*
 


I
II

 

Ai Điếu Nadezhda Mandestam [1899-1980]
Joseph Brodsky
III

Tôi muốn tản mạn thêm một chút, ở đây. Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh. Lọc lõi, và cảm tính, ở đâu mà ra, nếu không là từ văn hoá, văn minh, vốn là nguồn cung cấp độc nhất cho một lăng kính như thế? Và dụng cụ chính của văn hoá, văn minh là ngôn ngữ. Đánh giá, thẩm định thực tại qua một lăng kính như thế  - có được lăng kính này, là một mục tiêu của sinh vật – nhờ vậy mà trở nên chân xác nhất, và có lẽ, chính đáng nhất [“Không công bằng!”, và Trọng tinh hoa”, sẽ có những tiếng la thét từ mọi nơi, sau một khẳng định như vậy, nhưng đâu cần, bởi vì, do định nghĩa, “trọng tinh hoa” là tính chất của văn hóa, và việc áp dụng những nguyên lý dân chủ vào môi trường tri thức sẽ dẫn tới sự kiện cào bằng, coi cá mè một lứa, giữa khôn ngoan và dốt nát, giữa minh triết và đần độn). 

Chính vì sở hữu một lăng kính như thế – nó đã được trao cho bà, bởi nền thi ca số một của thế kỷ 20 của Nga, chứ không phải do tầm vóc nỗi đau duy nhất mà bà đã chịu đựng -  khiến cho khẳng định của bà về thực tại, là không thể nói ngược lại được.Thật là một giả tưởng quái đản, khi cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn. Đau khổ làm cho người ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng. Cũng vậy, là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần đến cái cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu dân Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm. Cơ bản mà nói, tài năng đếch cần lịch sử. 

Liệu Nadezhda Mandelstam trở thành như là bà bây giờ, là do Cách Mạng, và tất cả những gì tiếp theo sau nó? Có lẽ không phải như vậy, bởi vì bà gặp người chồng của mình vào năm 1910. Nhưng một câu hỏi như thế, tự thân nó, là không thích hợp; nó dẫn chúng ta tới những vùng đất mờ ảo, của trò xác xuất - rằng chuyện như thế có thể xẩy ra - và tới thuyết tất định về lịch sử. Nói cho cùng, bà trở thành như bà ngày nay, không phải bởi vì những gì đã xẩy ra ở Nga, trong thế kỷ này, mà đúng ra là, bất chấp những chuyện đó. Ngón tay trỏ của một tên ngụy biện chắc hẳn sẽ vạch ra rằng, theo quan điểm của thuyết tất định lịch sử, thì "bất chấp" đồng nghĩa với "bởi vì". Rút cục ra, tất định thuyết về lịch sử thì cũng chỉ có vậy, nhưng ví bằng, nó quan tâm một tí, tới “cái gọi là con người”, nằm ở trong ngữ nghĩa của từ 'bất chấp'... ". 

Gì thì gì, thì đây cũng là một điều tốt lành. Bởi vì, một người đàn bà mảnh mai, yếu đuối đã làm chậm - nếu không muốn nói, về mặt đường dài - đã ngăn chặn, cơn băng hoại văn hóa của cả một dân tộc. Những hồi ức của bà là một cái gì còn hơn cả một chứng tích, về thời của bà. Chúng là một cái nhìn lịch sử dưới ánh sáng của lương tâm và văn hoá. Dưới ánh sáng đó, lịch sử nhăn nhó, và cá nhân thực hiện sự chọn lựa của mình: Hoặc là, bỏ công tìm kiếm coi ánh sáng tới từ đâu, hoặc là, phạm một tội liên quan tới gốc rễ con người, đối với chính anh ta.

