|
Hand
Twenty-seven bones,
thirty-five muscles,
around two thousand nerve cells
in every tip of all five fingers.
It's more than enough
to write Mein Kampf
or Pooh Corner.
Tay
Hai mươi bảy cái xương
Ba mươi lăm cái bắp thịt
Cỡ chừng hai ngàn tế bào thần kinh
Ở đầu, của mọi đầu, của cả năm ngón tay
Vậy là quá, quá đủ
Để ngồi hang Hắc Búa
Hay Hác Bó cái con mẹ gì đó
Dịch Sử Đảng!
To My Own Poem
Best case scenario -
you'll be, my poem, read attentively,
discussed, remembered.
Worst comes to worst,
only read.
A third option -
actually written,
but tossed into the trash a moment later.
The fourth and final possibility-
you slip away unwritten,
happily humming something to yourself.
Gửi bài thơ
của chính GCC
Bảnh nhất,
thì sẽ như vầy:
Mi sẽ được đọc, tới chỉ, được lèm bèm điếc con ráy, và được đời đời
truyền tụng
[“Biển”, “cô
bạn” của mi, mà chẳng được như thế sao, hà, hà!]
Đọc 1 phát là thúi tới tận
Trời rùi!
Giải pháp thứ
ba –
Vừa viết
xong, là quăng sọt rác liền tù tì!
Giải pháp thứ
tư, mới tuyệt cú mèo làm sao:
Mi trượt khỏi
tay ta, như… con đỉa
[Kiếp trước
của mi đúng là con đỉa,
Một em đã từng
mắng “êu” mi, nhớ không?]
Trước khi mi
được viết xong, hoặc, chưa có lấy 1 dòng
Và huýt sáo nhè
nhẹ, chân nhảy sáo,
Có vẻ như hài
lòng về một điều gì đó,
Về chính mi.
Once we had
the world backwards and forwards:
- it was so
small it fit in two clasped hands,
so simple
that a smile did to describe it,
so common,
like old truths echoing in prayers.
History
didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung
dirty sand into our eyes.
Ahead of us
lay long roads leading nowhere,
poisoned
wells and bitter bread.
Our wartime
loot is knowledge of the world,
- it is so
large it fits in two clasped hands,
so hard that
a smile does to describe it,
so strange,
like old truths echoing in prayers.
From Unpublished
Collection 1944-1948
Đã có thời
chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt
trong hai vòng tay
Giản dị, một
nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen,
như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa
Lịch sử đếch
đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào
mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị
vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít.
Trước mắt chúng
ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng
Nam Kít nhận
họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi
phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự
hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến
nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng
nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì,
vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như
những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ
Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.
Tháng Năm, 1998
A white stone
An aching sadness has settled in me
Like a white stone at the bottom of a well.
A sweet sadness too bitter for words.
A bitter sadness too sweet for words.
If you look me straight in the eye
You'll know the weight of this stone,
And feel even more desultory
Than if you'd read some mournful story.
The gods changed men to a bestiary,
But held them battened to their hearts.
I've changed you to this reliquary
That contains the constant ache in my heart.
Anna Akhmatova
Hòn đá trắng
Một nỗi buồn đau ơi là đau chiếm lấy tôi
Như một hòn đá trắng ở đáy giếng
Một nỗi buồn ngọt ngào quá cay đắng cho lời
Một nỗi buồn quá ngọt ngào cho lời
Nếu anh nhìn thẳng vào mắt tôi
Anh sẽ biết hòn đá nặng ra sao
Và anh sẽ cảm thấy mới rời rạc làm sao
Rời rạc hơn nhiều, so với câu chuyện thê lương nào đó
Mà anh đã từng đọc
Thần thánh biến đàn ông thành thú vật
Nhưng bắt chúng mập như heo, mất/lấp mẹ luôn trái tim!
Tôi biến anh thành thứ hòm này
Chứa trong nó cơn đau nhức hoài hoài trong tim tôi.
The muse
My life, it seems, hangs by a thread,
As I await her coming, I am mute.
And neither honours, youth, nor holy bread
Are centre stage when she plays the flute.
And now she is here. Lifting her veil,
She holds me with her glittering eye.
I ask: "Did you dictate that hellfire tale
To Dante?" "Yes, I did"-she replies.
Anna Akhmatova
Modigliani
With Modigliani following me
Through a blue Parisian fog
Looking like a dispirited and
Dispiriting shadow of himself,
I've been shaken even in my sleep
By a deep yearning remorse.
Yet for me-his Egyptian woman ...
An old grinder's organ moans
A Paris music that intones underfoot
Like the groaning sea,
He'd imbibed in his shame,
Drunk his fill of grief and hard times.
In St. Petersburg's National Library there is an Akhmatova manuscript, "Poem
Without A Hero." In its margins, Akhmatova has written lines to Amedeo Modigliani.
Akhmatova never did include this poem among her works. It was not published
until 1980.
Modigliani
Với Modigliani theo tôi,
Qua sương mù xanh Paris,
Như bóng ma vất vưởng của chính chàng
Trong đêm khuya,
Tôi rụng rời bị dựng dậy
Bởi chính nỗi niềm ân hận miên man của mình
Tuy nhiên với tôi, người đàn bà Ai Cập của chàng….
Cây đàn organ của một tay thợ mài già rên rỉ
Một khúc nhạc Paris ngân ngư dưới chân
Như biển lầm bầm
Thấm đậm nỗi tủi hổ
Chàng uống đầy nỗi đau, và cực nhọc.
THE MUSE
When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"
But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am."
1924
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm, ta đợi vị khách quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”
Note: Bài diễn văn này,
Gấu nhớ là, dịch cũng từ thời Diễm Xưa, cái thời bắt đầu mê...
nữ thi sĩ, và nhân đó, bèn mê thơ.
