|
SN_GCC_2017
@ Taipei Airport, lượt đi.
Cái kiếng, rớt mất tiêu, liền sau
đó.
Lượt về mất hành lý
Weave
a circle round him thrice
And close your eyes with holy dread,
For he on honey-dew hath fed,
And drunk the milk of Paradise.
"Samuel Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines
51-54.
[from "Borges Tám Bó"]
Vẽ 1 cái vòng tròn ba
lần
Rồi nhắm cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi sợ thiêng liêng
Bởi là vì mi, đã tới
giờ húp 1 húp cháo lú
Và uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng liêng!
Holy dread!
Chắc là của Coleridge?
Borges: Tôi nghĩ là dịch từ Latinh,
từ những gì mà người La Mã cảm nhận [felt].
Người La Mã, cũng giống như lũ Bắc Kít,
coi Lăng Bác Hồ là nơi chốn thiêng liêng.
Chúng nói thầm với nhau, có vị thần nằm
ở trong đó, there is a god inside.
TTT 10 years Tribute
Ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi
http://www.tanvien.net/Dich_1/burn_out_case.html
Câu thơ trên, của Nguyễn Du, trong truyện Kiều, tả
cảnh Kiều ở trung tâm một trận bão, lụt, làm Gấu
nhớ tới cái truyện ngắn chỉ có được mỗi cái tên
truyện của Gấu: Mắt Bão.
Nhớ, cả cái bữa ngồi Quán Chùa, khoe cái
tít với ông anh, ông biểu, còn nhiều từ như
thế lắm, ở trong môn học địa lý.
Nhưng, "ầm ầm sóng vỗ chung quanh ghế ngồi", còn
là cái dáng ngồi như ông Bụt của Marlow,
khi anh kể lại câu chuyện của Kurtz, trong Trái Tim Của
Bóng Đen.
Và đúng là cái tâm trạng của
NHT, kẻ "chẳng bao giờ đi xa và cứ ở mãi đây", ở
cái xứ Bắc Kít. Ở trung tâm của Bóng Đen.
Virtue, after all, is far from being synonymous with
survival; duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
Đạo hạnh thật khó mà coi là đồng nghĩa với
sống sót. Nhập nhằng, OK!
It belongs to a nobleman to weep in an hour of disaster
Euripides, 412 BC
It would be impossible to live for a year without disaster unless
one practiced character-reading
Virginia Woolf, 1927
Sao Gấu cay đắng hoài như thế?
Sến Cô Nương
Thật vô phương sống nổi 1 năm không tai ương, ngoại
trừ đọc trang TV!
Càng nhìn sao trời - như MT đã từng nhìn,
Thì càng hiểu ra, con người sống thời gian vay
mượn, đếch phải của nó
The more we learn about asteroid impacts, the clearer it becomes
that human race has been living on borrowed time
Brian May, 2014
Brodsky cũng có ba búa
TGK, như TTT, khi truyền lại cho thằng em.
Búa thứ nhất, Milosz chỉ ra, khi vinh danh ông.
Con người sở dĩ sống sót được, là nhờ truyền thống, thông
qua đẳng cấp.
Búa thứ nhì: Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh.
Búa thứ ba, con người do tiến hoá, mất mẹ cái
đuôi, và để bù lại, Thượng Đế ban cho nó
hồi ức.
Lũ Bắc Kít cực kỳ thông minh, chúng sống
sót, không phải là nhờ đạo hạnh mà nhờ bửn
quá, do óc bị thiến mất 1 mẩu, trong mẩu này có
cái gọi là lương tri của con người.
Phát giác này, cũng do Brodsky nhận ra.
GCC mấy bữa rày, dịch loạng quạng, trật trịa tứ lung tung,
một phần là do đang bấn xúc xích bởi 1 đề tài,
tại sao Mít không thể tưởng niệm, nhân đọc Sebald
viết về văn học Đức sau chiến tranh, tức Hậu Lò Thiêu, và,
tại làm sao lũ Bắc Kít cứ cực kỳ thông minh, là
óc bị thiến mất 1 mẩu?
Hà, hà!
Đọc số báo LaPham, về tai họa, trong có 1 bài
viết, Gấu ngộ ra được điều này.
Steiner rất đau lòng, vì có ông bố
quá khôn, bỏ chạy kịp trước khi Cựu Lục Địa vào tay
Nazi, nhờ vậy gia đình ông sống sót Lò Thiêu.
Ông coi mình cũng 1 thứ sống sót, là
do vậy.
Lũ chuột, bỏ chạy, khi nhà cháy, như trong chuyện
dưới đây, cho thấy, là do chúng ngửi ra trước tai
họa.
Nhưng cái sống sót của con người, như 1 Steiner,
là do hồi ức: Ông sống sót để kể câu chuyện
về Lò Thiêu.
Một khi bạn quá thông minh, là phần đạo hạnh
rất dễ bị thương tổn, và cái đuôi của bạn ló
ra, thay cho hồi ức.
Đó là ba búa TGK của Brodsky!
