|
Yiyun Li: Lắng nghe là Tin
tưởng
Tờ The
New
Yorker có mục “Thế Giới Nội”, dành cho đám nhà văn mũi lõ tập tành viết
Tạp Ghi
như… GCC.
TV đã giới
thiệu bài của Tolstaya, nay thêm bài của nữ văn sĩ Tầu Yiyun Li.
Đọc loáng
thoáng đã mê rồi:
Có lẽ giấc mơ của tôi sau cùng đếch phải giấc mơ Mẽo.... Phịa ra
cuộc đời
qua cái việc lắng nghe, hóng chuyện... cho phép “ai đó” sở hữu thường
trực hồi ức.
Perhaps my
dream, in the end, was not an American dream, and my fantasy not a
teen-age
girl's fantasy of love. It's the intensity of one's imagination that
creates a
romance. Eavesdropping and decoding underscore only what does not
belong to
one. Inventing through listening-and inventing knows no
abstinence-allows one
to own a memory permanently. •
Brezhnev
Bus Stop
By
Tatyana Tolstaya
Brezhnev
died on November 10, 1982, just a few days
after I was operated on at Dr. Fyodorov’s famous eye clinic. I was
nearsighted,
and Fyodorov and his doctors, it was said, could correct your vision.
They made
incisions in the cornea, so that it splayed open and then healed closer
to the
lens, where the rays of light focus. (Imagine that you bought a beret
that was
too small, then made slits along the radius and inserted wedges so that
it
would fit your head.) They made the cuts with a Neva razor; they
weren’t using
lasers yet in 1982.
The
doctor’s art consisted of making these incisions
at the correct depth, so that, when the eyes healed, your vision would
be
20/20. You would be able to read not just the big letters at the top of
the
chart but the tiny ones at the very bottom as well. However, for the
three
months it took to heal you’d have aches and sharp pains, and produce
abundant
tears in the presence of even the slightest light. Nighttime was
easier, but
the color green, for some reason, was torture. Traffic-light green. The
excruciating pain lasted a week; after that, the flame under the frying
pan was
turned down, and the sauce just simmered, flaring up occasionally as
chili
peppers were added.
First,
they operated on one eye, and then, a week or
so later, on the other. My first operation must have been on November
5th. It
couldn’t have been on November 7th—the Revolutionary holiday—or on
November 8th
or 9th, because it’s a well-known fact that after holidays doctors’
hands
tremble. And November 6th was a short workday, because, well, everyone
needed
time to stand in line, in case the stores happened to have something
that was
usually in short supply.
I
had the operation, and then for two days the whole
country ate potato salad with mayonnaise, fish in sour cream, and
homemade
cookies, called “nuts,” that were filled with boiled condensed milk.
Then there
was the hangover, low skies, occasional snow flurries, sluggishness,
and, as
always . . . But, no, not at all as always! Brezhnev died! Unbelievable!
We
had thought that Brezhnev was eternal. Not
because he was good or bad or because he understood things or was truly
as
dense as a sack of Party potatoes, as he was in the jokes told about
him:
“Comrade Brezhnev, Christ is risen!” “Thank you, I’ve already been
informed.”
He simply was. He hung over the land like a thick cloud, from which
rain lashed
out or snow fell in heaps. Then, suddenly, the climate changed. But to
what, no
one could say.
Once
the holidays were over, the pastries had all
been eaten, and the tremor in surgeons’ hands had abated, the day to
remove my
bandage and operate on the other eye arrived—November 15th. I took the
metro to
the end of the line, and then travelled by bus to Fyodorov’s clinic, in
Beskudnikovo. The bus slowly made its way across railroad tracks, past
beer
stands with long lines, alongside mountains of crushed rock and garbage
dumps,
through far-flung villages slated for demolition. Angry snowflakes came
spinning down from the gloomy sky as I looked blurrily out the window
with one
eye.
Brezhnev
had died on the tenth, and now, after four days
of official mourning, he would be buried. Five minutes of silence were
to be
observed as he was lowered into the ground. The whole country stopped
for five
minutes, and the bus that was carrying me stopped, too—right on the
train
tracks that it was crossing. We were almost at the eye clinic, but the
driver
turned off the engine. It grew quiet and cold. I looked around. There
were ten
or so people on the bus, all of them patients of the clinic, each with
a
bandaged eye.
