VŨ BẰNG - Đi
sâu vào tâm sự Vũ Hoàng Chương
(09/14/2011
05:55 PM)
Vũ Hoàng
Chương và tôi là bạn với nhau từ thuở nhỏ. Cùng sinh trưởng một nơi
(làng Phù Ủng,
Hưng Yên), cùng học một trường, đến lúc ra đời lại cùng làm nghề văn
bút một thời,
chúng tôi lúc nào cũng e là nói đến nhau sẽ không được chiết trung.
Vì thế bài
này không phải để khen hay chê Vũ Hoàng Chương. Khen thì các nhà văn,
nhà báo
trong nước và ngoại quốc (trong đó có hai cuốn UN DEMI SIECLE DE POÉSIE
và
INTRODUCTION À LA LITÉRATURE VIETNAMIENNE) nói tới rồi, mà chê lúc nào
nước ta
cũng sẵn sàng có những tay ngự sử trẻ tuổi điểm thơ văn của Chương một
cách gắt
gao, lẫm liệt, không kỳ thị.
Để góp phần
vào số báo đặc biệt này, tôi gặp Vũ Hoàng Chương nói chuyện với tư cách
bạn lâu
ngày mới gặp nhau. Độc giả muốn liệt bài này vào loại gì cũng được,
nhưng nếu
cho là phỏng vấn thì tôi thiết nghĩ đây là một bài phỏng vấn tâm tình
(interview sentimentale) chớ không phải là một bài phỏng vấn quảng cáo
(interview publicitaire).
Tôi vừa ngồi
xuống ghế thì Chương ngạc nhiên nheo mắt lại:
Chương. – Ồ,
sao mà anh khác hẳn đi! Trước “đàng ấy” mặt tròn, sao bây giờ lại dài?
Tôi. – Chúng
ta ai chẳng thay đổi. Ngày tháng, bịnh tật, chiến tranh… bao nhiêu thứ
tàn phá
và làm mòn mỏi chúng ta.
Chương. – Chết,
thế tôi cũng thay đổi rồi ư? Ờ phải đấy nhỉ, ngót sáu mươi rồi… Năm nay
tôi năm
mươi nhăm, thế mà mình quên đi mất cứ tưởng là còn trẻ. Thôi chẳng nói
đến giàvới
trẻ làm gì. Có khá không?
Tôi. – Anh cứ
nhìn anh, xem có thấy khá không thì biết tôi ra thế nào. Chúng ta cùng
thuộc một
giai cấp: anh là con nhà giàu ở Bến Thóc Nam Định, nhà rộng ngót tám
trăm thước
vuông, gạo chất như núi, lên học trường Albert Sarraut Hà Nội, tưởng cả
đời ăn
không hết của. Vì chiến tranh, chạy ra bưng hết sạch, đến lúc về Hà
Nội, lần thứ
nhất trong đời anh phải nghĩ đến chuyện làm ăn sinh sống. Tôi tự phụ
hiểu nỗi
buồn của anh hơn ai hết. Nhưng tôi hỏi thực, trong thâm tâm anh có lúc
nào buồn
không?
Chương. - Có
chứ. Buồn vô cùng về cái chiến tranh này. Nếu không thì đâu cái thân
mình phải
ra thế này: lo từ cái rất nhỏ lo đi, tính từ cái rất ti tiểu mà tính
lại. Bây
giờ mỗi ngày phải dạy học ba tiếng đồng hồ để sinh sống. Nói thế thôi,
chớ sinh
sống cái nỡm gì?
Tôi. – Nhà
thơ vẫn dạy toán phải không?
Chương. – Tản
cư ở Bắc Việt một năm, hết tiền tôi bắt đầu dạy toán ở Thái Bình trong
khi Đinh
Hùng dạy Quốc văn và Pháp văn. Năm 1949, Mao Trạch Đông thành công ở
lục địa. Bảo
Đại và Bollaert ký một hiệp định ở vịnh Hạ Long, theo đó thì Pháp chịu
trả độc
lập cho nước Việt Nam. Thay vì trở về quê hương bản quán ở Nam Định,
tôi lên Hà
Nội. Nhà cửa ở Nam Định bị tàn phá, tôi phải tiếp tục dạy học – và vẫn
dạy toán
lý hóa – một thời gian rồi dạy Quốc văn cho trường Văn Lang của anh Ngô
Duy Cầu.
