|
Note: Thú thực, Gấu
đang chờ bài ai điếu này của tờ Người
Kinh Tế. Tờ báo thần sầu, ở “ai
điếu”, ở “điểm
sách”.
Bài về
Solzhenitsyn mũi tẹt, Bắc Kít, mà chẳng tuyệt cú mèo ư?
Mít, không tên nào viết
nổi.
Modesty,
humility, vanity
“There are
times when a leader must move ahead of his flock.”
Mr Mandela
did not single-handedly end apartheid. The collapse of communism, yoked
to
African nationalism by white opponents, played a part; so did
international
sanctions, domestic economic pressures, non-ANC internal resistance and
the
person of F.W. de Klerk, president from 1989 to 1994, whom Mr Mandela
did not
treat altogether well. But Mr Mandela’s symbolic role was hard to
exaggerate.
His greater
achievement was to see the need for reconciliation, to forswear
retribution and
then to act as midwife to a new, democratic South Africa, built on the
rule of
law. This was something only he could do. He gave hope to millions of
Africans
and inspired millions of others elsewhere, but if his successors in
government
have been less admirable, and if his example has not been followed in
countries
like Zimbabwe, that should not be surprising. Heroic though he was, he
did not
have the messianic powers some attributed to him, nor could others be
expected
to match his capacity to hold high principles, to live by them and to
use his
moral stature to such effect. Circumstances, after all, could hardly
suit
everyone so well. Hard though much of his life had been, Mr Mandela
lived long
enough to see his work through. That gave him his great achievement,
and his
story a happy ending. And the modern world loves a happy hero even more
than a
tragic one.
Nguyễn
Chí Thiện
Những lần ra đồng lao động
với bạn tù, nhiều người trong họ cũng là thi sĩ, ông đọc
những bài
thơ của ông cho họ nghe, và họ đáp lại bằng thơ của họ. Một
số trong họ đếm nhịp thơ bằng ngón tay để
nhớ. Ông không bao giờ làm vậy. Chỉ hồi nhớ là đủ. Hồi nhớ không chỉ
phục vụ thơ,
mà còn cứu ông. Sau 1979, ông trải qua phần đẹp nhất của tám năm trời
trong cô đơn,
trong nhà kho, trong gông cùm, trong bóng tối. Thơ của ông trở thành
những tiếng
sụt sùi, những tiếng khò khè, những trận ho lao thổ máu. Nhưng trong
đầu, ông
vẫn làm những chuyến đi câu, hay ngắm bình minh làm nhạt nhòa những
vì sao. Ông
ngửi mùi hoa nhài, hơi phở nóng trên phố đêm Hà Nội. Ông nhớ bà chị
Hảo của
ông và những lần bà dạy ông tiếng Pháp, khi ông mới sáu tuổi – ôi chao,
đúng là
thiên đàng, cái thời kỳ thuộc địa Tây, khi nhìn lại – và ông nhập vào
với Đạc Ta Nhan và đồng bọn. Bằng cách đó,
nó giữ ông
sống.
Uống rượu với
Lý Bạch
Bạn tù ưng ý
nhất của ông, là Lý Bạch, nhà thơ lớn TQ, thế kỷ 18. Ông nhắm rượu
với Lý Bạch
từ những ly hổ phách, uể oải toài người trên những chiếc ghế dài,
ngắm mấy
em hầu rượu trong những chiếc xường xám lụa Tô Châu, dưới hàng dương
liễu, “nhìn
những mùa thu đi”, cùng những cánh đào rơi rụng. Ông sẽ lèm bèm với Lý
Bạch bằng
cái giọng say say, rổn rảng, và, "vãi linh hồn" biết mấy! Ẩn chìm trong
nỗi vui cùng
cụng ly với bợm nhậu, thánh thi Tẫu, là cái tuổi trẻ của ông, những năm
tháng lê
la nơi... Khâm Thiên, ăn ngủ hút sách cùng đám cô đầu, y chang Nguyễn
Tuân hồi
trước Cách Mạng! Cả hai, ông, và Lý Bạch đều chọc quê hoàng đế, cha già
dân tộc,
đều phỉ nhổ vào cái hệ thống giáo dục, và đều bị trừng phạt. Hình như
là
cái quá khứ xa vời đó lại có
vẻ chịu đựng được. Nhưng đúng là chịu đếch nổi, những hành động của Quỉ
Đỏ VC,
với những chiếc loa nơi đầu phố oang
oang tối ngày sáng đêm về Hạnh Phúc và Ánh Sáng.