I
could sense, physically, the rage that was growing
around me. Ten half-blind Soviet people sat in a bus as cold as the
grave,
while snow whirled and beat against the windows. Ten Cyclopes kept
their single
eyes lowered, so as not to betray any emotion, but the position of the
mouth and
the lines in the forehead can be more eloquent than words or eyes. By
the time
the five minutes were up, we were all exhaling vapor; the air in the
bus was
freezing.
Then
the motor turned over, revved, and a weak
stream of warm air began to flow. Thus we bade farewell to an era.
I
returned home in a taxi, almost blind, one eye
patched, the second fully bandaged. I spent three months in
near-darkness.
While my eyes healed, something far more important happened, however:
doors and
windows opened inside me, and I developed a new, internal vision. By
the time
the pain had passed and I could throw away my dark glasses, I could see
like an
eagle, even in the dark. And I began to write.♦
Note:
Bài này thấy trên The New Yorker,
số mới nhất, 22 Dec, trên net, chưa thấy ở tiệm, GCC bèn phải dùng 1
cái PC khác, số IP khác, mới copy & paste được, vì máy PC của Gấu,
nó đếch cho đọc free nữa, quá limit rùi.
Thường thì vẫn mua báo giấy, nhưng tiện, là cứ copy & paste, thay
vì scan.
Còn
mấy bài nữa về Mẽo tra tấn tù, thí dụ bài về Cựu Phó Tông Tông Mẽo, rất
mê tra tấn tù
Torture
in a Dick Cheney Minute
What,
exactly, has President Barack Obama done to
make sure that future Presidents don’t torture prisoners? On “Meet the
Press”
on Sunday, Dick Cheney, the former Vice-President, made it clear that
he, for
one, given the chance, would seize waterboarding paraphernalia, and get
to it.
“I’d do it again in a minute,” he told the host Chuck Todd. John
Brennan, the
director of the Central Intelligence Agency, made it just as clear, in
a news
conference on Thursday, that the C.I.A. would not stand in the way of
future
White Houses: “I defer to the policymakers in future times when there
is going
to be the need to make sure this country stays safe if we face a
similar type
of crisis.” Neither man would call what the C.I.A. did torture. Each,
in his
own way, suggested that American torturers have not faced a reckoning
so much
as a lull in their business.
Cheney
to Lead Torture-Pride March
WASHINGTON
(The Borowitz Report)—In an appearance on
NBC’s “Meet the Press,” on Sunday, former Vice-President Dick Cheney
told host
Chuck Todd that he was “sick and tired of Americans being ashamed of
our
beautiful legacy of torture” and that he was organizing the first
“National
Torture-Pride March” to take place in Washington in January.
“This
is a chance for all of us torturers to say,
‘Look at us, this is who we are,’” Cheney, who will be the Grand
Marshall of
the parade, said.
Mấy
bài này, độc giả có thể đọc, trên tờ The New Yorker, free, trừ GCC!
Bài của Tolstaya, có đoạn về mổ mắt
bằng tia laser. GCC đã trải qua kinh nghiệm này rồi. Thần sầu. Mắt của
Gấu, do
lé, 1 mắt chỉ nhìn được 1/10. Con mắt còn lại OK, nhưng trở thành mù
dở, do
sống với VC, và do bị cataract. Đến Canada một phát, là chúng lôi ra
mổ, chẳng
tốn 1 đồng xu ten [bi giờ phải trả tiền rùi, Health Care không bao,
cover,
nữa].
Thời gian mới tới, Gấu không biết mặt mũi - dung nhan đúng hơn - cô bạn
cũ ra làm sao. Sau khi mổ mắt, 1 bữa buột miệng, KA mới cắt tóc hả?
Bữa khác,
KA mặc cái áo đỏ đẹp quá, cả Gấu Cái lẫn ông chồng của cô bạn chán quá,
đều lắc đầu!
Hà, hà!
Tập truyện ngắn: Trên cái vòm cổng bằng vàng
Tatyana
Tolstaya sinh tại Leningrad 1951, là great-grandniece của Leo Tolstoi,
và là grand-daughter của Alexei Tolstoi. Brodsky ca tụng bà: "The most
original, tactile, luminious voice of Russian prose today".
Thú thực, GCC chỉ mê những bài điểm sách, hay essays của bà.