Nội dung của nó, thì đúng như là cái tít, thi sĩ và thế giới.
Chẳng có “trong”, mà cũng chẳng có “hôm nay”.
Viết Mỗi Ngày
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBrWisTom2baitho.htm
The Nobel Prize in Literature 1996 was awarded
to Wislawa Szymborska "for poetry that with ironic precision allows the historical
and biological context to come to light in fragments of human reality".
Giải Thưởng Nobel Văn Chương 1996 dành cho Wislawa Szymborska "vì
nền thi ca trào phúng chính xác cho phép
văn cảnh thuộc lịch sử và sinh học trong những mảnh đời nhân
thế được soi sáng".
Lý Ốc dịch
Theo GCC, dịch giả không thèm để ý đến “phân tích loại từ”, analyse grammaticale.
Trong cụm từ trên, precison là danh từ, ironic là tĩnh
từ, bổ nghĩa [modify] cho precison. Khi dịch ra tiếng Mít, ironic
biến thành danh từ.
Đúng ra phải dịch, đại khái, S được Nobel vì thơ của
bà, với sự chính xác có tính hài
hước, [nó] cho phép cái nội dung mang tính lịch
sử và sinh học, phơi ra trước ánh sáng, trong những
mẩu đoạn của thực tại con người.
Tiếng Việt không phân biệt rõ ràng về tự loại,
nhưng người dịch phải biết, nếu không, độc giả không biết đuờng
nào mà lần!
Hơn nữa 1 vòng hoa Nobel là cả 1 kỳ công của Viện Hàn
Lâm. Làm sao chỉ vài chữ, mà nói lên
được cả hai, một, cõi văn của người được, và một, cái
tôn chỉ của giải Nobel.
Going Home
He came home. Said nothing.
It was clear, though, that something had gone wrong.
He lay down fully dressed.
Pulled the blanket over his head.
Tucked up his knees.
He's nearly forty, but not at the moment.
He exists just as he did inside his mother's womb,
clad in seven walls of skin, in sheltered darkness.
Tomorrow he'll give a lecture
on homeostasis in metagalactic cosmonautics.
For now, though, he has curled up and gone to sleep.
Wislawa Szymborska
Về Nhà
Chàng về nhà. Nín thinh không nói.
Rõ ràng, dù sao, đã có chuyện gì trắc trở.
Chàng nằm dài để nguyên bộ cánh.
Kéo mền trùm kín mít.
Co quắp hai gối chèo queo.
Chàng gần tứ thập, nhưng lắm lúc như em thơ.
Chàng hiện hữu như là bào thai trong bụng mẹ,
gói giữa bảy lớp thành da, ẩn trú trong cõi huyền thiên sâu thẳm.
Ngày mai chàng sẽ đọc một diễn văn
về sự cân bằng trong những chuyến du hành ngoài vũ trụ.
Còn bây giờ, dù sao, chàng cũng đã cuộn mình trôi vào giấc ngủ.
Lý Ốc dịch
Vv “chính xác tiếu lâm”.
Nếu đúng như thế, thì “not at the moment” không thể dịch
là “lắm lúc như trẻ thơ được”, mà phải dịch “không,
vào lúc này”, vì tác giả giải thích,
lúc này, chàng như con sâu nằm trong bụng mẹ,
và đây là ý nghĩa của từ “về nhà”!
NXH's Poems of the
Night
The Disquieting Resonance of 'The Quiet
American'
by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET
Note: Bài viết này, nhờ Văn Học
đưa lên lưới, đọc lại được, bằng cách chụp. Đọc, không
nhận ra đã từng viết.
Thú nhất, là cái mẩu viết về phê bình gia, trong bài tạp ghi.
Mít vs Lò Thiêu Người
The Gulag can be regarded as the quintessential expression of modern Russian
society. This vast array of punishment zones across Russia, started in Tsarist
times and ending in the Soviet era, left a legacy on the Russian quest for
identity. In Russia, prison is usually referred to as the malinkaya zone
(small zone). The Russians have an expression for freedom: bolshaya zona,
(big zone). The distinction being that one is slightly less humane than the
other. But which one? A Russian friend once said, "First they make you work
in the factory, then they finish you off in prison." By the 1950s, the Gulag
played an integral role in the development of the Soviet economy. In fact,
Stalin used these camps as a source of economic stimulation, to excavate
the vast natural resources of the east and to stimulate growth and settlement
across the twelve time zones of the former USSR. The majority of mines, timber
industries, factories, and Russia's prized oil and gas fields were all discovered
through convict labour. In effect, almost every imaginable industry in Russia
today exists because of Stalin's policy. This photo was taken at the state
theatre in Vorkuta, a large city in the far north of Russia, beyond the Arctic
Circle, and one of the largest penal colonies created by the Soviet bureaucracy.
Today, survivors-both prisoner and guard-and their descendants still live
in this city. The woman was the lead in a play by Ostrovsky: Crazy Money.
www.donaldweber.com
Spring 2015
THE NEW QUARTERLY
Nếu không có cú dậy cho VC một bài học,
lũ Ngụy "vẫn sống ở Trại Tù", cùng với con cái của chúng.
Tờ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB, có bài của Timothy Snyder,
về “Thế giới của Hitler”.
Tờ Người Nữu Ước, Adam Gopnik có bài
“Những ám ảnh của Hitler”.
Tin Văn post cả hai, và thủng thẳng
đi vài đường về nó. Một câu chuyện mới về Lò
Thiêu, như Adam Gopnik, tác giả bài viết trên tờ
Người Nữu Ước, phán.