Bà đâu có muốn lớn lao, cao cả như vậy, ngay cả chuyện giản dị, là muốn ngang hàng với chế độ, cũng không. Với bà, đây là một chuyện riêng, nó liên quan tới tính tình, phong cách rất đỗi tư riêng của bà, và điều tạo nên phong cách đó. Và như chúng ta đã biết đấy, một vóc dáng cá nhân như thế, là đã được văn hóa và những sản phẩm tối hảo của nó, tạo nên: những bài thơ của chồng bà. Chính chúng, chứ  không phải hồi ức về chồng, là điều mà bà cố gắng giữ sao cho sống hoài, không thể bị mai một. Chính là vì những bài thơ, chứ không vì ông chồng, mà trong vòng 42 năm trời đằng đẵng, bà trở thành một góa phụ. Lẽ dĩ nhiên, bà yêu chồng, nhưng tình yêu, tự thân nó, là một trong những tinh hoa, tài tình, "phong hoa nhất mực", của những đam mê trọn kiếp. Và tình yêu, nó chỉ có thể có được bản chất phong hoa nhất mực, có được những giấc mơ bay bổng, những viễn ảnh tuyệt vời, là từ nội dung văn hoá, bởi vì nó cần nhiều không gian ở trong đầu, trong tâm hồn, chứ không phải thứ không gian ở trên, và ở xung quanh một cái giường. Ra ngoài không gian đó, nó rớt liền vào không gian giả tưởng một chiều. Bà là goá phụ, đối với văn hóa, và tôi nghĩ, bà yêu chồng nhiều ở những ngày hôm sau, hơn ngày đầu họ lấy nhau. Có lẽ chính vì vậy mà độc giả  nhận thấy những cuốn sách của bà thật gây ám ảnh. Bởi vì điều trên đây, và còn bởi, cái gọi là thân phận của thế giới hiện đại trực diện với văn minh cũng được coi như là một thân phận ở góa [widowhood].

Nếu bà thiếu điều chi, thì đó là sự khiêm nhường. Về điều này, bà không như hai nhà thơ lớn của bà. Nhưng, họ có nghệ thuật của họ. Và thành tựu thơ ca, thứ thượng hảo, khiến họ khiêm tốn, hoặc làm ra vẻ như vậy. Bà thì rất ư là cổ hủ, cố chấp, câu nệ, khó chịu, thích làm theo ý mình; tư tưởng hoặc chưa chín chắn, hoặc phát triển theo kiểu "nghe người ta nói như vậy". Nói ngắn gọn, có rất nhiều cái gọi là sự thủ đắc ở nơi bà, thành thử người ta không ngạc nhiên, về chuyện bà ứng phó với những gì xẩy ra trong thực tế cũng như trong tưởng tượng. Sau cùng sự khó chịu của bà khiến nhiều người phải tránh né, nhưng phải như vậy thôi, bởi vì bà quá chán sự tâng bốc, quá chán được yêu mến bởi Robert McNamara, hay Willy Fisher [tên thực của Đại tá Rudolf Abel]. Tất cả những gì bà muốn, là được chết ở trên chiếc giưòng của bà, và một cách nào đó, bà trông chờ điều này, bởi vì, "ở trên ấy, tôi lại gặp Osip của tôi". "Không đâu, tôi đi trước bạn, lên trên ấy, và sẽ gặp Osip trước bạn", Akhmatova trả lời.

Ước muốn của bà sau đã trở thành hiện thực, và bà chết ở trên chiếc giường của bà. Với một người Nga thuộc thế hệ của bà, đây không phải là chuyện nhỏ nhặt: được chết ở trên chiếc giường của mình. Sẽ có những người than thở, rằng bà hiểu lầm thời của bà, rằng bà tụt hậu, không bắt kịp con tầu lịch sử  chạy về tương lai. Ôi chao, có thể nói, như mọi người đàn bà Nga khác thuộc thế hệ của bà, bà biết quá rõ một điều là, con tầu chạy về tương lai đó ngưng ở trại tập trung hay tại phòng hơi ngạt. Bà may mắn đã hụt chuyến tầu, và chúng ta may mắn, vì bà bảo chúng ta biết lộ trình của nó. Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.

1981
Joseph Brodsky

Jennifer Tran chuyển ngữ.