TATYANA
TOLSTAYA
Dreams of Russia, Dreams of France
Review of Dreams
of My Russian Summers, by Andrei Makine, translated from the
French by Geoffrey Strachan (Arcade, 1997)
Andrei Makine
Chuyện Tình
Chính Uỷ Biến Mất
Sông Tình Một Thuở
[Bài điểm này của GCC, không phải của Tolstaya]
Tây-phương vẫy gọi...
Andrei Makine sinh tại Novgorod, năm 1957, tiến sĩ văn chương đại học
Moscow, giáo sư Học viện sư phạm Novgorod trước khi qua Pháp dạy tiếng
Nga.
Cuốn Sông Tình Một Thuở (Au temps du fleuve Amour, nhà xb Félin, 1994)
của ông mở ra bằng những dòng:
Cái đẹp không phải là mối bận tâm tại xứ sở mà chúng tôi sinh ra. Chúng
tôi có thể qua đi hết cuộc đời mà chẳng cần hiểu, người ta đẹp hay xấu;
chẳng để tâm đến những góc cạnh của bộ mặt; chẳng tìm tòi sự bí mật gợi
cảm, gợi dục của thân thể con người. Trong cái cõi khô cằn khắc nghiệt
này, tình yêu thật khó bắt rễ. Nếu có chăng, là thứ tình yêu - tội lỗi.
Nó lấp ló đâu đó, cùng với những ngày đông tàn nhẫn, giữa đám đàn bà
túm lấy nhau ở giữa làng, để trao đổi tin động trời. Họ chỉ thì thào,
nhưng mớ khăn dầy làm cho họ phải la lên. Những cái tai nhỏ dại của
chúng tôi lại cứ phải nghe rõ mồn một. Lần này là bà hiệu trưởng, trên
chiếc xe hàng, đậu ngay tại Ngã Ba Quỉ, nơi năm nào cũng có ít nhất một
vụ lật xe. Ôi chao, bà hiệu trưởng khô đét như con mắm, không thể đoán
được tuổi, làm sao tưởng tượng được cái cảnh một thân hình như thế, nằm
trong tay gã tài sặc mùi xăng, mùi thuốc lá! Mà lại ở ngay cái ngã ba
quỉ sứ đó! Đã bảo rồi, cái làng này, ngay từ hồi được sinh ra, đâu phải
nơi trú ẩn của tình yêu. Đám cô-zắc của Nga hoàng đã dựng nó lên, cách
đây ba thế kỷ, rồi quên luôn. Dúm đàn ông trong làng bị khu rừng taiga
bạt ngàn nuốt hết sức lực. Trong giấc mơ mệt nhoài, họ vẫn còn bị săn
đuổi bởi tiếng sói hú ghê rợn. Cái lạnh Nga lại là một chuyện khác nữa.
Nó như chẳng hề biết giới hạn là gì. Mỗi lần lỡ khép mắt lại một lát,
là mớ lông mi không chịu mở ra nữa. Râu dựng lên như những ngọn mác.
Đàn bà hả? Lẽ dĩ nhiên họ cũng yêu chứ. Cặp mắt đầy nét nhăn, mặt lầm
lì vẫn thấp thoáng bóng mờ của một nụ cười thần bí; đám Cô-zắc yêu họ
trong bóng tối của căn lều ám khói, bên mấy cục than hồng hồng, trên
những tấm da gấu. Nhưng kỳ cục làm sao, là thân thể những người tình
lặng lẽ đó. Những làn da tẩm mỡ nai trơn tuột, muốn giữ họ là phải dùng
những sợi roi ngựa cuốn chặt vào cổ tay. Ngực họ hả? Thì cứ bằng bằng,
tròn tròn như mấy vòm cung nhà thờ Kiev. Háng cứng ngắc, và lúc nào
cũng chực nổi loạn. Nhưng khi đã chịu phép, đôi mắt long lanh như nét
gươm dao, cặp môi cuộn tròn như sẵn sàng cắn. Và làn da của họ được hun
lên bởi ánh lửa, và cái lạnh, mỗi lúc một thêm dữ dằn, mời gọi. Cơn say
này không dễ tàn đâu... Anh chàng Cô-zắc lại xoắn thêm mấy vòng roi
ngựa vào cổ tay, và con mắt hi hí của người đàn bà lại lóe lên một ánh
cười ranh mãnh...
Đột nhiên tất cả đều đảo
lộn. Tây-phương ra dấu... Thoạt tiên là con tầu xuyên - Tây Bá lợi Á.
Con tầu huyền bí. Rồi một phim Pháp, viễn ảnh về một cõi đời rực rỡ...