The Bloi and the Morlocks
The hero of the novel The Time Machine, which a young writer Herbert
George Wells published in 1895, travels on a mechanical device into an unfathomable
future. There he finds that mankind has split into two species: the Eloi,
who are frail and defenseless aristocrats living in idle gardens and feeding
on the fruits of the trees; and the Morlocks, a race of underground proletarians
who, after ages of laboring in darkness, have gone blind, but driven by the
force of the past, go on working at their rusted intricate machinery that
produces nothing. Shafts with winding staircases unite the two worlds. On
moonless nights, the Morlocks climb up out of their caverns and feed on the
Eloi.
The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes back into
the present. He brings with him as a solitary token of his adventure
an unknown flower that falls into dust and that will not blossom on earth
until thousands and thousands of years are over.
Nguỵ vs VC
Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy Thời Gian”,
sử dụng cái máy thần sầu du lịch xuyên qua thời gian
tới những miền tương lai không làm sao mà dò được.
Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại - được chia thành
hai, một, gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và là những nhà
trưởng giả, bất lực, vô phương chống cự, sống trong những khu
vườn nhàn nhã, ăn trái cây, và một, VC,
gồm những tên bần cố nông, vô sản, sống dưới hầm, địa
đạo [Củ Chi, thí dụ], và, do bao nhiêu đời lao động trong
bóng tối, trở thành mù, và, được dẫn dắt bởi
sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng, với sức người sỏi
đá cũng thành cơm, cứ thế cứ thế lao động, để thâu hoạch
chẳng cái gì. Có những cầu thang nối liền hai thế giới,
và vào những đêm không trăng, VC, từ những hang
động, hầm hố, bò lên làm thịt lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy đuổi, trốn
thoát được, và trở lại thời hiện tại. Anh ta mang theo cùng
với anh, một BHD, như chứng tích của cuộc phiêu lưu, và
vừa trở lại hiện tại, bông hồng bèn biến thành tro bụi,
và, như…. Cô Sáu trong Tiền Kiếp Của GCC, hàng
hàng đời sau, sẽ có ngày nào đó, bông
hồng lại sống lại…
Who knows?
Hà, hà!
The Tigers of Annam
To the Annamites, tigers, or spirits who dwell in tigers, govern the four
corners of space. The Red Tiger rules over the South (which is located at
the top of maps); summer and fire belong to him. The Black Tiger rules over
the North; winter and water belong to him. The Blue Tiger rules over the
East; spring and plants belong to him. The White Tiger rules over the West;
autumn and metals belong to him.
Over these Cardinal Tigers is a fifth tiger, the
Yellow Tiger, who stands in the middle governing the others, just as the
Emperor stands in the middle of China and China in the middle of the World.
(That's why it is called the Middle Kingdom; that's why it occupies the middle
of the map that Father Ricci, of the Society of Jesus, drew at the end of
the sixteenth century for the instruction of the Chinese.)
Lao-tzu entrusted to the Five Tigers the mission of waging
war against devils. An Annamite prayer, translated into French by Louis Cho
Chod, implores the aid of the Five Heavenly Tigers. This superstition is
of Chinese origin; Sinologists speak of a White Tiger that rules over the
remote region of the western stars. To the South the Chinese place a Red
Bird; to the East, a Blue Dragon; to the North, a Black Tortoise. As we see,
the Annamites have preserved the colors but have made the animals one.
The Sphinx
The Sphinx of Egyptian monuments (called by Herodotus androsphinx, or man-sphinx,
in order to distinguish it from the Greek Sphinx) is a lion having the head
of a man and lying at rest; it stood watch by temples and tombs: and is said
to have represented royal authority. In the halls of Karnak, other Sphinxes
have the head of a ram, the sacred animal of Amon. The Sphinx of Assyrian
monuments is a winged bull with a man's bearded and crowned head; this image
is common on Persian gems. Pliny in his list of Ethiopian animals includes
the Sphinx, of which he details no other features than "brown hair and two
mammae on the breast."
The Greek Sphinx has a woman's head and breasts, the wings
of a bird, and the body and feet of a lion. Some give it the body of a dog
and a snake's tail. It is told that it depopulated the Theban countryside
asking riddles (for it had a human voice) and making a meal of any man who
could not give the answer. Of Oedipus, the son of Jocasta, the Sphinx asked,
"What has four legs, two legs, and three legs, and the more legs it has the
weaker it is?" (So runs what seems to be the oldest version. In time the
metaphor was introduced which makes of man's life a single day. Nowadays
the question goes, "Which anima] walks on four legs in the morning, two legs
at noon, and three in the evening?") Oedipus answered that it was a man 'who
as an infant crawls on all fours, when he grows up walks on two legs, and
in old age leans on a staff. The riddle solved, the Sphinx threw herself
from a precipice.
De Quincey, around 1849, suggested a second interpretation,
which complements the traditional one. The subject of the riddle according
to him is not so much man in general as it is Oedipus in particular, orphaned
and helpless at birth, alone in his manhood, and supported by Antigone in
his blind and hopeless old age.
Trả
lời phỏng vấn của tờ báo Nhật Shûkan Posuto ngày 17/8/1979, ở cao điểm
của làn sóng thuyền nhân Việt Nam lênh đênh trên Biển Đông, triết gia
Pháp Michel Foucault, đồng tham gia Ủy ban vận động "Một chiếc tàu cho
Việt Nam", nhận định rằng di dân sẽ trở thành một vấn nạn đầy đau đớn và
bi thảm của hàng triệu người mà những gì đang xảy ra ở Việt Nam là điềm
báo. Điềm báo ấy đã trở thành hiện thực trong Khủng hoảng Di dân hiện
tại ở châu Âu. Những ngày này, sống ở một trong n... ****
Note: Re Foucalt
2. Michel Foucault: Nguồn
gốc
vấn đề người Việt tị nạn.