Hai mảng văn chương lớn nhất, là
thứ văn chương tiên tri và văn chương hồi ức, như thế,
là đều liên quan tới cái đuôi của con người
đã bị mất đi theo đà tiến hóa của nó.
C.200: Rome
The Departed
When a house is on the verge of ruin the mice in it, and the
martens also, forestall its collapse and emigrate. This, you know,
is what they say happened at Helike, for when the people of Helike
treated so impiously the Ionians who had come to them, and murdered
them at their altar, then it was (in the words of Homer) that "the gods
showed forth wonders among them. “For five days before Helike disappeared
all the mice and martens and snakes and centipedes and beetles and every
other creature of that kind in the town left in a body by the road that
leads to Keryneia. And the people of Helike seeing this happening were
filled with amazement but were unable to guess the reason. But after the
aforesaid creatures had departed, an earthquake occurred in the night; the
town collapsed; an immense wave poured over it; and Helike disappeared,
while ten Lacedaemonian vessels that happened to be at anchor close by were
destroyed together with the city I speak of.
Aelian, from On the Nature of Animals. A teacher of rhetoric,
Aelian earned the nickname Meliglottos, meaning "honey-tongued," based
on his fluency with Greek. In addition to his seventeen-volume work on
animals, Aelian published Indictment of the Effeminate, a posthumous attack
on the emperor Marcus Aurelius Antoninus, and a collection of fictional
letters about Attic country life. Elsewhere in Animals, he describes the
tradition of tuna fishermen to pray to Poseidon, whom they called "Averter
of Disaster," asking for neither swordfish nor dolphin to destroy their
nets.
I am above the weakness of seeking to establish a sequence of
cause and effect between the disaster and the atrocity.
Edgar Allen Poe, 1843
Tớ ở bên trên cái sự yếu ớt, tạo một tiếp
nối về nguyên nhân và hậu quả, giữa tai ương và
sự độc ác.
Cái sự độc ác của dân chúng ở Helike
đối với dân Ionians, đến nỗi những vị thần mà cũng ngạc nhiên
giữa họ, như thế, không mắc mớ gì đến tai ương động đất.
Và cũng như thế, Haruki Murakami phán, mọi người,
trong thâm sâu của trái tim của họ, đợi tận thế tới:
Everyone deep in their heats is waiting for the end of the world
to come (2009).
Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải sống,
trong khi chờ đợi ngày đó:
We got to live, no matter how many skies have fallen, D.H. Lawrence,
1928.
Tuy nhiên, chỉ sau 1 tai ương thật dài, thì
một xã hội mới, mới sản sinh ra, và làm chúng
ta hãnh diện về nó.
Out of the experience of an extraordinary human disaster that
lasted too long must be born a society of which all humanity will be
proud
Nelson Mandela, 1994
Có thể, 1 xã hội như thế, sẽ xuất hiện, sau tận
thế, chăng?
GCC
Trong cuộc trò chuyện với Volkov, về Maria Tsvetaeva,
Brodsky có nhắc tới Susan Sontag; theo bà này,
phản ứng đầu tiên của một con người, khi đứng trước thảm họa, là
hỏi, tôi có làm điều chi lẫm lỗi, và bây
giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng
xẩy ra nữa.
Tuy nhiên, bà nói, còn một cách
nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu, bạn
lại đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành
một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng,
the phoenix principle. Và, Brodsky rất tâm đắc với nó.
Alexander Blok
Russian
1880-1921
Beyond the mountains beyond the forests
beyond the dust of the roads
beyond the grave mounds
under other skies you flower
Whiteness will spread on the mountain
but spring will come back to the valley
and I will recall with an older sadness
my past as though it were yesterday
In the grief of my dreams I will know you
and I will seize in my palms
your gentle hand that has borne miracles
and repeat the distance in your name
September 30, 1915
1968, translated with
Olga Carlisle
Quá núi, quá rừng
Quá bụi đường
Quá gò mả
Dưới những bầu trời khác
Seagull & August Beauty
Tuyết sẽ trải dài trên núi
Nhưng Mùa Xuân sẽ trở lại nơi thung
lũng
Và Gấu sẽ nhớ cái buổi sáng
ngồi ở Starbucks nơi Tiểu Xề Gòn
Như vừa mới hôm qua.
Trong nỗi đau
Biết đâu Gấu nhớ ra khuôn mặt của Seagull
Cái dáng đi tất tả khi đi order cà
phê thì làm sao quên được!
Và Gấu sẽ cầm trong lòng bàn
tay của mình
Bàn tay dịu dàng của Seagull
Và Phép Lạ hiển hiện
Và lập lại khoảnh cách trong tên
Seagull!
W.S. Merwin: Selected Translations
The
Gardener
Gửi hải âu
Mùa đông, bờ biển vắng, hàng phi
lao
vẫn vi vút, điệu nhạc dửng dưng
những dấu chân chim, dấu chân người...
Tks
Seagull & GNV
To K & O & My home
MY-NESS
"My parents, my husband, my brother,
my sister."
I am listening in a cafeteria
at breakfast.
The women's voices rustle, fulfill
themselves
In a ritual no doubt necessary.