Nhưng tại sao lại là (tài
tử Pháp) Belmondo?
Với cái mũi dèn dẹt, anh
ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi - taiga, vodka, những trại
- là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ đẹp man rợ hằn
lên những đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta?
Bởi vì anh ta chờ đợi chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc
thềm một lâu đài tráng lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và
cuộc sống thường ngày của anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi.
Người ta theo anh vào tới cái điều không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi còn yêu anh, bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những
chiến công. Bởi sự phi lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới
mà chúng tôi sống dựa trên tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát.
Đó là luận lý của chúng tôi. Những buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là
một biểu tượng cao cả. Ngay cả trại (tù) cũng có chỗ đứng ở trong cái
trật tự hài hòa đó.
Rồi Belmondo tới cùng với những thành quả chẳng để làm gì, những trình
diễn chẳng cần mục đích, chủ nghĩa anh hùng rẻ tiền, miễn phí
(gratuit). Chúng tôi khám phá ra rằng, sự hiện hữu xác thịt của con
người tự nó là một cái đẹp. Chẳng cần bất cứ một ngụy tư tưởng mang
tính ý thức hệ, hoặc vì tương lai. Kể từ ngày đó, chúng tôi biết, về
cái tự tại, tự thân tuyệt vời có tên là Tây-phương.
Lại còn cuộc gặp gỡ tại phi trường. Người nữ điệp viên chờ đón vị anh
hùng của chúng tôi phải có một vật gì đó để họ nhận ra nhau. Dữ thần
chưa, đó là một... karavai, một mẩu bánh mì đen, được gọi bằng cái tên
chính hiệu Nga của nó, trong một phim Pháp! Một tiếng rú vang lên, và
cùng với nó là lòng tự hào Nga chạy dài theo suốt những hàng ghế trong
rạp Tháng Mười Đỏ... Khi trở lại Svetlaia, chúng tôi chỉ nói về chuyện
đó: vậy là, ở nơi chốn Tây-phương xa vời kia, họ cũng biết một tí, rằng
chúng tôi hiện hữu!
Hoàng Xuân Trường, trong
bài viết trên Thế Kỷ 21, số tháng Tám, 1997, kể về một trong những lý
do vượt biên của ông. Có cả ngàn lý do, nhưng thiếu kiếm hiệp cũng là
một. Ông cho rằng, xã hội cộng sản cấm kiếm hiệp chẳng phải vì nó viễn
mơ, không có tính đảng, tính giai cấp, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa,
mà vì những nhân vật của Kim Dung như Hồng Giáo Chủ, Tinh Tú Lão Quái,
Đông Phương Bất Bại... đã gợi đến những lãnh tụ muôn vàn kính yêu của
họ.
Kinh nghiệm vượt biên của
ông làm tôi nhớ đến của tôi, khi rời bỏ Hà-nội. Năm 1954, dân Hà-nội
chỉ đâu một hai tuần là quá ớn phim ảnh xã hội chủ nghĩa. Trong tình
trạng còn xập xí xập ngầu đó, cũng có thể do chủ trương của nhà nước,
(thời gian 300 ngày tự do của Hải-phòng), một ông chủ rạp đã cho chiếu
lại một phim cũ, thuộc loại vô thưởng vô phạt. Tôi còn nhớ, đó là một
phim của Ý, về một vị nữ y tá, hình như còn là nữ tu, muốn rời bỏ tu
viện, và bệnh viện, để đi theo bồ. Đúng lúc bà rời bỏ, thì những đoàn
xe đưa binh sĩ bị thương tới bệnh viện. Và bà đã quyết định ở lại. Bữa
đó, cả Hà-nội sắp hàng vô coi phim! Còn thằng bé thì sau đó, tìm đủ mọi
cách xuống Hải-phòng, trước còn xem phim, rồi về, sau đi luôn!
Cuốn tiểu thuyết mới nhất
của Andrei Makine, Tội Ác của Olga Arbélina, (nhà xb Mercure de France,
290 trang), là một cuộc truy tìm thời gian đã mất, về một tội ác còn
hơn cả sát nhân. Tên nhân vật, tên trên bia mộ, là của một công chúa,
một nữ tội phạm, chết vào những năm 1960. Và còn là một kẻ sống sót sau
cách mạng, trốn được sang Paris cùng với đứa con, sống giữa một cộng
đồng Nga, già nua, buồn tẻ như một buổi sáng tuyết. Bị ám ảnh bởi chính
cuộc đời không làm sao cứu chuộc, bà trở nên điên khùng, xa lạ cả với
con, với mình... Tội Ác của Olga mở đầu bằng tiếng thét muôn đời mà
những trang sách còn lại cứ mỗi lúc một khuếch đại thêm lên mãi: Mi đã
làm chi đời ta! Mi đã làm chi đời ta?