Lời người giới thiệu: Sau đây
là chuyển ngữ, từ bản tiếng Pháp, cuộc phỏng vấn đặc biệt triết gia
người Pháp,
Michel Foucault, đăng trên tạp chí Nhật Bản, Shukan posuto, số đề ngày
17 tháng
Tám 1979. Nhan đề tiếng Nhật: "Nanmin mondai ha 21 seiku minzoku daiidô
no
zencho da." ("Vấn đề người tị nạn là điềm báo trước cuộc di dân lớn
lao mở đầu thế kỷ 21"). Người phỏng vấn: H. Uno. Người dịch ra tiếng
Pháp:
R. Nakamura.
Người phỏng vấn: Theo ông,
đâu là cội nguồn của vấn đề người Việt tị nạn?
Michel Foucault: Việt Nam
không ngừng bị chiếm đóng, trong một thế kỷ, bởi những thế lực quân sự
như
Pháp, Nhật, và Mỹ. Và bây giờ cựu-Miền Nam bị chiếm đóng bởi cựu-Miền
Bắc. Chắc
chắn, cuộc chiếm đóng Miền Nam bởi Miền Bắc thì khác những cuộc chiếm
đóng
trước đó, nhưng đừng quên rằng, quyền lực Việt Nam của Miền Nam hiện
nay, là thuộc
về Việt Nam của Miền Bắc. Suốt một chuỗi những chiếm đóng trong một thế
kỷ như
thế đó, những đối kháng, xung đột quá đáng đã xẩy ra ở trong lòng dân
chúng.
Con số những người cộng tác với kẻ chiếm đóng, không nhỏ, và phải kể cả
ở đây,
những thương gia làm ăn buôn bán với những người bản xứ, hay những công
chức
trong những vùng bị chiếm đóng. Do những đối kháng lịch sử này, một
phần dân
chúng đã bị kết án, và bị bỏ rơi.
-Rất nhiều người tỏ ra nhức
nhối, vì nghịch lý này: trước đây, phải hỗ trợ sự thống nhất đất nước
Việt Nam,
và bây giờ, phải đối diện với hậu quả của việc thống nhất đó: vấn đề
những
người tị nạn.
Nhà nước không có quyền sinh
sát - muốn ai sống thì được sống, muốn ai chết thì người đó phải chết -
với dân
chúng của mình cũng như dân chúng của người – của một xứ sở khác. Chính
vì
không chấp nhận một thứ quyền như thế, mà [thế giới đã] chống lại những
cuộc
dội bom Việt Nam của Hoa Kỳ và, bây giờ, cũng cùng một lý do như vậy,
giúp đỡ
những người Việt tị nạn.
-Có vẻ như vấn đề người Căm
Bốt tị nạn khác với của người Việt tị nạn?
Chuyện xẩy ra ở Căm Bốt là
hoàn toàn quái đản trong lịch sử hiện đại: nhà cầm quyền tàn sát sân
chúng của
họ, theo một nhịp độ chưa từng có, chưa từng xẩy ra, chưa từng đạt tới.
Và số dân
chúng còn lại, lẽ dĩ nhiên, coi như là sống sót, và họ đang sống dưới
sự đàn áp
của một quân đội chỉ lo việc hủy diệt, và tỏ ra tàn bạo. Hoàn cảnh như
vậy
không giống Việt Nam.
Ngược lại, điều quan trọng ở
đây là sự kiện này: trong những tổ chức, lực lượng đoàn kết tương trợ,
được
thành lập trên khắp thế giới, nhằm hỗ trợ những người tị nạn vùng Đông
Nam Á
Châu, người ta đã bỏ qua, không tính tới sự khác biệt về những hoàn
cảnh lịch
sử và chính trị. Như vậy không có nghĩa là, người ta có thể tỏ ra rửng
rưng,
không thèm để ý tới những nghiên cứu lịch sử và chính trị của vấn đề
người tị
nạn, nhưng điều khẩn thiết cần phải làm liền, là cứu những con người
đang gặp
nguy hiểm.
Bởi vì, vào lúc này, bốn chục
ngàn người Việt Nam đang chới với trên biển Đông, trước khi tới được
đảo, cận
kề với cái chết. Bốn chục ngàn người Căm Bốt đang ngột ngạt tại Thái
Lan, và
cũng đang cận kề với cái chết. Như vậy là không kém con số tám chục
ngàn người
đang ngày đêm cận kề với cái chết. Mọi tính toán so đo, về sự cân bằng
tổng
quát những sứ xở trên trái đất, những khó khăn chính trị và kinh tế đi
cùng với
sự cứu trợ người tị nạn – tất cả những so đo tính toán như vậy không
thể nào
biện minh cho việc những nhà nước [trên thế giới] bỏ rơi những con
người, ở
ngưỡng cửa của cái chết.
Vào năm 1938 và 1939, người
Do Thái chạy trốn khỏi Đức Quốc và Âu Châu, nhưng do chẳng có ai đón
tiếp họ,
cho nên đã có những người trong số đó bị chết. Bốn chục năm đã qua, kể
từ đó,
không lẽ bây giờ người ta lại đem cái chết đến cho hàng trăm ngàn người?
-Về một giải pháp mang tính
toàn cầu đối với vấn đề người tị nạn, những quốc gia gây ra tình trạng
này, đặc
biệt là Việt Nam, phải thay đổi đường lối chính trị. Nhưng bằng cách
nào, theo
ông, người ta có thể có được một giải pháp toàn cầu?
Trong trường hợp Căm Bốt,
tình hình bi đát hơn là so với Việt Nam, nhưng lại hy vọng có được một
giải
pháp, trong tương lai gần. Người ta có thể tưởng tượng ra, sự thành lập
một
chính quyền có thể được dân chúng Căm Bốt chấp nhận, và từ đó, giải
pháp ló ra.