I glance sidelong at their moving
lips
And I delight in being here on
earth
For one more moment, with them,
here on earth,
To celebrate our tiny, tiny my-ness.
Của… tớ
Cha mẹ tớ, chồng tớ, anh /em tớ, chị/em tớ
Tớ ngồi quán cà phê, ăn sáng
Nghe những giọng đàn bà
Róc rách như con suối
Đong đầy chính họ
Trong một nghi lễ rõ ràng là cần
thiết
Tớ đong đưa lưỡi của tớ
Nếm từng giọt nói của họ
Cảm thấy sướng điên
Rằng tớ có mặt,
Rằng tớ hiện hữu
Rằng tớ tồn tại
Rằng tớ hiện sinh
Ở trên trái đất này
Thêm tí, tí nữa
Với họ,
Ở đây, trên trái đất này
Để ngợi ca cái “my-ness”, nhỏ bé,
Xinh xinh của chúng ta.
To find my home in one sentence, concise, as if hammered
in metal.
Not to enchant anybody. Not to
earn a lasting name in posterity. An
unnamed need for order, for rhythm,
for form, which three words are
opposed to chaos and nothingness.
Để tìm nhà của mình trong một
câu, ngắn gọn, súc tích , như thể được khảm
bằng búa vào kim loại.
Không phải để làm vui một ai.
Cũng không phải để lưu danh hậu thế.
Một cái cần thiết không tên cho
trật tự, cho nhịp điệu, cho hình vóc, ba từ chống lại
chao đảo và hư vô
Berkeley-Paris-Cambridge, Massachusetts,
1981-1983
Czeslaw Milosz: Selected Poems
1931-2004
....
vào đúng dịp sinh nhật của chàng,
sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật
lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
BHD phán, lần SN
thứ nhất, sau khi thoát chết 2 trái mìn claymore,
của VC, ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Saigon,
26.6.1965.
The Forging
Like the blind man whose hands are precursors
that push aside walls and glimpse heavens
slowly, flustered, I feel
in the crack of night
the verses that are to come.
I must burn the abominable darkness
in their limpid bonfire:
the purple of words
on the flagellated shoulder of time.
I must enclose the tears of evening
in the hard diamond of the poem.
No matter if the soul
walks naked and lonely as the wind
if the universe of a glorious kiss
still embraces my life.
The night is good fertile ground
for a sower of verses.
J.L. Borges: Poems of the Night
Rèn
Như anh mù
Tay của chàng là tiền thân,
Dẹp tường tiệc qua một bên
Thoáng nghía thấy những thiên
đường
Chầm chậm, xốn xang,
Tớ cảm thấy
Đêm kêu ‘krắc” phát
Và những dòng thơ bèn
bò ra
Tớ phải đốt cái bóng tối khủng
khiếp
Trong trận lửa trong sáng:
Màu tím của những từ
Trên đôi vai ăn đòn của
thời gian.
[Cái gì gì, trên đôi vai ta hai vầng
nhật nguyệt!]
Tớ phải rào những giọt nước mắt của
buổi chiều
Vào viên kim cương cứng rắn của
bài thơ.
Đếch cần biết, như thế nào
Linh hồn,
Trần trụi hay cô đơn
Như ngọn gió
Lang thang
[Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân
thì]
Và,
Nếu vũ trụ của nụ hôn thần sầu của em
của tớ
Vẫn ôm lấy đời tớ
Thì,
Đêm, ôi đêm
Mảnh đất mầu mỡ
Để gieo những vần thơ.
Note: Trên net, có 1 tay
lèm bèm về bài thơ này, OK lắm:
http://quarterlyconversation.com/poems-of-the-night-by-jorge-luis-borges
In his introduction Kristal
notes that Borges claimed many poems came to
him in dreams. He called them “gifts of the night, or more
precisely, of the dawn.” Poems of the Night
includes sixty-five poems in Spanish, and English versions by
fourteen translators. All the vital Borgesian themes are represented—death,
mirrors, darkness and blindness, multiple selves, labyrinths,
knives, books, reality as fiction, fiction as reality, the vertigo
of infinity.
Dear GNV,
Wishing you a Happy Birthday and many many more...
Enjoy "August Beauty" Gardenia
photos, enjoy writing and reading...
Seagull
Tks
Take Care
NQT
Once again, Borges felt that it was
not his destiny to be happy. Literature provided consolation,
but never quite enough, since it also brought back memories
of each loss or failure, as he knew when he wrote the last lines
of the first sonnet in the diptych "1964":
No one loses (you repeat in vain)
Except that which he doesn't have and
never
Had, but it isn't sufficient to be brave
To learn the art of oblivion,
A symbol, a rose tears you apart
And a guitar can kill you.
Richie
with friends @ schơol
I follow Soviet poetry. Among contemporary poets
I value and esteem B. Pasternak. I recently wrote a poem that
is dedicated to him. This is the final stanza of that poem:"
He was rewarded with an eternal childhood,
His penetrating eye and generosity beamed,
And all the earth was his inheritance
And he shared with all men
Akhmatova abt Pasternak
Hắn ta được Ông
Giời tưởng thưởng 1 tuổi thơ vĩnh hằng
Mắt lé của hắn thì… lé,
và sáng ngời khi… chiêm ngưỡng kiều
nữ Playboy!
