|
Dạ Vũ Ký Bắc
Quân vấn
quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ
vũ trướng thu trì.
Hà đương
cộng tiễn tây song chúc,
Khước
thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
Lý Thương
Ẩn
Em hỏi
ngày về để tính xem !
Núi Ba ao
ngập nước mưa đêm.
Bao giờ
mới được cùng chong nến,
Trò chuyện
ngoài trời mưa suốt đêm. (1)
Châu Ngọc
Bính
Lúc mưa
đêm, làm gửi về bắc
Ngày về
chưa biết bao giờ,
Ba sơn mưa
tối, ao thu dâng đầy.
Bao giờ
khêu nến song tây,
Cùng nhau
kể chuyện mưa bay đêm nào?
Trần Trọng
San
Đăng Lạc-Du Nguyên
Hướng vãn
ý bất thích,
Khu xa
đăng cổ nguyên.
Tịch dương
vô hạn hảo,
Chỉ thị
cận hoàng hôn.
Lên Lạc-Du nguyên
Chiều tối
lòng buồn bã,
Rong xe
lên cổ phần.
Nắng chiều
đẹp vô hạn,
Chỉ tiếc
sắp hoàng hôn.
Trần Trọng
San
Lạc-Du
nguyên: Tên một khu du lãm nổi tiếng tại Trường An
Ghi Chú:
Hai Lúa đã từng chôm tên Lý Thương Ẩn, khi dịch
truyện ngắn Evelyne, của Joyce, trong Những Cư Dân Dublin, đăng trên
Tập San
Văn Chương, ngày nào còn Sài Gòn. Và, còn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn.
Hai Lúa
vẫn còn nhớ, một câu giới thiệu Joyce, của Lý Thương
Ẩn "giả hiệu", mà Huỳnh Văn rất mê, là: Mười lăm truyện ngắn như mười
lăm mảnh đời, xé ra từ thành phố Dublin
nghèo khổ... Thi sĩ HV. mê nhất hình ảnh "xé ra"...
Lạ, không
hiểu có phải hậu quả của việc chôm, nhưng, ý tưởng
"Chỉ tiếc sắp hoàng hôn", của nhà thơ họ Lý đã nhập vào Hai Lúa, và,
bao nhiêu năm sau, đứng trên bờ biển giả, bãi cát giả Wasaga, làm bật
ra hình
ảnh này:
Sóng đẩy
biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời,
Không gian
bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả.
Biển
Trò chuyện
ngoài trời mưa suốt đêm?
Câu thơ
dịch này, của Châu Ngọc Bính, sợ không đúng tinh
thần nguyên tác.
Bởi vì cái
chuyện ngoài trời mưa suốt đêm, là chuyện đã xẩy
ra rồi, ở một nơi khác. Thành thử dịch như thế, là bỏ đi một số từ, làm
câu thơ
trở nên lệch ra khỏi nguyên tác.
Bao giờ
mới được cùng chong nến,
Trò chuyện
[về cái chuyện] ngoài trời mưa suốt đêm [ở núi Ba
Sơn đêm nào một mình không có bạn ở bên cạnh]. Như vậy,
bản dịch của TTS giữ được tinh thần nguyên tác hơn,
theo Hai Lúa.
Đây là bản
tiếng Anh. Cách dùng
thì [it was like] cho thấy rất rõ, tinh thần bài
thơ.
A Letter
Home
You ask
when I shall return: there is no knowing
Night rain
on Pa-shan floods the autumn pools
Someday we
shall trim the wick beneath the west windows
I'll tell
you that it was like - the night rain falling
[Edited by
Robert Payne]
(1) Dịch
giả Châu Ngọc Bính, đề nghị sửa lại:
Nhắc
chuyện Ba Sơn mưa suốt đêm.
Thơ Lý
Thương Ẩn, hay nói chung, thơ Đường, hay ở chỗ kiệm
lời, thơ thật cô đọng, nhờ vậy mà ý thơ, như những ao kia, nước mưa
dâng
đầy. Cách hiểu, và dịch của Châu Ngọc
Bính, thực sự không sai, nhưng mà là hiểu theo cách đổi ngược dòng thời
gian,
lấy cái chuyện tương lai làm chuyện hiện tại, nói rõ hơn, khi viết thư
cho bạn,
trong đêm mưa, là kể như đã có bạn ở ngay bên mình rồi!