Nhưng với Việt Nam, vấn đề phức tạp hơn nhiều. Quyền lực chính trị đã
được tạo
dựng, thế nhưng mà, quyền lực này coi là ngụy (exclure: đuổi, khai trừ)
một
phần dân chúng, và lẽ dĩ nhiên, những con người bị khai trừ này không
muốn điều
đó. Nhà nước đã tạo ra một tình trạng là, những con người bị khai trừ
bắt buộc
phải chọn cái tình thế bấp bênh, hiểm nghèo như là một cơ may sống sót,
tức là
trao thân cho biển cả quyết định, thay vì ở lại Việt Nam. Rõ ràng là
phải tạo
áp lực để cho Việt Nam thay đổi đường lối chính trị. Nhưng "tạo áp
lực" nghĩa là gì?
Tại Genève, trong hội nghị
của Liên Hiệp Quốc về vấn đề người tị nạn, những quốc gia thành viên đã
đưa ra
áp lực đối với Việt Nam, áp lực theo nghĩa đòi hỏi, yêu cầu, hoặc gợi
ý, cố vấn
(conseil). Nhà cầm quyền Việt Nam do đó đưa ra một số nhượng bộ. Thay
vì bỏ rơi
những con người muốn ra đi, trong những điều kiện bấp bênh, và có thể
mất mạng,
nhà cầm quyền Việt Nam đề nghị xây dựng những trại chuyển tiếp, để gom
lại
những người muốn ra đi: những người này sẽ ở đây hàng tuần, hàng tháng,
và hàng
năm, cho tới khi có quốc gia nhận họ.... Nhưng đề nghị này tương tự, lạ
lùng
làm sao, với những trại cải tạo.
-Vấn đề người tị nạn đã từng
xẩy ra nhiều lần trong quá khứ, nhưng, giả dụ như có một khía cạnh lịch
sử mới
mẻ, trong trường hợp những người Việt tị nạn, theo ông, khía cạnh này
mới mẻ
này là gì?
Thế kỷ 20 xẩy ra nhiều vụ
diệt chủng và bách hại sắc tộc. Tôi nghĩ là, trong một tương lai gần,
những
hiện tượng này lại tái diễn, dưới những hình thức khác. Bởi vì, thứ
nhất, những
năm mới đây, con số những nhà nước độc tài cứ tăng lên mà không giảm
đi. Bởi vì
tự do diễn đạt tư tưởng chính trị là điều không thể có được tại những
quốc gia
như vậy, và lại chẳng làm sao có được một lực lượng kháng chiến, những
con
người bị khai trừ bởi chế độ độc tài đành phải chọn cách trốn khỏi địa
ngục.
Thứ hai, trong những xứ sở
cựu thuộc địa, người ta tạo nên nhà nước bằng cách tôn trọng biên giới
như là
đã có từ hồi còn thuộc địa, đến nỗi, những sắc dân, những tiếng nói,
những tôn
giáo cứ thế trộn lẫn vào nhau. Hiện tượng này tạo nên những căng thẳng
nghiêm
trọng. Trong những xứ sở như vậy, những đối kháng ở trong lòng dân
chúng có
nguy cơ bùng nổ, đưa đến tình trạng di chuyển một số lượng lớn dân
chúng, và sự
sụp đổ cơ chế nhà nước.
Thứ ba, những sức mạnh kinh
tế tại những xứ sở phát triển, do cần lực lượng lao động từ thế giới
thứ ba, và
từ những xứ sở đang trên đà phát triển, đã kêu gọi di dân từ Bồ Đào
Nha,
Algérie, hay Phi Châu. Nhưng, ngày nay, những xứ sở này, do kỹ thuật
tiến bộ, đã
không cần tới lực lượng lao động chân tay, và lại tìm cách xua đuổi di
dân.
Tất cả những vấn đề trên đẻ
ra cơn lũ di dân, hàng trăm hàng triệu người. Và thật bi thảm, thật
nhức nhối,
với những người chết, những vụ sát nhân. Tôi sợ rằng, chuyện xẩy ra tại
Việt
Nam không chỉ là một tiếp nối của quá khứ, mà nó tạo nên một điềm báo
cho tương
lai.
Jennifer Tran chuyển ngữ.
Chú thích:
Vào ngày 20 tháng Sáu, năm
1979, Michel Foucault, cùng với Bernard Kouchner - người sáng lập cơ
quan thiện
nguyện Y Sĩ Không Biên Giới, và cũng là người biến đổi con thuyền Đảo
Ánh Sáng
thành bệnh viện, ở ngay trên biển, ngoài bờ đảo Poulo Bidong – và André
Gluckmann, triết gia Pháp, tổ chức một cuộc gặp gỡ báo chí tại Collège
de
France; trong số những người tham dự và được mời vào bàn chủ tịch có cả
Sartre
và Aron. Đây là cuộc họp nhằm hỗ trợ cho làn sóng người Việt tị nạn,
tức những
thuyền nhân (boat people). Và vào ngày 17 tháng Tám, khi tạp chí Nhật
Bản
Shukan posuto làm một phóng sự về "Những Người Cực Kỳ Quan Trọng Ở Trên
Thế Giới", Michel Foucault đã tuyên bố: Vấn đề người tị nạn là điềm báo
mở
ra cuộc di dân vĩ đại đầu thế kỷ 21, qua cuộc phỏng vấn nêu trên.
Nhật Bản là một nước đặc biệt
quan tâm tới Việt Nam, trước cũng như sau cuộc chiến. Mới đây thôi, một
đại học
Nhật đã mời hai nhà văn của hai miền trực tiếp tham dự cuộc chiến là
Phan Nhật
Nam và Bảo Ninh tham dự cuộc hội thảo mà đè tài của nó, một cách nào
đó, có thể
coi như tương tự với đề tài của đại học WJC hiện đang gây sôi nổi trong
và
ngoài nước. Đáng tiếc là Bảo Ninh đã không thể tham dự.