Và tất nhiên thằng khốn chẳng chia
cho ai!
Aug 16 at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục đọc và
viết ít nhất gần 10 năm nữa nghe .
Bông hồng và
bông hồng .
Biết đâu chừng cái bông
hồng mà Coleridge ngắt được từ trong mộng trong bài
What-if-you-slept đã được ông ấy tình
tứ đặt lên bộ ngực thanh tân của Sara trong bài
thơ này :
THE ROSE
by: Samuel Taylor Coleridge (1772-1834)
As late each flower that sweetest blows
I plucked, the Garden's pride!
Within the petals of a Rose
A sleeping Love I spied.
Around his brows a beamy wreath
Of many a lucent hue;
All purple glowed his cheek, beneath,
Inebriate with dew.
I softly seized the unguarded Power,
Nor scared his balmy rest:
And placed him, caged within the flower,
On spotless Sara's breast.
But when unweeting of the guile
Awoke the prisoner sweet,
He struggled to escape awhile
And stamped his faery feet.
Ah! soon the soul-entrancing sight
Subdued the impatient boy!
He gazed! he thrilled with deep delight!
Then clapped his wings for joy.
"And O!" he cried--"of magic kind
What charms this Throne endear!
Some other Love let Venus find--
I'll fix my empire here."
THE ROSE
by: Samuel Taylor Coleridge (1772-1834)
ĐÓA HỒNG
Trong những cành hoa tỏa hương thơm nhất
Đóa tôi ngắt đây là niềm hãnh
diện của Khu Vườn
Rất yên lành giữa những cánh hoa hồng
Tôi bắt gặp Thần Tình Yêu đang say sưa nằm
ngủ
Một vương niệm hoa quấn quanh đầu rạng rỡ
Sáng long lanh đủ màu sắc cầu vồng
Mầu tím ửng lên chiếu trên má vị thần
Như những giọt sương say sưa vị rượu
Tôi nắm thật nhẹ để Tình Yêu không chống
cự
Không làm chàng thức giấc giữa cơn mơ
Tôi khóa Tình Yêu vào lồng cùng
với đóa hoa
Đặt lên ngực thanh tân của Sara yêu dấu
Khi thức giấc, Tình Yêu hiền lành chợt thấy
Mình bị lừa, bị làm một tù nhân
Tình yêu vội vàng tìm cách
thoát thân
Vùng vằng giậm đôi chân tiên đẹp đẽ
Nhưng kìa, cảnh trước mắt sao mà say hồn thế
Chàng ta đang nóng nẩy chợt lặng người
Đứng ngắm say sưa, lòng nở một niềm vui
Đôi cánh vỗ liên hồi vì hạnh phúc
Tình Yêu ngỡ như là trò ảo thuật
Chiếc Ngôi này diễm tuyệt quá đi thôi
Vệ Nữ ơi, hãy tìm thần khác cho người
Ta xin chọn nơi này làm vương quốc ...
K phóng dịch :))
What if you slept ...
What if you slept
And what if
In your sleep
You dreamed
And what if
In your dream
You went to heaven
And there plucked a strange and beautiful
flower
And what if
When you awoke
You had that flower in you hand
Ah, what then?
This is widely believed to be the work of
Coleridge but no publication dates or details are yet known
K
https://allpoetry.com/What-if-you-slept-...-
"Professor Borges: A Course on English Literature is
a compilation of the twenty-five lectures Borges gave in 1966
at the University of Buenos Aires, where he taught English literature.
Starting with the Vikings' kennings and Beowulf and ending with
Stevenson and Oscar Wilde, the book traverses a landscape of 'precursors,'
cross-cultural borrowings, and genres of expression, all connected
by Borges into a vast interpretive web. This is the most surprising
and useful of Borges...
See More
Thầy Borges!
Gồm 25 bài. Hai bài về Coleridge,
cuộc đời, văn và thơ.
Borges phán, một trong những tác
phẩm quan trọng nhất của 1 nhà văn - có lẽ quan
trọng nhất trong tất cả - là hình ảnh người đó
để lại về chính người đó trong hồi ức của mọi người,
trên và quá những trang sách mà
người đó viết. Nếu như thế, thì Wordsworth bảnh hơn Samuel
Taylor Coleridge. Nhưng nói tới Wordsworth, chúng ta
bèn nghĩ tới 1 đấng Hồng Mao phong nhã của thời Victoria,
như nhiều người khác. Còn với Coleridge thì chỉ
là tang thương, đổ nát, thất bại, xì ke ma túy,
đủ thứ hầm bà làng!
CLASS 13
THE LIFE OF SAMUEL TAYLOR COLERIDGE.
A STORY BY HENRY JAMES. COLERIDGE AND
MACEDONIO FERNANDEZ, COMPARED.
COLERIDGE AND SHAKESPEARE.