Hiện giờ, tôi chỉ còn dạy mười sáu giờ một tuần, buổi chiều tôi nghỉ.
Tiền thù
lao chẳng đi đến đâu hết, so với lúc trước tôi dạy bốn mươi tám tiếng
mỗi tuần,
nhưng mình cũng chẳng có cách gì làm khác được, vì mỗi tuổi mỗi yếu,
dạy cả
sáng cả chiều không có cách gì chịu nổi.
Lúc nãy anh
có nói “ở bưng về, lần thứ nhất trong đời tôi phải nghĩ đến chuyện làm
ăn”. Thực
ra, không đúng. Trước khi tản cư, tôi có làm phụ tá kiểm soát viên tập
sự
(contrôleur adjoint à l’essai) cho công ty xe lửa Đông Dương. Theo lệ
thì sau
hai năm, người phụ tá được làm kiểm soát viên chính thức; nhưng được
tin đậu
chính thức rồi, tôi xin thôi việc.
Tôi. – Vì cớ
gì?
Chương. – Tại
vì tôi nhận làm contrôleur adjoint để có dịp đi “giang hồ vặt”. Tôi
không muốn
làm một nhân viên chính thức. Những cuộc xê dịch trong hai năm tập sự
này ảnh
hưởng rất nhiều đến nhãn quan và tâm tính tôi. Nhiều bài thơ “say” như
Phương
xa, Con tầu say… được tạo nên trong lúc này.
Tôi sống
hoàn toàn theo ý thích của tôi vì lúc đó tôi không phải lo nghĩ gì về
tiền
nong. Ông thân tôi làm tri huyện nghèo, nhưng mẹ tôi buôn thóc gạo lúc
nào cũng
có đồng ra đồng vào nên mình chỉ ngao du ngày tháng, viết văn, làm thơ
và hưởng
lạc. Năm 1941, ông thân tôi mất. Năm 1946, Việt - Pháp đánh nhau, bà
thân tôi,
tôi và vợ tôi vào Nam. Và cũng từ đấy tôi phải trực tiếp lo cho sự sống
của gia
đình, thêm một con trai nhỏ là Vũ Hoàng Tuân (tôi đặt tên ấy vì tôi nhớ
Nguyễn
Tuân). Sao mà lại không buồn, hở anh? Mình đâu có phải là thứ người lý
tưởng
trong thơ “If” của Rudyard Kipling (1) “nếu anh trông thấy cơ nghiệp
tan tành,
nếu anh thấy lâu đài mộng đẹp đổ vỡ…” cho nên mình không thể phớt tỉnh
được,
mình cứ phải băn khoăn. Băn khoăn cho số kiếp mình rút lại chẳng làm
tròn gì hết:
không tròn bổn phận làm con, làm bố, làm chồng, làm dân, mà ngay đến
cái nghiệp
của mình theo là nghiệp văn bút cũng không ra gì.
Tôi. - Tính
ra thì anh theo đuổi nghiệp thơ văn được bao nhiêu lâu rồi?
Chương. – Từ
lúc mười sáu tuổi, lúc đó tôi còn đi học ở trường Saint Pierre. Bài thơ
đầu
tiên của tôi đăng trên tờ Ngọ Báo của Bùi Xuân Học mang tên Dòng suối.
Tôi. – Có
nhiều người quả quyết với tôi rằng anh không có bút hiệu. Tôi không tin
như thế.
Nhân bây giờ chúng ta trò chuyện với nhau, anh có thể cho tôi biết thực
hư
không? Kẻo không về sau này, anh có “tịch” đi rồi thì không ai dựa vào
đâu mà
biết.
Chương. –
Anh có nói, tôi mới nhớ. Tôi vẫn ký là Vũ Hoàng Chương, nhưng vì anh
hỏi, tôi
nhớ ra rồi: dưới những bài thơ đầu của tôi, tôi có ký bút hiệu là HC,
Hiển Chi.
