấy. "Hầu
hết
những nhân vật của Dostoevsky," Anna Akhmatova thường nói, "chỉ là
những vai chính trong những tác phẩm của Pushkin, nhưng đã già đi - như
Onegins, v... v...".
Có thơ rồi mới có văn, luôn
luôn là như
vậy, và nó là như thế, hơn một lần, trong đời Nadezhda Mandelstam. Là
một nhà
văn, và nhà thơ, bà là [nguồn] sáng tạo của cả hai nhà thơ mà đời bà
không có
cách chi mà có thể tách rời ra khỏi họ: Osip Mandelstam và Anna
Akhmatova.
Không phải chỉ vì người thứ nhất là chồng và người thứ nhì,
bạn thân cả
đời của bà. Nói gì thì nói, 40 năm đằng đẵng làm góa phụ có thể làm mờ
những kỷ
niệm hạnh phúc nhất (và trong cuộc đời vợ chồng của họ, hạnh phúc này
thật là
thất thường, không phải chỉ riêng là do những đói khát trên toàn xứ sở
do cách
mạng, nội chiến, và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất). Cũng thế, có nhiều
năm, bà
chẳng làm sao gặp được Anna Akhmatova, và một bức thư là điều chót, đối
đế,
đành phải trông vào nó. Thư từ, giấy má, nói chung chung, là chuyện
chết người.
Điều làm cho cuộc hôn nhân, và tình bạn, thêm bền bỉ, hóa ra lại là một
vấn đề
mang tính kỹ thuật: hãy cố mà nhớ, những gì không thể trông cậy
vào tờ
giấy, nghĩa là, hãy cố nhớ, những bài thơ, của cả hai, chồng và bạn.
Làm cái điều vào thời chưa phát minh ra máy in như thế, thời kỳ
tiền-Gutenberg
- chữ của Anna Akhmatov - chắc chắn không phải chỉ có Nadezhda
Mandelstam. Tuy
nhiên, ngày đêm nhẩm đi nhẩm lại hoài lời của người quá cố, không chỉ
để hiểu
biết thêm về chúng, nhưng còn làm sống lại giọng nói của chồng, rất ư
là của
ông, chẳng thể là của ai, và như thế, bóng dáng chồng vẫn như kề cận,
như ngày
nào đã từng thề thốt, "nào nem công chả phượng, nào gừng cay muối
mặn", "for the better or for the worse - và cái phần gừng cay muối
mặn đó, mới đớn đau, mới đáng nhớ làm sao.
Cũng vậy, là thơ của bạn mình, người lâu lắm chưa được gặp lại, và, một
khi đã
có chớn, cái "kỹ thuật nhớ" như thế đó, sẽ chẳng thể nào ngưng. Điều
này cũng được làm, đối với một vài tác giả khác, về một hai tư tưởng, ý
nghĩ
của họ, cho tất cả mọi chuyện không thể có cách nào khác để mà sống
sót, ngoài
cách nhớ đó ra.
Dần dà, chúng nẩy nở ở trong bà. Nếu có cái gì thế cho tình yêu, thì đó
là hồi
ức. Và muốn nhớ nhung, hồi ức, là muốn không chia xa, muốn trở thành
thân quen,
gần gũi. Dần dà những dòng thơ của những nhà thơ đó trở thành nỗi niềm,
con
người của bà. Chúng cung cấp cho bà, không chỉ tầm nhìn, góc
viễn, nhưng,
quan trọng hơn, chúng trở thành tiêu chuẩn ngôn ngữ của bà. Bởi vậy,
khi khởi
sự viết những cuốn sách trên, là bà muốn đặt - vào lúc này, nó trở
thành, như
linh tính, như trực giác ở trong bà - những câu kệ của mình, ở trong
thế tương
tranh, đối đầu với những câu thơ của họ. Tính trong sáng, sự không hề
hối hận,
ăn năn ở trong những trang sách của bà, ngoài việc chúng nói lên tâm
hồn của
bà, còn là những hiệu quả văn phong tất yếu, không thể nào tránh được,
của thơ
ca, nhờ thơ ca mà có; chính thơ ca đã tạo nên vóc dáng tâm hồn bà.
Trong cả
hai, nội dung và văn phong, những cuốn sách của bà đúng là một lời bạt
cho một
ấn bản, thứ tối cao, tối thượng của ngôn ngữ. Mà thơ ca, yếu tính của
nó là
ngôn ngữ. Với bà, ngôn ngữ, và qua đó, thơ ca, trở thành máu thịt, nhờ
nhẩm đi
nhẩm lại đến thuộc nằm lòng những dòng thơ của chồng.