IN COLD BLOOD, BY TRUMAN CAPOTE.
WEDNESDAY, NOVEMBER 16, 1966
One of a writer's most important works-perhaps
the most important of all-is the image he leaves of himself in
the memory of men, above and beyond the pages he has written. Now,
Wordsworth was himself a better poet than Samuel Taylor Coleridge,
whom we will speak about today. But when one thinks of Wordsworth,
one thinks of an English gentleman of the Victorian era, similar to
so many others. When one thinks of Coleridge, on the other hand, one
thinks of a character from a novel. All of this is interesting for
a critical analysis and for the imagination, and so Henry James, the
great American novelist, believed. Coleridge's life was a collection of
failures, frustrations, unfulfilled promises, vacillations. There is
a story by Henry James called "The Coxon Fund," which was inspired by
his reading of one of the first biographies of Coleridge.' The protagonist
of the story is a man of genius, a genius conversationalist, that is,
someone who spends his life at the homes of his friends. They expect him
to write a great work. They know that for him to carry out this work he
needs time and rest. And the heroine is a young lady whose responsibility
it is to choose the fellow for this foundation, the Coxon Foundation, established
by one of her aunts, Lady Coxon. The young lady sacrifices her chance to
be married, sacrifices her own life, so that the person who receives the
award will be a man of genius. The protagonist accepts the annuity, which
is considerable, and then the author leaves us to understand-or he states
it directly, I don't remember-that the great man writes nothing, barely
a few rough drafts. And we can say the same thing about Samuel Taylor Coleridge.
He was at the center of a brilliant circle,
called the "Lake School," because they lived in the Lake District.
He was Wordsworth's friend and De Quincey's teacher.
He was friends with the poet Robert Southey, who left among his
many works a poem called "A Tale of Paraguay," basedvon the texts
of the Jesuit Dobrizhoffer, a missionary in Paraguay.' The members
of this group considered Coleridge their master, they considered
themselves inferior to him. Nevertheless, Coleridge's work, which
fills many volumes, actually consists of only a few poems-unforgettable
poems-and a few pages of prose. Some of the pages are in the Biagraphia
Literaria; others are of lectures he gave about Shakespeare.'
Let's first look at Coleridge's
life, and then we will examine his work, not infrequently unintelligible,
tedious, and plagiarized.
Coleridge was born in 1772, two years after
Wordsworth, who was, as you know, born in the year 1770, which
is easy to remember. (I'm saying this now because you are about
to have an exam.) Coleridge dies in the year 1834. His father is
a Protestant vicar in the south of England.
Reverend Coleridge was a vicar in a country
town, and he impressed his listeners because he would always
weave into his sermons what he called "the immediate tongue to
the Holy Ghost." In other words, long passages in Hebrew that his
rustic parishioners did not understand, but which made them venerate
him. When Coleridge's father died, his parishioners scorned his
successor because he did not interweave unintelligible passages
in the immediate language of the Holy Ghost.
Let's first look at Coleridge's
life, and then we will examine his work, not infrequently unintelligible,
tedious, and plagiarized.
GCC có đọc 1 bài viết trên
tờ TLS, hình như vậy, cho biết, Coleridge chôm
đủ thứ, và ông không thèm để ý
đến chuyện này, và cho biết, vào thời của
ông, chuyện này không quan trọng.
Quả đúng như thế.
Cái gọi là bản quyền, tác
giả, tên tác giả, như Foucault viết, chỉ bắt đầu,
khi xã hội cần 1 con người, 1 cái tên, để lôi
ra, để mà làm thịt!
LA MORT DE L'AUTEUR
Câu hỏi, tại sao phải là
Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc,
với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp? Trong
bài viết, "Tác giả là cái gì?"
(bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy,
ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm
đặc biệt của quá trình "cá nhân hóa"
(individualization), trong lịch sử tư tưởng, tri thức, văn chương,
triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn sách,
những bài viết/nói bắt đầu có tác giả...
khi họ trở thành những mục tiêu để trừng phạt. Tác
giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc tội!
Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng ta,
(và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy,
bài viết/nói (le discours), không phải là một
sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là một
hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar field), một
đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng
bổ. Theo tính cách lịch sử, đây là một động
tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng
ta mới thực sự thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn
Huy Thiệp. Trong thế giới toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có
kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta",
khi có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa
chắc đã thiêng liêng, và tin rằng, điều báng
bổ có khi thật cần thiết...
Nguồn
Có hay không một quán
cà phê có mặt bàn sơn màu
đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh
quen ?
Trời chưa qua mùa đông
nên đường chưa trắng tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm cà
phê
Và đọc vài trang trong
chồng sách mới
K
For the Sleepwalkers
Tonight I want to say something wonderful
for the sleepwalkers who have so much faith
in their legs, so much faith in the invisible
arrow carved into the carpet, the worn path
that leads to the stairs instead of the window,
the gaping doorway instead of the seamless mirror.
I love the way that sleepwalkers are willing
to step out of their bodies into the night,
to raise their arms and welcome the darkness,
palming the blank spaces, touching everything.