Đó là bút hiệu ông thân tôi đặt cho tôi: Chương là văn chương, Chương
là vẻ
sáng, Hiển Chi là vẻ sáng tỏ rõ với đời.
Sau đó, viết
thơ trong thời loạn (1950, lúc ở hậu phương cũng như khi trở về Hà Nội)
tôi ký
là Loạn trung bút. Dưới những bài thơ ngâm vịnh, tôi ký là Phù Giang
(người
làng Phù Ủng, quê ông Phạm Ngũ Lão).
Bài thơ
tràng thiên mà tôi bắc ghế lên trên bàn, đứng ngâm trên gác nhà hàng
Anh Mỹ –
anh có nói tới trong cuốn Bốn mươi năm nói láo – đã trước tác lúc tôi
ký bút hiệu
Loạn trung bút. Tôi nhớ hôm ấy là ngày 2 tháng 9 dương lịch. Chúng ta
chờ đạo
quân Việt Nam ở Lạng Sơn kéo về. Anh em uống rượu vui nhộn với nhau
trong khi một
rừng cờ bay phấp phới ở tám cửa ô Hà Nội.
Tôi. – Bài
thơ anh ngâm lúc ấy có đăng tải đâu không?
Chương. –
Không. Tôi còn nhớ mấy câu, xin đọc anh nghe:
Hai cuộc
tang thương tủi đọa đầy,
Núi sông còn
có buổi hôm nay.
Kinh kỳ tám
mặt reo đoàn kết,
Sóng đỏ gầm
quanh ngọn bút này!
Tôi. – Từ đó
đến nay, anh em ít gặp nhau. Vào đây, tôi nhớ chỉ có một lần ngồi nói
chuyện với
anh ở vườn hoa Tao Đàn. Hai thằng cùng buồn, vào ngồi ở Tao Đàn một
mình tình cờ
gặp nhau. Sau đó lại cách nhau biền biệt. Anh có thể cho biết vào đây
anh xuất
bản thêm được mấy tập thơ nữa?
Chương. –
Năm 1954, in tập Rừng phong – sự thực, tập này viết xong từ 1942. Năm
1962, in
Trời một phương, cuốn này viết xong từ năm 1952. Gần đây, hồi năm ngoái
(1968),
một nhà xuất bản ở đây in tập Cành mai trắng mộng, in kiểu bình dân,
bán ba, bốn
chục đồng một cuốn.
Tôi. – Rút lại,
thơ anh có biến đổi với thời cuộc hay không?
Chương. – Có
chứ: tư tưởng biến đổi, thơ cũng đổi thay theo thời cuộc. Thoạt đầu,
thơ tôi chỉ
là thơ thương nhớ, đượm chút tình yêu, nghiêng về lục bát, song thất
lục bát.
Thơ và văn Tương Phố ảnh hưởng tới tôi trong thời gian này.
Từ 1936, tôi
bắt đầu chuyển hướng. Trong thời gian này có mười thi tập ra đời, kịch
thơ gồm
bảy cuốn… Hầu hết là thơ mới.
Tôi. – Trong
mười thi tập, anh thích riêng tập nào?
Chương. –
Thích tập Mây, còn kịch thơ thì thích Vân Muội. Trong thời kỳ này,
Baudelaire (1)
ảnh hưởng đến tôi, nhưng dù sao cũng không sâu xa bằng Mallarmé (2),
Baudelaire, ảnh hưởng đến Đinh Hùng. Là vì thế này: tôi học chữ Nho từ
năm tuổi,
thơ phú chữ Nho ảnh hưởng rất mạnh đến đầu óc tôi. Đến mười hai tuổi,
tôi mới học
chữ Pháp cho nên văn chương, văn hóa Pháp chỉ ảnh hưởng hời hợt ở trên,
chớ
không sâu xa như chữ Nho. Hiện giờ, tôi vẫn đọc và viết chữ Nho và tinh
thần tiết
ra trong những vần thơ vẫn bàng bạc triết học Đông phương nhiều hơn là
Tây
phương.
Tôi. – Tôi
có một nhận xét, không biết đúng hay sai, nhưng anh em với nhau, cứ nói
thực.