Bài thơ
của Lý Thương Ẩn, nó như vầy, theo tôi.
Đêm, nơi
núi Ba Sơn, ngồi đọc thư bạn, tới câu bạn hỏi, khi
nào về, mới trả lời, chưa biết được. Khi đó, ngoài trời mưa, nước ao
dâng đầy,
mơ tưởng cái ngày gặp lại, kể cho bạn về cái cảnh đẹp tuyệt vời của đêm
nay.
Thành thử
cái chuyện "kể chuyện ngoài trời mưa suốt
đêm" đúng là giấc mơ của kẻ ngồi ngắm mưa, "kể như" có bạn mình
ngồi kế bên, vậy.
*
Lý Thương
Ẩn [813-858]
Tự là
Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khuê sinh. Người huyện Hà Nội,
tỉnh Hà Nam.
Năm 837 (đời Đường Văn-tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh
Hồ Sở
mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương,
dùng
vào việc thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị
của Lệnh
Hồ Sở nên ông bị coi là người vong ân.
Lý Thương
Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Đỗ Mục, nên
người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Đỗ.
Có ảnh
hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An
Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình giống thơ Đỗ Phủ.
Hai Lúa
mới lục trong tủ sách, cuốn Thơ Đường, của Trần
Trọng San, có phần tiếng Anh, nhà xb Đại Học Tổng Hợp Thành Phố HCM.
Lạ một
điều, bản tiếng Anh, dịch bài Đăng Lạc-Du nguyên, lại
giống như bài thơ Biển của... Hai Lúa!
Biển
Buổi chiều đứng trên
bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ
thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy
biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian
bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả.
Cát ở đây
được con người chở từ đâu tới,
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này.
Số phận
còn thua hạt cát.
Hàng
cây
trong công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì thầm của biển...
Bản dịch
qua tiếng Anh, của Witter Bynner, bài Đăng Lạc-Du
nguyên của Lý Thương Ẩn.
The Lo-Yu
Tombs
With
twilight shadows in my heart
I have
driven up among the Lo-Yu Tombs
To see the
sun, for all his glory
Buried by
the coming night
Buried by
the coming night, dịch lại qua tiếng Việt, chẳng
là:
Không gian
bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả?
Tuyệt cú mèo. Cứ y hệt như Hai Lúa khi làm, sáng tác...
bài thơ Biển của mình, là... dịch nó từ tiếng
Anh qua!
Feb 6, 2004
Thơ là
toán thuần tuý, ngược với văn, là toán áp dụng, của
ngôn ngữ. Nó xác thực hơn, có nhiều khả năng tạo những hình thức lý
thuyết, độc
lập không dựa vào nền tảng chất liệu, so với văn.
G.
Steiner: Verse in Tragedy, Thơ trong Bi Kịch.
[... that
verse is the pure mathematics of language. It is
more exact than prose..., and more capable of constructing theoretic
forms
independent of material basis. Prose, on the contrary, is applied
mathematics].
Nhật Ký
Tin Văn
Nhân nói
chuyện dịch thơ, Guardian online kể kinh nghiệm
dịch Antigone của nhà thơ Nobel văn chương, Seamus Heaney. Ông bị bí,
và rồi
cảm hứng đã tới với ông, khi ông nhận ra rằng, đừng coi bản dịch của
mình như
là một cơ hội để phản đối cuộc chiến Iraq. Đây là một vở kịch
thơ, nhưng
bình luận và nghiên cứu đã biến nó trở thành một ẩn dụ chính trị. Tôi
nhắm cái
chiều hướng nhân chủng học của tác phẩm, không muốn bản dịch của mình
biến
thành một lời chỉ trích cuộc chiến Iraq, vì thế mà tôi đổi là The
Burial at
Thebes, thay vì Antigone.
Burial,
chôn cất, là vì, chôn hay không chôn, đó là vấn đề;
một bên, quyền của người chết, và một bên, luật của đất. Nhưng chôn là
một từ
luôn bám rễ vào đất, nghĩa là, chẳng bao giờ mất đi cái thực tại nguyên
thuỷ
của nó. Chôn bảo cho những người còn sống là người chết muốn được quyền
chôn
cất, rằng, hãy tỏ lòng tôn kính, với chiếc quan tài, và cái xác chết ở
trong
đó, cho dù cái quan tài đó phủ cờ gì.