Always they return home safely, like blind men
who know it is morning by feeling shadows.
And always they wake up as themselves again.
That's why I want to say something astonishing
like: Our hearts are leaving our bodies.
Our hearts are thirsty black
handkerchiifs
flying through the trees at night, soaking up
the darkest beams if moonlight, the music
of owls, the motion if wind-torn branches.
And now our hearts are thick black fists
flying back to the glove if our chests.
We have to learn to trust our hearts like that.
We have to learn the desperate faith of sleep-
walkers who rise out of their calm beds
and walk through the skin of another life.
We have to drink the stupefying cup of darkness
and wake up to ourselves, nourished and surprised.
Edward Hirsch: The Living Fire
Cho tên mộng du
Bữa nay Gấu muốn nói 1 điều thần sầu
Cho mấy tên mộng du có quá
nhiều niềm tin
Vào cẳng của chúng
Và vào cái mũi tên vô
hình
Cắm vào cái thảm
Con đường mòn đưa tới cầu thang thay vì
cửa sổ
Lối đi hở, trống thay vì gương liền
Gấu mê cách mấy tên mộng du
ước ao
Bước ra khỏi cơ thể của chúng, vào
đêm tối
Giơ tay chào mừng bóng đen
Sờ khoảng không, soạng mọi thứ,
Luôn luôn an toàn trở về nhà,
Như những tên mù
Biết rạng đông, vì ngửi ra những cái
bóng
Và luôn luôn chúng tự
chúng nhỏm dậy, tỉnh giấc, ra khỏi cơn thụy
Chính vì thế mà Gấu muốn phán
1 điều rất ư là kinh ngạc:
Trái tim của chúng
ta bèn rời cơ thể của chúng ta
Trái tim của chúng
ta thèm khát những chiếc khăn tay đen
Bay qua những tàng cây trong đêm
Khua loạn cào cào
Những chùm tối cực
tối của ánh trăng,
Âm nhạc của những con cú
Chuyển động của những cành tan tác
vì gió
Và bây giờ trái tim của chúng
ta là những cú đấm dày đen
Bay trở về cái bao tay là lồng ngực
của chúng ta
Chúng ta phải học tin tưởng trái
tim của mình như thế
Chúng ta phải học cái niềm tin ngao
ngán, rã rời của mấy tên mộng du
Chúng bước ra khỏi những cái giường
êm ấm của chúng
Vào bước vào trong bộ da của một
đời khác
Chúng ta uống cái chén ngỡ
ngàng của bóng tối
Và tự chúng ta bật dậy
Được nuôi dưỡng, và bèn ngạc
nhiên
To Both Of U
And Tks
NQT
Bài thơ sau đây của Borges, đúng
là về năm cùng, tháng tận, đời tàn
- K phán, nhớ là sống thêm ít lắm
là 10 năm nữa, để đọc và viết cho K và mọi
người cùng đọc -
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead
of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term
dying and another emerging
nor the fulfillment
of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau
of this night
making us wait
for the twelve irreparable
strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive
suspicion
of the enigma of
Time,
it is our awe at
the miracle
that, though the
chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’
river,
allows something
in us to endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges (translated by W.S.
Merwin)
Năm tận
Không phải chi tiết biểu tượng
Rằng ba, thay vì hai
Chẳng phải ẩn dụ thô thiển
Rằng một cái gì đó mất đi
Thì bèn có 1 cái gì
đó bò ra đời
Cũng chẳng có sự hoàn thiện tiến trình
thiên văn cái con mẹ gì hết
Khuấy đảo, soi mòn cao nguyên đêm
nay
Khiến chúng ta chờ đợi
12 tiếng chuông đồng hồ vô phương sửa
chữa
Lý do thực sự là sự hồ nghi u ám
của chúng ta
về sự bí ẩn của Thời Gian
Chính là sự kinh hoàng của chúng
ta trước phép lạ,
Mặc dù những cơ may thì là vô
cùng
Mặc dù chúng ta là những giọt
nước của dòng sông Heraclitus
Nó cho phép một điều gì đó
ở trong chúng ta liên luỷ, hoài hoài
Chẳng hề chuyển động.
THERE IS no poet, and particularly no American poet,
who has not been touched by Emily Dickinson. Like the flamboyant
Dylan Thomas, though she is a far greater poet than Thomas, Dickinson
is immensely seductive to young poets; one can admire her passionately,
one can have virtually memorized any number of her poems, yet to
be "influenced" by her is simply not possible. She is sui generis.
To be influenced by Dickinson, as by Dylan Thomas, is a fatal error. (Unless,
of course, one is a poet of genius oneself, like William Carlos Williams.
Or, in her own mordant way, Sylvia Plath.)
I began reading Emily Dickinson as an adolescent, and
have continued through my life; her work retains, for me, the drama
and "white-hot" intensity of adolescence, like the work of Henry
David Thoreau. Certain of Dickinson's poems are very likely more deeply
imprinted in my soul than they were ever imprinted in the poet's, and
inevitably they reside more deeply, and more mysteriously, than much
of my own work. For the writer is, as Dickinson's poet-persona suggests,
a creature forever in motion, calculating and breathless at once; casting
out demons, joy, gems, "profundity" in skeins of language, then moving
restlessly on. Her work, if it endures at all, can only endure, in Auden's
striking phrase, "in the guts of the living."