Tôi thấy anh ưa nói về mây. Tập thơ mà anh thích là Mây. Kịch thơ anh
ưa là Vân
Muội. Mây có sức mạnh gì ám ảnh anh như thế?
Chương. – Hỏi
vớ vẩn quá. Đấy là chuyện riêng. Nhưng thôi, cánh mình đã nói thật với
nhau thì
phải nói cho hết câu nói thật. Đúng là tôi hay nói về mây. Là vì mây là
cả một
tâm sự của tôi.
Tôi. - Hình
như tôi cũng hơi biết về tâm sự ấy, nhưng chưa biết kỹ. Hôm nay, nhân
trời mưa
gió cầm chân khách ngồi đây, anh có thể nói cho tôi biết điều gì kỹ hơn
về
“mây” không?
Chương. –
(cười, cúi đầu xuống suy nghĩ một giây). Mây ấy tên là Tố Vân.
Tôi. – Đúng
rồi. Đọc thơ anh, có nhiều bài tôi vẫn thấy anh viết: “Tố của Hoàng ơi,
Tố của
anh”, “Tố của Hoàng, nay Tố của Ai”. Có phải Tố đây là Tố Vân không!
Chương. –
Đúng. Tố Vân. Tố Vân, Tố Vân, tự là Kiều Thu.
Tôi. – Phần
nhiều các thi nhân, văn sĩ vẫn có một đối tượng để thương yêu. Đối
tượng ấy là
nhân loại thu hẹp lại. Tôi không lạ. Nhưng tôi tò mò muốn biết đối
tượng thương
yêu của anh là người thế nào? Nỗi vui buồn của cuộc tình duyên ấy ra
sao?
Chương. –
Tôi biết Tố Vân từ lúc nàng còn đi học ở trường Hàng Cót (Brieux). Nàng
là con
gái một nhà khá giả, đậu bằng Cơ thủy, hỏng Tú tài phần nhất. Tình yêu
giữa Tố
Vân và tôi có ghi trong thơ Mười hai tháng sáu in trong cuốn Mây.
Tôi. – Đọc
nhan đề thơ, tôi không hay 12 tháng 6 là gì. Anh có thể cho tôi biết rõ
hơn
không?
Chương. – Mười
hai tháng Sáu âm lịch năm Tân Tỵ (tức là 1941 dương lịch) là ngày Tố
Vân lấy chồng.
Nói theo Vũ Trọng Phụng, đó là “bởi không duyên kiếp”. Tố Vân lấy
chồng. Bài
thơ đầu “khóc” nàng như sau:
Trăng của
nhà ai, trăng một phương,
Nơi đây rượu
đắng, mưa đêm trường;
Ở đêm tháng
sáu, mười hai nhỉ,
Tố của Hoàng
ơi, hỡi nhớ thương.
Là thế, là
thôi, là thế đó,
Một năm thôi
thế mộng tan tành.
Mười năm
trăng cũ ai nguyền ước,
Tố của Hoàng
ơi, Tố của Anh.
Men khói đêm
nay sầu dựng mộ,
Bia đề tháng
sáu ghi mười hai,
Tình ta ta
tiếc, cuồng ta khóc,
Tố của
Hoàng, nay Tố của Ai?
…
Năm Nhâm Ngọ
(1942) tôi lại viết một bài thơ khác, Bài ca hoài Tố, in trong tập Rừng Phong đến 1954 mới xuất bản:
Tuổi thiêng
rung cánh thiên thần,
Ôi thôi! Còn
chi? Em là ai?
Giọt lệ chiều
nay đẫm máu,
Gọi hồn em
ngày – chưa – tháng – sáu – mười – hai.
Ta đã mất em
rồi Kiều Thu ngày xưa,
Hào quang đã
phai rồi, tóc mun dòng thơ
Đã hết tìm
em dù chỉ tìm trong mơ
Thuở trước
tinh anh, mà thể phách bây giờ.
…
Mười năm rụng
ước phai thề
Ôi hoa đầu
tiên, mộng đầu tiên,
Lòng ấy sông
bồi núi lở,
Tháng sáu,
mười hai rồi, em nhớ hay quên?