Trong những số tới, người
viết sẽ tiếp tục giới thiệu Michel Foucault, qua những cuộc nói chuyện
với giới
tinh anh Nhật Bản về chủ nghĩa Cộng Sản, về cuộc chiến Việt Nam... nhân
lần ông
ghé thăm đây. Cần nói thêm là tất cả những tác phẩm của Foucault đã
được dịch
ra tiếng Nhật.
"Chuồng
Gấu", nhìn từ Rừng sau nhà
Note: Tiệm
này bán báo Tây là chính, không bằng 1 tiệm khác, chuyên
trị sách Tây, thứ thật dữ cũng có. Nhưng “hạ cờ Tây” mất rồi:
Librairie
Champlain: A French Bookstore - CLOSED
City's lone
French bookstore to close
Ui chao Gấu
có không biết là bao nhiêu kỷ niệm với tiệm này. Cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết, mua ở
đây, khi nó vừa được tái bản. Mua gửi NN, giữ cuốn cũ lại, của 1 ông
bạn, quen
qua NTV, ở Montreal tặng. Ông này mua cuốn này cùng thời với Gấu, mua ở
Sài
Gòn, những ngày mới làm quen với Lukacs. Cả một bộ Ðệ Nhất Kỳ Thư, Dits et Écrits mấy ngàn trang của
Foucault, gồm 4 tập. Cuốn Bịnh Nhân Anh,
bản tiếng Tây, mua chỉ vì cái bài giới thiệu bản tiếng Pháp.
Ðó là thời
gian đọc sách. Khi có internet, kể như không còn ghé tiệm nữa. Tiệm
đóng cửa
cũng chẳng hay.
Ðệ Nhất Kỳ Thư là nick của NTV gọi bộ sách của
Foucault.
Trong tiệm cũng có 1 khu trưng bày sách cũ. Gấu vớ được 1 cuốn về
Kafka, gồm gần
như toàn thể những phê bình gia hách xì xằng nhất thế giới, viết về
ông. Có những
quầy thật dặc biệt, dành cho từng nhà xb, từng tủ sách, Gallimard,
Point, Policier... Tất nhiên làm sao thiếu khu dành cho
sách mới ra lò, sách được giải thưởng...
Cái tiệm sách báo Tẩy cũng dẹp rồi. Mấy tờ báo
văn học Tẩy, mấy tháng nay cũng không về.
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/09/con-duong-nguyen-du.html
Kiều vs Văn Tế
Dùng hình ảnh, để minh họa, thì Kiều là số phận của 1 người đàn bà, thí dụ em Phượng, trong Người Mỹ Trầm Lặng,
mà như tay ký giả Hồng Mao, Fowler, ghiền, khuyên Pyle,
hãy mang em về Mẽo, quên cha cái gọi là lực lượng
thứ ba, và luôn cả cái xứ Mít này đi.
Và đúng như thế, như 1 con phượng hoàng tái sinh
từ tro than, em Phượng này cứ thế nở rộ, và trở thành
1 hiện tượng, lấy chồng ngoại nhân, và theo chồng mà
đi, vừa thoát kiếp Mít, vừa trả ơn sinh thành.
Còn Văn Tế, là dành cho, thí dụ, những cái mả tập thể của Huế Mậu Thân.
Khác nhau.
Bài viết này, theo như Gấu được biết, đang được giới tinh anh
trong nước ca rầm trời, nhưng theo Gấu, hỏng, vì tham quá.
Gấu bị mấy vì thân hữu TV chê, ôm đồm
quá, là cũng theo ý này, nhưng tất cả những bài
viết của Gấu, trên TV, là xoáy về chỉ có 1 câu
hỏi, ”tại sao Lò Thiêu”.
Bài này, của NL, đúng ra phải viết về cùng 1
ý hướng, tâm trạng như thế, tức là, tìm ra cái
giống, và không giống, giữa Kiều và Văn Tế.
Bỏ hết mấy thứ rác rưởi, những đấng cù lần như Kim Trọng, thí dụ.
Luôn cả Văn Cao. Để khi khác. trong 1 bài viết khác.
Gấu cũng đã từng sử dụng ý hướng này, khi đặt câu
hỏi tại sao, Đỗ Long Vân viết, “Vô Kỵ giữa chúng ta”,
cũng như tại sao, Nhượng Tống dịch “Mái Tây”:
Vào lúc viết/dịch như thế, họ ngửi ra… cái chết?
Với Nhượng Tống, ông ngửi ra VC sắp làm thịt ông, còn
với DLV, ông ngửi ra Bắc Kít sắp vô… Saigon?
Bất cứ 1 tác phẩm lớn, đều có 1 cái đinh - tức thời
điểm lịch sử - để treo tác phẩm, mô phỏng A. Dumas, khi bị chê
hiếp dâm lịch sử, đẻ ra toàn hoang thai. “Bếp Lửa” 1954; “Một
Chủ Nhật Khác”, là cùng thời điểm DLV viết “Vô
Kỵ giữa chúng ta”.
Kim Dung, khi viết chưởng, thì đều mở ra bằng 1 chi tiết/sự kiện lịch sử, là cũng ý đó.
Ông cần 1 cái đinh, để treo tác phẩm của mình.
Re Văn Cao. Văn Cao theo Gấu có gì giống Joseph Roth, nhờ giết
người mà được vô nước Chúa, và trở thành
Thánh:
Với những
độc giả Việt Nam thường quan tâm tới
văn học Việt Nam, và số phận hẩm hiu của những nhà văn An Nam khổ như
chó, nhất
là của những người thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt là Văn Cao:
họ đều
mang bóng dáng những nhân vật của Roth, đều cưu mang những đề tài của
Roth.