The Essential Dickinson is, I suppose, a personal selection-yet
not a private one. It includes the poems generally considered great
- and they are many. It contains the much-anthologized; but it also
contains the virtually never anthologized. Dickinson is one of very
few poets whose work repays countless readings, through a lifetime.
I am continually discovering poems I'd believed I knew, seeing them
in a different light, from a different perspective. We return to Dickinson
for that magical experience so famously described by Dickinson herself,
in a letter to her would-be mentor T. W. Higginson:
If I read a book [and] it makes my whole body so cold
no fire can ever warm me I know that is poetry. If I feel physically
as if the top of my head were taken off, I know that is
poetry. These are the only way [sic] I know it. Is there any other way.
-JOYCE CAROL OATES
INTRODUCTION
If I read a book [and] it makes my whole body so cold
no fire can ever warm me I know that is poetry. If I feel physically
as if the top of my head were taken off, I know that is poetry. These
are the only way [sic] I know it. Is there any other way.
Nếu tôi đọc một cuốn sách [và] nó
làm toàn thân tôi lạnh đến nỗi không
lửa nào làm ấm lại, thì tôi biết, đó
là thơ.
Nếu tôi cảm thấy, cái chỗ đội nón
của tôi bị VC chặt mẹ mất, thì tôi biết đó
là thơ.
Đếch có cách nào khác, như
tôi biết.
Nếu tôi cảm thấy, cái chỗ đội nón
của tôi bị VC chặt mẹ mất: Ui chao, đọc, thì không
làm sao không nhớ tới câu phán khủng khiếp
của Kafka, khi trả lời…. Thầy Phúc, có nên đọc cuốn
40 năm thơ Mít lưu vong của lũ Mít hải ngoại mang về
trình Vẹm chào mừng ngày 19 Tháng Tám
năm nay.
"I think we ought to read only books that bite and sting
us. If the book we reading doesn't shake us awake like a blow on
the skull, why bother reading it in the first place? So that it can
make us happy, as you put it? Good God, we'd be just as happy if we
had no books at all; books that make us happy we could, in a pinch, also
write ourselves. What we need are books that hit us like a most painful
misfortune, like the death of someone we loved more than we love ourselves,
that make us feel as thought we had been banished to the woods, far from
any human presence, like a suicide. A book must be the axe for the frozen
sea within us. That is what I believe."
"Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những
cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn
sách mà chúng ta đọc không lay động chúng
ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú
vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó?
Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám
ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách
gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta
hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy.
Sách mà chúng ta cần, chúng
đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất,
như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng
ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm
chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh,
xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái
rìu phá cái biển đóng băng ở bên
trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History
of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
Đám này, theo GCC, chưa từng đọc Kafka.
Ngay cả Thầy Phúc. Thầy vớ được câu của Kafka trong1
bài nhảm nhí của 1 em mũi lõ, thế là vồ
ngay lấy, đưa vô bài viết. Rõ ràng là
như thế, bởi là vì Thầy không biết trọn vẹn câu
của Kafka - không nói về mặt băng, không nói
về lưu vong cái con mẹ gì hết - mà là về
"đọc sách gì”.
Ra được hải ngoại, thì cũng đi học, trường người
lớp người, cố lấy 1 cái bằng cấp gì đó, để
nhờ nó có 1 công việc nào đó,
để nuôi thân, nuôi gia đình, nhưng lấy
cái bằng nhảm nhí đó, để tự vỗ ngực xưng tên
là phê bình này nọ, thấy thảm quá.
GCC thực sự hết còn tin tưởng ở đám viết lách
ở hải ngoại.
Với Kafka, cuốn sách phải như cái rìu
phá băng, bổ vào sọ người đọc, làm vỡ cái
biển băng là cái thân thể đóng băng của
người này.
Với Dickinson, nó - thơ - phải
làm cho bà lạnh đến nỗi không lửa nào
làm ấm lại, làm cho bà mất luôn cái
đỉnh đầu, như bị ai chặt mất.
Thứ nào cũng đếch tên Mít nào
có được, hiểu được cả!
Mai
Sau Dù Có Bao Giờ
Everness
Vàng
thu vàng suốt con đường
Ta
trong thu bỗng thấy thương đất trời
Đặng Lệ Khánh
LIU TSUNG-YUAN
773-819
A fisherman in the landscape was a beloved subject
of poets and painters. This poem, however, seems to me quite
complicated, in spite of its apparent simplicity. For here there
is action, and the fisherman himself appears only toward the end,
as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz
OLD FISHERMAN
Old fisherman spends his night beneath the western
cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's waters, burns bamboo
of Ch'u.
When the mist's burned off, and the sun's come
out, he's, gone.
The slap of the oars: the mountain waters green.
Turn and look, at heaven's edge, he's moving
with the flow.