Hình ảnh của
Tố Vân đầy rẫy trong thơ tôi. Mười năm sau, tôi vẫn còn nhớ người em
gái kiều
diễm ấy và tôi có ghi trong Giấc mơ tái tạo, gồm hai mươi bài bát cú,
trong đó
có những câu như:
Đôi lứa uyên
ương một thuở nào,
Đi về say đắm
biết là bao,
Tóc vương
mùi lá xoan thơm phức,
Má sánh màu
hoa phượng ửng đào.
Nhịp gót cuồng
si hoa rún rẩy,
Ghẹo lòng
trinh bạch lá xôn xao.
Cả hai cùng…
thẹn ơi là thẹn,
Mong mỏi thư
mà chẳng dám trao.
Thư viết nào
ai dám viết gì!
Xưng tên còn
ngượng chết người đi,
Nở theo mỗi
nét mùi hương lạ,
Cháy khắp từng
trang ngọn lửa si.
Rằng: đã tin
xuân vào lớp học
Rằng: chưa nắng
hạ nhắc mùa thi
Nhớ thương
chẳng nói mà thương nhớ
Trời hỡi, cần
chi phải nói chi!
Tôi. – Tôi
có thể biết hiện giờ Tố Vân ra sao không?
Chương. – Ở
Hà Nội. Trước khi vào Nam, tôi có gặp nàng lần chót. Bà cụ thân ra nàng
sang
Pháp, còn nàng và gia đình ở lại. Cũng như trong những truyện cổ tích
Âu Tây,
lúc tôi từ giã nàng, nàng sống sung sướng và có nhiều con. Nhưng mười
lăm năm
nay rồi, tuyệt mù tin tức, không biết còn sống hay đã mất.
Tôi. – Tôi cảm
ơn anh. Nhờ câu chuyện hôm nay, tôi đã giải một điều hiểu lầm của một
số người
cho rằng Mây của anh hàm một ý đồ khác để nói lên một thế giới thần
tiên khác.
Vậy, coi việc này như xong rồi. Bây giờ ta lại quay trở lại chuyện của
ta. Anh
có cảm thấy mệt mỏi không?
Chương.
- Có chứ! Mệt lắm. Ăn chẳng buồn ăn, nói
cũng không buồn nói, kể gì làm thơ giải khuây cho đời. Vừa đây, tôi có
nói với
anh thâm tâm tôi buồn. Nói như thế là nói thật đấy, anh. Buồn quá vì
mình thấy
cái đời thật và cái đời mình tạo nên đều đổ vỡ. Bây giờ, những đêm
không ngủ,
tôi băn khoăn nhất một điều là mình cứ như thế này và héo hắt mãi đi,
một ngày
kia “quỵ” xuống thì rồi sẽ ra sao? Tôi cứ tự hỏi có thật có một ông
Trời không
và nếu thực có một ông Trời thì có phải cái luật của Trời là đày ải
những văn
nhân, thi sĩ lúc sống chưa đủ, lại còn đày ải cả khi chết nữa?
Tôi. – Hình
như thế. Này, có phải anh đã viết mấy vần sau đây trong một vở kịch thơ
nào đó:
Đấy, con xem,
mọi việc ở trên đời,
Như vậy hết.
Có chi là “tận mỹ”?
Đấng Tạo hóa
chẳng bao giờ thiên vị,
Riêng một ai
mà cho được hoàn toàn…
Chương. –
Đúng. Ông Tể tướng khuyên con trong kịch Trương Chi…
Này con ạ, từ
xưa nòi nghệ sĩ,
Trời trao
cho riêng chỉ cái Tài thôi.
Càng tài cao
như Nghệ Thuật tót vời
Càng thua
thiệt với đời, thua mọi thứ.
Giàu tài nghệ
ắt lợi danh nghèo chứ
Đẹp linh hồn,
nên dung mạo xấu xa,
Luật “Thừa
Trừ” vẫn thế!
*
Mưa bên
ngoài đỡ nặng hột.
Tôi bắt tay
Chương, đi trên ngõ hẹp sình lầy.
Chương quay
vào căn nhà nhỏ âm u, đóng cửa, cài then lại.
Sài Gòn,
10-11-1969