Ra khỏi tù,
như Lý Bạch, ông chơi quốc lủi một dạo, và cố kiếm sống bằng cách bán
những chiếc
nan hoa xế đạp. Chẳng đi đến đâu. Từ 1995, ông xoay sở để có được 1
chốn ra vô ở
Mẽo. Ông sống khiêm nhường ở Tiểu Sài Gòn, Quận Cam, California, cùng
vài đồng
hương, bạn bè. Trà và thuốc lá là hai món an ủi ông mỗi ngày. Một cái
mũ, như
trong hình, là thương hiệu của ông. Ông chẳng có gì để chia sẻ, ngoài
những bài
thơ, và những hồi ức về những bạn thi sĩ tù, mà những ngôi mộ của họ,
rải rác
đâu đó, làm thành những nét chấm phá, trên những mảnh đồi, chung quanh
trại tù,
trại lao động cải tạo. Chỉ có thế, và thêm vào đó, là lòng thù hận chế
độ VC ở
quê hương của ông, nơi bọn chúng cấm tiệt thơ của ông.
Nếu có người
có thể nhìn thấy trái tim của tôi, ông viết hồi năm 1960, trong lần đi
tù VC đầu
tiên, người đó sẽ nhìn thấy nó là một cây viết cũ, một giá viết, mờ bụi; hay một cái quán nghèo nàn bên đường, mà tiện
nghi độc nhất là ngọn đèn dầu. Nhưng nó cũng còn là một cánh
đồng lúa đợi những cơn mưa lũ tháng Tám,
Và như thế nó
có thể ứ tràn
Cả ngàn con sóng
Những con sóng
bạc đầu
Nelson
Mandela
Tháng 12 12, 2013
J. M. Coetzee
Phạm Thị Hoài dịch
Nelson
Mandela đã mất, sau một cuộc đời dài. Một cuộc đời dài, nhưng bị cắt
khốn khổ.
Hai mươi bảy năm sung sức nhất của đời mình, ông phải sống trong tù vì
sự độc
đoán của chính quyền. Nhưng ở trong lao ông không bất lực. Những năm
cuối án tù
dài dằng dặc ấy, thực tế ông đã sử dụng quyền phủ quyết về chính sách
ngoại
giao của đất nước và khiến cai tù ngày càng ngả theo ông. Cùng với F.W. de Klerk, một người kém vóc dáng đạo đức
hơn nhiều nhưng cũng đóng góp cho công cuộc giải phóng Nam Phi theo
cách của mình,
Mandela đã giữ vững một đất nước sục sôi biến động trong những năm nguy
nan
1990-1994 và dùng sức quyến rũ lớn của bản thân để vừa thuyết phục
những người
da trắng rằng họ cũng có chỗ trong nền cộng hòa dân chủ mới, vừa tước
quyền lực
của phe da trắng cánh hữu li khai.
Khi chính
mình trở thành tổng thống, ông đã già. Việc ông không thể quan tâm mạnh
mẽ hơn
đến vấn đề cấp thiết nhất của thời đại – thiết lập một thể chế kinh tế
công bằng
– là dễ hiểu, song cũng là bất hạnh. Ông cũng bị lóa mắt trước sự sụp
đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới như toàn bộ giới lãnh đạo Đảng
ANC. Để chống
lại cái chủ nghĩa duy lí kinh tế cướp bóc, Đảng của ông không đủ khả
năng kháng
cự về tư tưởng.
Mandela bênh
vực đấu tranh vũ trang chống chế độ apartheid về nguyên tắc, và hứng
chịu sự trừng
phạt nặng nề cho thái độ ấy. Uy tín cá nhân và uy tín chính trị của ông
dựa
trên những điểm này. Những điểm tựa khác của ông là một phong thái quý
tộc đượm
chút dân dã mà lịch duyệt, và nếp giáo dục xưa, khiến ông tuân theo
những mẫu mực
nghiêm ngặt của thời Victorian về tư cách cá nhân và tinh thần phụng sự
lợi ích
chung. Với một sự rộng lượng vô bờ bến, ông đã thu xếp được cuộc chung
sống với
một người phụ nữ càng ngày càng tác quái. Ông là một vĩ nhân và cả thế
giới đều
thừa nhận điều đó khi ông qua đời. Rất có thể ông là vĩ nhân cuối cùng,
bởi ý
tưởng về độ lớn của tầm vóc tan vào bóng tối của lịch sử.