Above the cliffs the aimless clouds go too.
Translated from the Chinese
by J. P Seaton
Bài thơ
trên, nhớ là đã dịch rồi, kiếm không
ra. Post lại, và post thêm 1 bài nữa, cũng
của Liu (cái này thì phải nhờ bạn The Gardener)
(1)
https://allpoetry.com/poem/13433194-River-Snow-by-Liu-Tsung-yuan--773-819--by-Stanton-Hager
In a thousand mountains
not one bird flying
on ten thousand trails
not one footprint.
In a solitary boat
an old man alone
in bulky straw raincoat
fishes the snow-cold river.
--Translated by Stanton Hager
in Huangshan Poems from the T'ang
Dynasty
(21st Editions: Cape Cod, 2010)
LIU TSUNG-YVAN
773-819
A fisherman in the landscape
was a beloved subject of poets and painters. This poem, however,
seems to me quite complicated, in spite of its apparent simplicity.
For here there is action, and the fisherman himself appears only
toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous
Things
Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi
sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ sau đây
xem ra rắc rối dù bề ngoài đơn giản. Bởi vì
ở đây, có hành động, và tay ngư phủ
già, chính anh già, chỉ xuất hiện ở cuối
bài thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh làm
1 chuyến đi xa, thật xa.
OLD FISHERMAN (1)
Old fisherman spends his night
beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's waters, burns bamboo
of Ch'u.
When the mist's burned off, and the sun's
come out, he's, gone.
The slap of the oars: the mountain waters
green.
Turn and look, at heaven's edge, he's moving
with the flow.
Above the cliffs the aimless clouds go too.
Translated from the Chinese by J.
P. Seaton
Người câu
cá già
Người câu cá già
qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này, thuổng Tô
thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc sáng sớm, anh
già ngồi đun nước mưa, hứng ở mái sau nhà,
ở Canada, đốt củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù tan, mặt trời bò
ra, anh già bèn xuống thuyền, lên đường,
làm chuyến viễn du chót.
Tiếng mái chèo đập trên
làn nước xanh
Quay nhìn, ở đường ven Thiên
Đàng, thấy thấp thoáng bóng anh già
cùng di chuyển với dòng nước
Ở trên đỉnh Ải Tây, mây,
đếch biết làm gì, bèn cũng đi theo anh già!
I wonder how we can survive, this romance
But in the end if I'm with you, I'll
take the chance
Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You
Note: Năm cùng tháng
tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài thơ trên
thì đúng là tuyệt cú mèo!
Làm sao Gấu qua khỏi
con trăng này?
Nhưng sau cùng, nếu Gấu gặp Sad Seagull,
thì Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!
Hà, hà!
Chúc bác Gấu luôn
mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad Seagull
Tks. Take Care, Plse
NQT
Milosz đọc bài
thơ trên, thấy rắc rối, kỳ kỳ, "this poem, however, seems to
me quite complicated, in spite of its apparent simplicity",
trong khi GCC, qua bài thơ, mơ về chuyến đi xa
của mình
Bài thơ sau đây của Borges, đúng
là về năm cùng, tháng tận, đời tàn
- K phán, nhớ là sống thêm ít lắm
là 10 năm nữa, để đọc và viết cho K và mọi
người cùng đọc -
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a
two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying
and another emerging
nor the fulfillment of an
astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this
night
making us wait
for the twelve irreparable
strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances
are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to
endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Tuyết sông
Ngàn núi chim bay hết
Vạn lối người đi biệt
Ghe lẻ già đơn lạnh
Buông câu trên sông tuyết
Liễu Tông Nguyên
D. V dịch
Tks.
NQT
Note: Bài thơ này, Trẩn Trọng San cũng dịch,
trong cuốn Thơ Đường. Post sau đây, nhưng GCC coi lại, sợ không
đúng bài Milosz giới thiệu.
Giang Tuyết
Thiên Sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu thoa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
TTS dịch:
Ngàn ngọn núi, chim bay hết
Muôn con đường nhạt hết chân người
Ông già nón lá áo tơi
Đậu thuyền sông tuyết, riêng người ngồi câu.
Hàn Giáng Tuyết là tên 1 người
đẹp học Trường Sơn, bạn Chất, em trai TTT, đã từng mê
1 thời. Cô này, sau quen biết Đinh Ngọc Mô, 1
trong những nhân vật chủ trương chương trình Đố Vui
Để Học, của VCNH, người được Đặng Tiến nhắc tới trong bài viết
về TTT. Nghe nói, DNM sau tự tử, ở Canada.
Lần ông anh mất, Gấu qua Mẽo, lên thăm bạn Chất
ở San Jose, nghe bạn kể, khi mới qua Mẽo, bà cụ của HGT có
phôn hỏi thăm, anh không biết ai cho số phôn, và
vẫn tiếc, còn chị Nga, phu nhân của bạn C. thì
nói, may quá, cô ta nhường cho tui, vì nghe
nói cô đẹp lắm.
CHINESE POEM
I read a Chinese poem
written a thousand years ago.
Comments
|