Đi tìm
linh hồn nàng Antigone
Search for
the soul of Antigone
Even Nobel
laureate Seamus Heaney didn't know how to begin
his translation of Sophocles. Then inspiration struck ...
Wednesday
November 2, 2005
The
Guardian
Antigone
is poetic drama, but commentary and analysis had
turned it into political allegory. What I wanted to point up was the
anthropological dimension of Sophocles' work: I didn't want the
production to
end up as just another opportunistic commentary on the Iraq adventure,
and that
was why I changed the title.
I called
my version The Burial at Thebes
partly because "burial"
signals immediately to a new audience what the central concern of the
play is
going to be: a contest involving the rights of the dead and the laws of
the
land. But mainly I changed the title because "burial" is also a word
that has not yet been divorced from primal reality. It still recalls to
us our
destiny as members of a mortal species and reminds us, however
subliminally, of
the need to acknowledge and allow the essential dignity of every human
creature. It implies respect for the coffin, wherever it is being
carried,
whatever flag is draped over it, whatever community is crying out
alongside it.
It emphasises, in other words, what Hegel emphasised about Antigone,
those
"Instinctive Powers of Feeling, Love and Kinship" which authority
must honour and obey if it is not to turn callous.
Hai
Lúa, phải đợi đến lúc sắp ngỏm củ tỏi, phải đợi cơ may độc nhất, do
Ông
Trời thí cho, là gặp lại cô bạn ngày xưa ở nơi tận cùng trái đất, xúc
động quá, "bèn" được "Thần Thơ nhập" [chữ này chôm của thi
sĩ THT], và sáng tác ra được vẻn vẹn một... cục thơ, nằm trong lòng bàn
tay,
trong có Biển, và "nhân đó" nhận ra,
luật thơ, rõ nhất là ở trong Thơ
Đường, chỉ gồm trong sáu chữ, tức lục khoái:
Cứ theo hư
không mà đi.
Thơ là cõi
hư, là mắt bão, ở giữa, đầu tịnh, đầu động, một
chẵn một lẻ, một âm một dương, một hư một thực, một thanh một tục....
Lòng nhà
thơ phải hư... nhưng đừng... hỏng!
Đăng Lạc-Du Nguyên
Hướng vãn
ý bất thích,
Khu xa
đăng cổ nguyên.
Tịch dương
vô hạn hảo,
Chỉ thị
cận hoàng hôn.
Sau đây là
bản dịch, khi chưa chuyển thành thơ, của Trần Trọng San.
Lên Lạc-Du
nguyên
Lúc trời sắp tối, ý không thoả thích, nên rong xe lên khu đất cổ. Nắng
chiều đẹp vô hạn, thế nhưng đã sắp hoàng hôn!
Bây giờ bạn
đọc lại bài Biển.
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là
quê nhà.
Cái
"air" của bài thơ rất giống cái "air" của bản dịch khi chưa chuyển
thành thơ, của bài thơ Đường.
Nói một cách khác, mấy
bài thơ của Hai Lúa, một cách nào đó, đều như được dịch từ Đường Thi
qua, và còn ở dạng "nháp", chưa được gọt rũa, thành vần, thành điệu.
Và đây là một trong những cái "mánh", trong cái việc tập tành làm thơ:
Hãy thử dịch thơ Đường!
Và đó cũng là câu Alain khuyên ông học trò sau này nổi danh của
mình, là
André Maurois, mày mê ai, thì cứ dịch người đó (1) và rồi sẽ trở thành
văn
sĩ, như người đó.
Nhưng thơ Đường không làm sao có những dòng như vầy:
Cát ở đây
được con người chở từ đâu tới,
Còn ta bị quê hương ruồng
bỏ nên phải đứng ở chốn này.
Số
phận còn
thua hạt cát.
Nó là tâm thức
bi đát về phận
người, về những hoàn cảnh giới hạn của nó, tâm trạng sao xuyến, lưu
đầy, và, lưu vong.
Cũng xin được cắt nghĩa một tí về "Cát ở đây..."
Bãi Wasaga không
có cát, cát được chở từ nơi khác tới, làm một bãi biển giả, câu du
khách từ thành phố tới.
Bài thơ trên, làm đúng vào lần đầu tiên được một người bạn chở tới
đây. Ông bạn này nói cho biết về cái vụ "cát ở đây", và, bài thơ được
hoàn thành ở trong đầu, khởi từ ý đó.