Chúng ta cứ tự hỏi, tại sao ông [Roth] không thể đi Mẽo: hãy giả dụ một
ông Văn
Cao di cư vào Nam, và sau đó vượt biên rồi nhập tịch Mẽo, là thấy ngay
sự tiếu
lâm của nó!
Đề tài cuốn Vị Khách Mời Của Trái Đất [Tarbaras,
The Guest on
Earth], của Roth, thật hợp với Văn Cao, nhưng với rất nhiều khác
biệt. Đây là
câu chuyện, một ông giết người sau đó trở thành thánh, và vì ông giết
người,
sau thú tội, và là người độc nhất thú tội, nên mới trở thành thánh!
Kafka Could
Be Part of Human Memory
"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với
hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa",
thí dụ vậy,
Ferrari hỏi
Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của
thời
chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng
như thế,
nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!
Ui chao em của
GCC, HA, trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết,
thì mất liêu luôn, sao không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn
cả hồi ức
Mít!
Hà, hà!
FERRARI. But
we are told that we cannot make a faithful interpretation of our times
without Kafka's help.
BORGES. Yes,
but Kafka is more important than our times....
Book of Fantasy
Hàm Nghi, Chợ Cũ, 1965
Hình manhhai
Thiên đường ngày nào của GCC
Hồi còn nhỏ, có lần, Gấu suýt chết đuối.
Thấy người ta nhảy xuống sông, bơi ào ào, thì
bèn cũng nhảy xuống sông, và… cứ thế chìm
xuống đáy.
Một đấng đàn anh đứng kế bên, bèn vội nhảy xuống, lôi lên.
Lạ, là về già, nghĩ lại cú suýt chết, thì
lại hiểu ra, cái anh lớn tuổi, không phải vô tư đứng kế
bên!
Anh ta có cái nhiệm vụ, theo cái kiểu… thiên sứ của Sến!
Khủng khiếp nhất, là cái cú chết hụt, ngày còn
nhỏ, lại lập lại, lần ở PLT, Tiểu Sài Gòn.
Giả như không có vợ chồng ông bạn Bạn, thì chắc chắn ngỏm.
Bà vợ, ngồi trong xe, chỉ ông chồng, anh coi kìa, ông
bạn của anh hình như đang tính lên chuyến tàu
suốt, kìa!
Ông chồng phóng vội xe tới.
Kịp!
Sau này, nghĩ lại, Gấu hiểu ra là, vào mỗi cuộc đời
của Gấu, đều có 1 vì tiên nữ/thiên sứ/.... tới,
an ủi Gấu Cà Chớn!
Không có Cô Bạn, là không làm sao qua nổi cuộc chiến.
Không có nữ thi sĩ, là không làm sao qua được… dư âm cơn địa chấn đó.
Ta bận chồng, bận con, làm sao mà lo được gì cho mi?
Mi làm phiền ta quá, kiếp trước mi đúng là con đỉa!
Reflections
là những bài viết ngắn, về đủ thứ, những chuyến đi, những bài điểm
sách, điểm phim, giới thiệu sách. Trong có hai bài thật thú. Một, về
những tiệm bán sách cũ, và một, tưởng niệm Borges, cũng là kỷ niệm lần
Greene gặp Borges. TV sẽ chuyển ngữ cả hai.
Bài về
những tiệm sách cũ làm Gấu nhớ tới những tiệm sách cũ ở khu Chợ Đũi,
cũng một thiên đường tuổi mới lớn của Gấu cùng với Sài Gòn. Thời gian
quen HPA. Gấu đã kể về chúng trong một bài viết cũ. Đọc bài viết của
Greene còn làm Gấu nhớ tới cái tiệm sách cũ nằm giữa một con hẻm giữa
hai bức tường, của hai căn nhà trên con phố Catinat, cũng gần Quán
Chùa. Gấu thường ghé đó, cùng với ông Hưng, AP man. Cũng một trong
những đền thiêng của VNCH, và cũng bị VC ủi sập, cùng với Givral,
Passage Eden, Quán Chùa.
Tôi
không biết Freud giải thích thế nào về chúng, nhưng trong hơn ba chục
năm, những giấc mơ hạnh phúc nhất của tôi, là về những tiệm bán sách
cũ: những tiệm trước đó tôi chẳng hề biết, hoàn toàn vô danh đối với
tôi, hay những tiệm quen thuộc, cũ xưa mà tôi đang ghé.
Đó là những tiệm sách quen chẳng hề hiện hữu; tôi thật ngại ngần và
đành phải đi đến kết luận như vậy.
Đâu đó, không xa Gare du Nord ở Paris tôi vẫn còn nguyên những kỷ niệm
tươi rói về một tiệm sách ở cuối một con phố dài chạy mãi lên một đỉnh
đồi, một tiệm sách sâu hun hút, với những quầy, giá sách cao thật cao,
và cao như tôi mà cũng phải dùng tới một cái thang, để lục lọi những
giá sách gần đụng trần nhà. Trong ít ra là hai lần, tôi đã lục lọi như
vậy, và tôi tin rằng, đã vớ được bản dịch một cuốn của Apollinaire, nhà
xb Fanny Hill, trong một lần
đó.
Nhưng khi chiến tranh chấm dứt tôi cố tìm tiệm sách cũ trên, vô ích, vô
phương.
Lẽ dĩ nhiên, tiệm có thể biến mất, nhưng con phố, chính nó, cũng đếch
còn. Thế mới quái!
Rồi còn một tiệm sách cũ của London,
nó cứ trăn trở, đi đi lại lại hoài, trong những giấc mộng của tôi; tôi
có thể nhớ ra thật là rõ ràng mặt tiền của nó, nhưng chịu thua, phía
bên trong tiệm. Nó đứng đâu đó trong khu đằng sau Charlotte Street trước khi bạn
tới Euston Road.