NQT
On
Brodsky
T. Tolstaya
Ai
cho phép mi là thi sĩ?
Theo Tatyana Tolstaya, nhà
văn nữ người Nga hiện đang giảng dạy môn văn chương Nga và viết văn,
creative writing, tại Skidmore College, thoạt đầu, ông rất muốn về, ít
nhất cũng như vậy. Ông đã từng nổi giận về những lời trách cứ. "Họ
không cho phép tôi về dự đám tang ông già. Bà già chết không có tôi ở
bên. Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý do, theo Tolstaya,
là ông không thể về. Ông sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những ngôi mộ bị
đào bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì ông đã làm được,
với quá khứ của ông, trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã
từng vĩnh viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.
Mỗi lần từ Nga trở về, hành trang của
Tolstaya chật cứng những bản thảo của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng
không nặng gì lắm đâu. Xin trao tận tay thi sĩ. Nói ông ta đọc. Tôi chỉ
cần ông ta đọc". Ông đã đọc, đã nhớ và đã nói, thơ của họ tốt... Và ca
ngợi điều may mắn. Và những nhà thơ trẻ của chúng ta đã hất hất cái
đầu, ra vẻ: "Thực sự, chỉ có hai nhà thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky và
chính tôi". Ông tạo nên một cảm tưởng giả, ông là một thứ ‘Bố già văn
nghệ’. Nhưng chỉ một số ít ỏi thi sĩ trẻ đã từng nghe ông rên rỉ: Sau
cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta
tiếp tục sống!
Ông không tới với nước Nga, nhưng nước Nga đến với ông. Nhà thơ Nga kỳ
cục không muốn bám rễ vào đất Nga.
Kỳ cục thật, bởi vì đã từ lâu, thế hệ lạc loài được Hemingway mô tả
trong Mặt Trời Vẫn Mọc, The Sun Also
Rises vẫn luôn luôn là một ám ảnh đối với những kẻ bị bứng ra
khỏi đất. Nếu không trở nên điên điên, khùng khùng thì cũng bị thương
tật, (bất lực như nhân vật chính trong Mặt Trời Vẫn Mọc), bị bệnh kín
(La Mort dans l'Âme: Chết trong Tâm hồn), và chỉ là những kẻ thất bại.
Đám Cộng sản trong nước chẳng vẫn thường dè bỉu một nền văn chương hải
ngoại?
Nhưng Brodsky là một ngoại lệ. Nước Nga
đã đến với ông. Thơ ông được xuất bản, đăng tải trên hầu hết các báo
chí tại Nga. Trong một cuộc thăm dò dư luận tại đường phố Moscow: "Ông
có mong ước, hy vọng gì liên quan đến cuộc bầu cử?", một người thợ mộc
đã trả lời: "Tôi chỉ mong sống một cuộc đời riêng tư. Như Joseph
Brodsky".
Lượm Tuyết
ST. PETERSBURG has one
sea, one hundred and one islands, and endless rivers. There's no point
in trying to count them: the sky is the source of the most important
river - rain. Rain floods the city's canals; it saturates buildings,
gardens, earth, and stones. All summer, it falls in a soft drizzle or
in torrents. Occasionally, there are small interludes, during which the
inhabitants of Petersburg raise their eyes and discover magical sunsets
in maritime hues-green, gold, and violet-and gaze in astonishment at
the beauty of their city: its palaces, arches, columns, spires, and
cupolas. Everything is spectral, a watery gold trembling in the air and
reflected in the waters. But these flashes of light are brief, and the
most lasting impression, the image I have carried with me since
childhood, is of a snow-filled black-and-white print.
The snow
begins to fall in October. People watch for it impatiently, turning
repeatedly to look outside. If only it would come! Everyone is tired of
the cold rain that taps stupidly on windows and roofs. The houses are
so drenched that they seem about to crumble into sand. But then, just
as the gloomy sky sinks even lower, there comes the hope that the
boring drum of water from the clouds will finally give way to a flurry
of ... and there it goes: tiny dry grains, at first, then an
exquisitely carved flake, two, three ornate stars, followed by fat
fluffs of snow, then more, more, more--a great store of cotton tumbling
down.