Mượn một câu của W.H. Auden,
thơ ca lớn
"xô đẩy" bà vào văn xuôi, [great poetry 'hurt' her into prose]. Đúng
như vậy. Bởi vì gia tài của hai nhà thơ lớn này chỉ có thể phát triển
và tỉ mỉ,
chi li mãi ra, bằng con đường văn xuôi. Với thơ, họ chỉ có thể có đệ
tử. Và
điều này đã xẩy ra. Nói một cách khác, văn xuôi của Nadehda Mandelstam
là môi
trường độc nhất cho ngôn ngữ-chính nó, bởi vì chỉ có như vậy, ngôn ngữ
mới
thoát ra khỏi tình trạng ao tù, trì đọng. Tương tự như vậy, nó là môi
trường
độc nhất khả hữu, cho một cõi tâm linh được hai nhà thơ dựng lên, qua
cách sử
dụng ngôn ngữ của họ. Do đó, tuy hoàn tất thật là tuyệt vời hai chức
năng - hồi
ký và chỉ dẫn về cuộc đời của hai nhà thơ - hai cuốn sách còn làm
được
điều lớn lao sau đây: Chúng thắp sáng ý thức dân tộc. Riêng phần này,
ít ra,
chúng thật đáng được lưu truyền, sao chép.
Tuy nhiên, vẫn còn chút ngạc
nhiên nho
nhỏ, rằng sự thắp sáng ý thức quốc gia dân tộc này, nó là hậu quả của
việc tố
cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách của Bà Mandelstam thực sự là đã
nhắm tới
Ngày Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và văn chương của nó - một
sự phán
xét rất ư là chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự nghiệp vĩ đại có
tên là
xây dựng thiên đàng trên trái đất này được khởi công thực hiện. Chút
ngạc nhiên
nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn hồi ức này, đặc biệt là cuốn thứ nhì, đã
không được
ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm Linh. Giới cầm quyền, tôi
phải
nói, họ tỏ ra thành thực [honest] hơn, so với đám trí thức, ấy là nói
về mặt
phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói, việc sở hữu những cuốn
sách đó là
phạm luật. Nhưng về phía đám trí thức, nhất là đám ở Moscow, họ nhao
nhao lên,
như là một cái chợ, trước những lời cáo buộc nhắm vào rất nhiều thành
viên nổi
tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của nó, về chuyện thậm
thụt với
chế độ, và đám người vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà giảm đi
rất
nhiều.
Có những lá thư hở, hoặc nửa
kín nửa hở,
có những quyết định rất ư là tởm lợm, là sẽ không thèm bắt tay, có
những tình
bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu bà đúng hay là sai,
khi chỉ
tay vào kẻ đó, và nói, đây là một tên chỉ điểm. Một tay ly khai nổi
tiếng vừa
tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta".
Những kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại, và ngồi viết
phản-hồi ký!
Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã bắt đầu như vậy, và
chừng sáu
năm sau đó, cũng đám người đó, đã xào xáo, chia năm sẻ bẩy, trước thái
độ của
Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.
Có một điều gì trong ý thức của
văn giới,
nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào
đó. Họ tự
nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh
Tụ, như
trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên
tri. Điều
này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin
ít làm
ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói
cho
cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy
nhiên, nhà
tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó
đứng thẳng
chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những
tuyên xưng
và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ
sự đắc
chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn,
đối với
giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn
hóa -
như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.
Tôi muốn tản mạn thêm một chút,
ở đây.
Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của
chúng ta
đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có
đẳng cấp
trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi
nhất, lọc
lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm
tính, ở
đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc
nhất
cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là
ngôn ngữ.
Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế - có được
lăng
kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác
nhất, và
có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có
những
tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần,
bởi vì, do
định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng
những
nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng,
coi cá
mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn).
Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền
thi ca
số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy
nhất mà bà
đã chịu đựng - khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không
thể nói
ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ
mới có
nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và
thường
khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng.
Cũng vậy,
là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần
đến cái
cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu
dân
Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử.
Liệu Nadezhda Mandelstam trở
thành như là
bà bây giờ, là do Cách Mạng, và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ
không
phải như vậy, bởi vì bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng
một câu
hỏi như thế, tự thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những
vùng đất
mờ ảo, của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới
thuyết tất
định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không phải
bởi vì
những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là, bất chấp
những
chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn sẽ vạch ra rằng,
theo
quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất chấp" đồng nghĩa với
"bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử thì cũng chỉ có vậy,
nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là con người”, nằm ở
trong ngữ
nghĩa của từ 'bất chấp'... ".
Gì thì gì, thì đây cũng là một điều tốt lành. Bởi vì, một người đàn bà
mảnh
mai, yếu đuối đã làm chậm - nếu không muốn nói, về mặt đường dài - đã
ngăn
chặn, cơn băng hoại văn hóa của cả một dân tộc. Những hồi ức của bà là
một cái
gì còn hơn cả một chứng tích, về thời của bà. Chúng là một cái nhìn
lịch sử
dưới ánh sáng của lương tâm và văn hoá. Dưới ánh sáng đó, lịch sử nhăn
nhó, và
cá nhân thực hiện sự chọn lựa của mình: Hoặc là, bỏ công tìm kiếm coi
ánh sáng
tới từ đâu, hoặc là, phạm một tội liên quan tới gốc rễ con người, đối
với chính
anh ta/chị ta.