Tôi chưa từng đi vô bên trong tiệm, và bây
giờ thì tôi tin chắc là làm đếch gì có
cái tiệm quỉ quái đó, và tôi luôn
luôn tỉnh giấc mơ với cảm giác, ôi chao, sướng ơi là
sướng nếu mình kiếm thấy nó.
Graham Greene
*
Ui
chao, không lẽ Sài Gòn, Khu Chợ Đũi, BHD, Quán Chùa..... của Gấu, thì
cũng chỉ như một trong những tiệm sách cũ, như trên, của Greene?
Nhưng,
giả như thế, thì lại càng tuyệt, tuyệt!
Bởi vì
rõ ràng là, khi dịch "Istanbul", Gấu cũng có cảm giác như vậy,
không phải về những con phố của Istanbul của Pamuk, nhưng mà là của
Sài Gòn. Những đoạn phóng bút, là về Sài Gòn, về BHD của Gấu, không
phải về Istanbul, về BHD của Pamuk!
[Bản
thảo dịch
"Istanbul", dài hơn nhiều, so với bản được in. Và có những đoạn tuyệt
vời về Sài Gòn, BHD. Bữa nào rảnh GCC soạn lại, và post lên TV, để bạn
đọc so
sánh với bản in, và thêm nhớ… cùng với GCC!]
Một
vị thân hữu nhận ra điều này, khi viết:
Những mối tình e ấp , sót lại
những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần đông trong chúng ta,
không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan Hương” của tác
giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể lồng bóng mình và người yêu một thời
(và một đời) của mình gần như vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà
anh đọc đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối tình lý tưởng, trong trắng
và mù quáng đến rũ rượi . Đọc truyện tình của anh, K có cảm tưởng như
nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ lao vào cuộc tình như thế,
không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách hạnh phúc.
Ui chao Gấu Cái đọc đoạn trên,
lắc đầu!
… nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng
sẽ lao vào cuộc
tình như thế, không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một
cách hạnh
phúc.
Đúng là tình
trạng GCC, và mối tình, thê lương tiều tụy, thuần tưởng tượng, với xứ… Bắc Kít, qua 1 em Bắc Kít, chưa từng gặp mặt!
(1)
Ta đâu còn
chút thì giờ nào dành cho mi? Ta bận chồng, bận con, bận đủ thứ, bận
“viết” nữa….
Hà, hà!
.... và tôi
luôn luôn tỉnh giấc mơ với cảm giác, ôi chao, sướng ơi là sướng nếu
mình kiếm
thấy "em"!
(1)
Tuy nhiên, đọc
kỹ, thấy mùi vị hiện sinh, Camus, trong Người đàn bà ngoại tình. Truyện
ngắn
này, hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus là đều chỉ để nói về Lưu đầy
và Quê
nhà: Quê nhà là cõi đã mất kia.
Coetzee đọc The
Pickkup của Gordimer, coi như được mặc
khải từ Người đàn bà ngoại tình của
Camus: Câu chuyện một người đàn bà Algeria gốc Pháp, steals away from
her
husband in the night in order to expose herself to the desert and
experience
the mystical ecstasy, physical as much as spiritual, that it induces.
[Coetzee:
Nadine Gordimer]
Cái câu tiếng
Hồng Mao, trên đây, của Coetzee, thì thật là quá tuyệt vời, để diễn cái
ý, ta đâu
có thì giờ dành cho mi, ta bận chồng, bận con…
Ui chao, nhảm,
nhảm thực!
SAIGON 1965 - Street Scene - Ngã
tư giao lộ Cách Mạng 1-11 với Nguyễn Huỳnh Đức, nay là ngã
tư NKKN-Huỳnh Văn Bánh
manhhai
GCC ở khu này, trong 1 con hẻm trên đường NHD, phía sau cây xăng.
Gấu, căn nhà ở hẻm Nguyễn Huỳnh Đức Phú Nhuận, chiếc solex ngày nào, và...
"Làm sao có thể quên được một người đã nói
yêu mình, lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón
H. trên đường tới trường Gia Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn,
buổi sáng sớm sau bao năm trời xa cách, H. đã tự nhiên
ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu."
Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó,
em không có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là
confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy..
Chàng nhớ lời nàng nói, khi phải trả lời tại sao nàng
yêu chàng: "Tại vì anh yêu em nhiều quá."
Tình yêu của nàng giống như một sự đáp ứng, một
sự dội lại tình yêu của chàng. Một lần khác, nàng
trả lời: "Tại vì anh hơn em mười một tuổi." Nàng tỏ vẻ tin
cậy chàng, tin tưởng mối tình của chàng đối với nàng,
tình yêu đồng nghĩa với sự tin cậy, tin tưởng, và kính
trọng. Nàng là một cô gái thông minh, học
giỏi, mới lớn lên, đứng ngập ngừng ở ngưỡng cửa đời sống, tò
mò ngắm nghía đời sống, những người khác, thế giới,
tò mò ngắm nghía xen lẫn chút e dè sợ
sệt, và nàng hy vọng ở chàng, mong có chàng
ở bên cạnh trong đoạn đường đầu tiên khó khăn, nguy hiểm,
và đầy bất trắc đó, như vậy nàng sẽ yên tâm
hơn.
We never grow up - only older, then old- Chúng
ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi
ra, già mãi ra, rồi già.
In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character
tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool
somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding
it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only
happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive
world.
Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại
là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân
vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì
đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên
dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và
một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại
được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái
thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù
thuỷ Nga....
Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười
của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành,
cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?
Hà, hà!
|
|