Nguồn: FAZ, 08-12-2013
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
J.M.
Coetzee
on Nelson Mandela
In the Sydney
Morning Herald, the South African-born 2003 Nobel laureate in
literature J.M. Coetzee writes:
Nelson Mandela has died after a long life –
long yet lamentably truncated in that he spent 27 of the best years of
his
manhood incarcerated at the pleasure of the state.
Incarcerated, he was hardly powerless.
During the final years of that long sentence he in effect exercised a
power of
veto over the foreign policy of his country, exerting more and more of
a
strangehold over his jailers.
With F.W. de Klerk, a man of much smaller
moral stature, yet also, in his way, a contributor to the liberation of
South
Africa, Mandela held a turbulent country together during the dangerous
years
1990-94, exercising his great personal charm to persuade whites that
they had a
place in the new democratic republic while step by step emasculating
the
separatist white right wing.
By the time he became president in his own
right, he was already an old man. His failure to throw himself more
energetically into the urgent business of the day – the creation of a
just
economic order – was understandable if unfortunate. Like the rest of
the
leadership of the ANC, he was blindsided by the collapse of socialism
world-wide; the party had no philosophical resistance to put up against
a new,
predatory economic rationalism.
Mandela's personal and political authority
had its basis in his principled defence of armed resistance to
apartheid and in
the harsh punishment he suffered for that resistance. It was given
further
backbone by his aristocratic mien, which was not without a gracious
common
touch, and his old-fashioned education, which held before him Victorian
ideals
of personal integrity and devotion to public service.
He managed relations with a wife, whose
behaviour became increasingly scandalous, with exemplary forbearance.
He was, and by the time of his death was
universally held to be, a great man; he may well be the last of the
great men,
as the concept of greatness retires into the historical shadows.
Note: Do không biết tiếng Đức, Gấu mò bản
tiếng Anh, thấy có tí khác. Thí dụ:
Bản tiếng Anh, trong sự khoái trá của nhà
nước, at the pleasure of the state.
Rất có thể ông là vĩ nhân cuối cùng, bởi ý
tưởng về độ lớn của tầm vóc tan vào bóng tối của lịch sử. PTH
Câu tiếng Anh, thú hơn, he may well be the
last of the great men, as the concept of greatness retires into the
historical
shadows: ông có thể là vị vĩ nhân sau cùng, của những vị vĩ nhân, khi
mà ý niệm
về sự lớn lao lui vô bóng tối lịch sử.
Câu này giải thích cái thái độ “ly khai”, bỏ
thẻ Đảng vô thùng rác… của mấy đấng Mafia Đỏ: Chỉ
1 khi về hưu [retire], thì mới dám làm vĩ nhân!
Natalia
Gorbanevskaya, a Russian poet and Soviet dissident, died on November
29th, aged
77 (1)
Nelson
Mandela, the Father
Lời vinh danh Nelson
Mandela, bảnh nhất, theo Gấu là của Kincaid,
khi viết về quê hương của Bà:
Bạn cứ tới những nơi chốn,
nơi cái xiềng thuộc địa thật sự
bằng thép, và tỏ ra hết sức hữu hiệu: Phi Châu, vùng Caribbean, hay một
nơi nào
khác trên địa cầu. Phi Châu là một thảm họa. Tôi không hiểu đất đai con
người ở
đây rồi có ngày lành mạnh trở lại, hay là không. Thật khó có chuyện,
những ông
chủ thuộc địa bỏ qua, không đụng tới cái phần tâm linh của con người
Phi Châu.
Bởi vậy, chuyện tiểu thuyết hóa là đồ dởm. Những người Phi Châu đối xử
với nhau
thật là độc ác; bạn chỉ việc nhìn tất cả những con người đói khát đó
thì thấy.
Làm sao có chuyện những ngài thủ lãnh Phi Châu nhìn vào mặt con dân của
họ, và
rớt nước mắt? Họ cứ tiếp tục duy trì, theo một con đường tệ mạt khốn
kiếp, cái
điều đã xẩy ra khi còn chế độ thuộc địa. Sự thực, là bất cứ đâu đâu, cái
gọi là
di sản của chủ nghĩa thuộc địa, đó là: độc ác, tàn nhẫn, trộm cướp.