Bà đâu có muốn lớn lao, cao cả như vậy, ngay cả chuyện giản dị, là muốn
ngang
hàng với chế độ, cũng không. Với bà, đây là một chuyện riêng, nó liên
quan tới
tính tình, phong cách rất đỗi tư riêng của bà, và điều tạo nên phong
cách đó.
Và như chúng ta đã biết đấy, một vóc dáng cá nhân như thế, là đã được
văn hóa
và những sản phẩm tối hảo của nó, tạo nên: những bài thơ của chồng bà.
Chính
chúng, chứ không phải hồi ức về chồng, là điều mà bà cố gắng giữ
sao cho
sống hoài, không thể bị mai một. Chính là vì những bài thơ, chứ không
vì ông
chồng, mà trong vòng 42 năm trời đằng đẵng, bà trở thành một góa phụ.
Lẽ dĩ
nhiên, bà yêu chồng, nhưng tình yêu, tự thân nó, là một trong những
tinh hoa,
tài tình, "phong hoa nhất mực", của những đam mê trọn kiếp. Và tình
yêu, nó chỉ có thể có được bản chất phong hoa nhất mực, có được những
giấc mơ
bay bổng, những viễn ảnh tuyệt vời, là từ nội dung văn hoá, bởi vì nó
cần nhiều
không gian ở trong đầu, trong tâm hồn, chứ không phải thứ không gian ở
trên, và
ở xung quanh một cái giường. Ra ngoài không gian đó, nó rớt liền vào
không gian
giả tưởng một chiều. Bà là goá phụ, đối với văn hóa, và tôi nghĩ, bà
yêu chồng
nhiều ở những ngày hôm sau, hơn ngày đầu họ lấy nhau. Có lẽ chính vì
vậy mà độc
giả nhận thấy những cuốn sách của bà thật gây ám ảnh. Bởi vì điều
trên
đây, và còn bởi, cái gọi là thân phận của thế giới hiện đại trực diện
với văn
minh cũng được coi như là một thân phận ở góa [widowhood].
Nếu bà thiếu điều chi, thì đó là sự khiêm nhường. Về điều này, bà không
như hai
nhà thơ lớn của bà. Nhưng, họ có nghệ thuật của họ. Và thành tựu thơ
ca, thứ
thượng hảo, khiến họ khiêm tốn, hoặc làm ra vẻ như vậy. Bà thì rất ư là
cổ hủ,
cố chấp, câu nệ, khó chịu, thích làm theo ý mình; tư tưởng hoặc chưa
chín chắn,
hoặc phát triển theo kiểu "nghe người ta nói như vậy". Nói ngắn gọn,
có rất nhiều cái gọi là sự thủ đắc ở nơi bà, thành thử người ta không
ngạc
nhiên, về chuyện bà ứng phó với những gì xẩy ra trong thực tế cũng như
trong
tưởng tượng. Sau cùng sự khó chịu của bà khiến nhiều người phải tránh
né, nhưng
phải như vậy thôi, bởi vì bà quá chán sự tâng bốc, quá chán được yêu
mến bởi
Robert McNamara, hay Willy Fisher [tên thực của Đại tá Rudolf Abel].
Tất cả
những gì bà muốn, là được chết ở trên chiếc giưòng của bà, và một cách
nào đó,
bà trông chờ điều này, bởi vì, "ở trên ấy, tôi lại gặp Osip của tôi".
"Không đâu, tôi đi trước bạn, lên trên ấy, và sẽ gặp Osip trước bạn",
Akhmatova trả lời.
Ước muốn của bà sau đã trở thành hiện thực, và bà chết ở trên chiếc
giường của
bà. Với một người Nga thuộc thế hệ của bà, đây không phải là chuyện nhỏ
nhặt:
được chết ở trên chiếc giường của mình. Sẽ có những người than thở,
rằng bà
hiểu lầm thời của bà, rằng bà tụt hậu, không bắt kịp con tầu lịch
sử chạy
về tương lai. Ôi chao, có thể nói, như mọi người đàn bà Nga khác thuộc
thế hệ
của bà, bà biết quá rõ một điều là, con tầu chạy về tương lai đó ngưng
ở trại
tập trung hay tại phòng hơi ngạt. Bà may mắn đã hụt chuyến tầu, và
chúng ta may
mắn, vì bà bảo chúng ta biết lộ trình của nó. Tôi [Brodsky] gặp bà lần
chót vào
bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế
chiều,
và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng
chén dĩa
in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu
thuốc, và
hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run
rẩy
dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái
tóc xám
mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại
của một
đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.
1981
Joseph Brodsky
Jennifer Tran chuyển ngữ.