Cụm từ " bị quê hương ruồng bỏ" lúc ban đầu, đúng như vậy, rồi đuợc sửa
là, "không hiểu tại sao", như bản được đọc trên Gió_O, nhưng một ông
bạn đọc cả hai, bèn mắng cho, "bị quê hương ruồng bỏ", là đúng rồi,
đúng ra phải nói, "bị VC đá văng ra khỏi đất nước", nhưng "bị ruồng bỏ"
nghe có vẻ... thơ hơn!
*
Hàng cây trong công viên
bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao
như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng
có thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi
Bắc, là cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên,
anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu này, là có thể chẳng cần làm thơ
nữa, cũng vẫn được, anh ạ!
Đọc lại, bỗng liên tưởng tới cái di chúc của nhà thơ Du Tử Táo:
Khi tôi chết hãy liệng mẹ
cái thây tui xuống biển!
Thì trút lên trời hay liệng xuống biển thì cũng mêm
xôi, mắm xốt [từ chữ même chose, tiếng Tẩy mà ra]
(1) Đọc lại, Hai Lúa bỗng dưng liên tưởng tới mấy dòng thơ của nữ sĩ
LTTV:
Con gái mẹ,
Yêu ai, con cứ
fuck họ
Ghét ai, con
cũng có
thể fuck họ.
Khinh
ai, mẹ để tùy ý con.
*
.... Un coup
de dés, một bài thơ lạ: hành động viết một bài thơ là chủ đề của nó.
Nhưng đây
là một bài thơ không hề được toan tính trước: một bài thơ tuyệt đối.
Không phải
một bài thơ, mà 'thơ' về thơ ('the' poem on the poem). Chủ đề của Sor
Jiana
Inés de la Crez - bài thơ về tác động hiểu - lại xuất hiện ở đây, được
đẩy đến
tận cùng. Câu trả lời cũng phủ định như nhau: Thơ (the poem) về thơ, là
một bài
thơ về thơ. Không có bài thơ khác, ngoài bài tôi đang viết, bằng một
ngôn ngữ
được sinh ra để mất đi (there is no other poem except the one I am now
writing
in a language destined to disappear). Từ đó thơ của thơ, của Holderlin
và của
những nhà thơ Lãng mạn khác đã vươn tới dỉnh cao trong phê bình và phủ
nhận của
nó: chúng ta bị kết án phải viết cũng vẫn một bài thơ và mỗi ấn bản của
bài thơ
đại chúng này, thì đặc thù và tương đối. Cái cảm giác mà Mallarmé đã có
được
khi ông khám phá ra hệ tư tưởng của Hegel vào năm 1866 là một sự kiện
được
nhiều người biết. Có một sự ưu ái cuốn hút không thể nghi ngờ giữa
triết gia và
thi sĩ: cả hai đều lấy diểm khởi hành của mình là một phương trình tối
hậu về
hiện hữu và hư vô (d). Theo Hegel, biện chứng pháp được sinh ra là để
làm trung
gian giữa những thế cách khác nhau của hiện hữu cho dến khi nó đạt được
cõi tự
tại viên mãn của nó. Tư tưởng này tương hợp với tham vọng của Mallarmé:
giản
lược cơ may (ngôn ngữ), về một con số tuyệt đối (bài thơ). Khi tới vị
trí đối
nghịch thảm hại với vị trí của một Hegel ngạo mạn - và trong thái độ
này thì sự
khiêm nhường của Mallarmé cũng khôn ngoan chẳng kém - ông đã đành thốt
lên một
tiếng đại khái như là 'có lẽ'. Cái hộp xúc xắc thi ca không thể loại
trừ cơ
may: không có con số tuyệt đối. Nếu có thì nó không thể hiểu và cũng
không thể
diễn tả được. Mỗi bài thơ, mỗi con số là một tuyệt đối tức thời. Một
bài học về
sự nhã nhặn và về chủ nghĩa anh hùng. Nó là một sự trở về ngầm với
Kant, mặc dù
Mallarmé có thể không ý thức điều này. Kant kẻ tạo dựng hiện đại tính
thực sự,
là người đầu tiên cảnh cáo chúng ta trước những cơn mê sảng của biện
chứng
pháp, mà ông gọi một cách xác đáng là "triết học của ảo tưởng".
Kể và Hát
|