Cách những
tên thực dân đối xử: mild way, nhẹ nhàng thôi, đôi lúc có xoa đầu những
người
dân cô lô nhần, bây giờ chúng ta đối xử với nhau, theo một cách cay độc
hơn,
khốn kiếp hơn. Và bạn biết không, chúng ta cứ mắm môi mắm lợi, lấy hết
sức lực
ra, full force, để mà "chơi" nhau. Bởi vậy, có thể dưới luật thuộc
địa, người Phi Châu ăn rất ít; dưới luật của người Phi Châu, họ chẳng
ăn gì hết - và cứ như thế. (1)
Có thể nói, độc
nhất, có một ông da màu Mandela, “vượt quá lời nguyền [rủa]” trên, đối
với toàn
nhân loại Da Màu!
Làm đếch có “không
biên giới”, giữa Da Màu và Da Trắng, nếu suy từ câu của Kincaid.
Làm sao người
ta có thể tưởng tượng một Nam Phi bây giờ, nếu thiếu Nelson Mandela?
GLIMPSES OF MANDELA
~ Posted by
Samantha Weinberg, December 6th 2013

Windhoek,
Namibia, 1990: I was freelancing for the Natal Witness and Africa's
last colony
has just celebrated its independence in a soaring ceremony in the
city's main
stadium, watched by leaders from every corner of the globe. Castro was
there, I
remember, and Yasser Arafat, as well as the UN secretary-general,
Javier Pérez
de Cuéllar, and Dizzy Gillespie. But the eyes of most people present
were fixed
on a tall elegant man and his extravagantly hatted wife. Nelson
Mandela's years
of imprisonment had finished only a few weeks before. Here was the man
who had
been world-famous for decades, but for nearly all of us there, it was
the first
time we had seen him in the flesh.
A few hours
later, I was walking back over the hill towards my B&B when a white
car
drew up beside me. The window opened and a white man in mirrored shades
beckoned me over and asked for directions. I gave them as best as I
could and
when I finished, I heard a voice from the back seat thanking me. I
leaned in
and there was Mandela, smiling, sitting beside Winnie, who looked
distinctly
grumpy. He put his hand out to shake mine and I wished him the very
best. The
window was wound up and the car pulled away.
Johannesburg,
1991: I was working for the Weekly Mail and Mandela, now president of
the ANC,
had been invited to give a speech at the foreign correspondents'
dinner. After
coffee, his neighbour, Patti Waldmeir, the Financial Times
correspondent and
later author of "Anatomy of a Miracle" about the dismantling of
apartheid, beckoned me over and introduced me to Mandela. His warmth
was
immediate and when I mentioned that my father had been at the bar with
him over
four decades earlier, he said he remembered him well, and mentioned a
mutual
friend of theirs, Joel Joffe, who had represented Mandela in the
Rivonia trial.
It can only have been a three-minute conversation (I didn't feel I
could stay
longer) and after I shook his hand, I floated away.
Johannesburg,
1995: I went back to South Africa for American Vogue to write the copy
and act
as fixer and driver for a fashion shoot that Bruce Weber was doing with
Iman.
It was two years after Mandela had won the Nobel prize and the year
after he
became president. The trip was pretty stellar—Iman's husband David
Bowie came
along too—involving grand pianos, township boxing clubs, Miriam Makeba
and
Archbishop Desmond Tutu. But what everyone wanted was a shot of Iman
with
Mandela.
On our last
day, we heard that he would see us at his private house in Houghton. We
turned
up and were shown into the garden, where Mandela was sitting on a
chair,
wearing a patterned shirt. He greeted us all in turn, showing only a
little
more attention to Iman than to the lighting assistant. Then, as Bruce
was setting
up the shot and Iman changing into her frock, I was sent over to talk
to him. I
can't remember exactly what we talked about—I'm not sure I knew even
then—but I
remember the feelings that washed through me, a heady and unusual
combination
of euphoria and serenity. For the thousands of people who had a
glancing
encounter with Mandela, there was no mistaking that aura.
Samantha
Weinberg is our assistant editor. She is a former commissioning editor
on
Eureka and the author of "A Fish Caught in Time"
|
|