Pure
bliss! Winter! The sky, lightened of its load, brightens and seems to
lift. The grimy cornices, roofs, and windowsills are covered instantly:
everything vertical is black, everything horizontal white. The city
becomes a sketch of itself, a huge map or blueprint that is slightly
worn at the corners and intersections-a stage set, the ideal landscape
this city was supposed to be.
Children
race outdoors and tramp across the thin white layer as if it were a
blank sheet of paper, leaving behind clear black footprints. Look a
little closer and those comments they've stomped out in the snow will
be legible; another minute and the footnotes will arrange themselves
into a text, an ode to winter, a hymn to freedom.
But the
snow collectors have already started out. Frightening censors, they are
led by a crazy machine that looks like a lobster with an escalator on
its shoulder. A driver peers out with beady eyes while the machine's
claws rake in the snow with circular movements. The snow, so new,
fresh, free, and precious, is grabbed by the greedy claws and spat back
out onto the escalator. From there, it travels up the lobster's
shoulder and, pressed into tight clumps, drops into a dump truck that
rides quietly along behind the crustacean. The machine, with its metal
plow and whirling claws, scrapes along the ground, baring the
asphalt-taking away our gift and leaving only blackness behind. The
grownups call it a Vuchetich, after a rich Soviet sculptor, a
government favorite, who has covered the country with hideous,
skyscraper-high monstrosities. He's probably paid by the meter, which
is why his statues are so tall; and he rakes in money as fast as the
machine collects snow.
The
Vuchetich moves on, but the snow keeps falling in its wake. The city
slowly recovers from the theft, replenishes itself, emerges whole,
stubborn, unconquered, an etching on white paper, as it was forty years
ago, during my childhood-a sublime and indifferent engraving,
unaffected by any commentary.
- TATYANA TOLSTAYA
(Translated, from the
Russian, by Jamey Gambrell.)
The New Yorker Dec & Jan 1999
Note: Đọc, Gấu bỗng nhớ
đến Nhặt Lá Bàng mở ra Đôi Bạn của Nhất Linh, và bèn dịch
là Lượm Tuyết
Note: Có trong cuốn mới mua,
dưới đây, với cái tít đơn giản hơn: Tuyết
ở St. Petersburg
Lượm tuyết
Thành phố St. Pertersburg
có một biển, một trăm lẻ một hòn đảo, và những con sông dài vô tận. Vô
phương đếm: Bầu trời là nguồn của con sông quan trọng nhất – mưa. Mưa
ngập tràn những con kênh thành phố; nó làm sũng những tòa biu đinh,
những con vườn, mặt đất, và những cục sỏi, những viên đá. Suốt mùa hè,
mọi mùa hè, nó rơi rỉ rả, nhẹ như mơ, hoặc như thác. Lâu lâu, có những
khúc nghỉ nho nhỏ, và những cư dân thành phố ngước mắt nhìn trời và
khám phá những buổi mặt trời lặn thần kỳ trong cái mầu huyền hoặc cầu
vồng biển – xanh, vàng, và tím – và ngỡ ngàng chiêm ngưỡng vẻ đẹp thành
phố. Mọi thứ thì ma mị, và bầu trời thì run rẩy trong cái màu vàng ướt
át, và phản chiếu lại trên mặt nước.
Cuốn của
Tolstaya, order, bữa nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu
trên TV,
đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã
từng đọc ở
Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21,
nhưng không thấy. (1)
(1) Kiếm ra
rồi: Bài điểm cuốn của Robert Conquest: The Great Terror (Oxford
University
Press, 1990): “The Great Terror and the Little Terror”: Khủng Lớn &
Khủng
Nhỏ. Bài viết này, đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan,
mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc
Kít.
Cuốn hồi ký
của Pico Iyer cũng tuyệt lắm. Viết về sư phụ của ông, là Graham Greene,
và nhân
vật ông thật mê, là Người Mẽo Trầm Lặng, Pyle.
TTT biểu thằng
em, trong 1 lần ngồi Quán Chùa, nhà văn An Nam chết non, cứ viết hết
thời thanh
xuân, là ngỏm. Về già Gấu nhận ra, nhà văn Mít chết non vì “đéo” có
Thầy.
Thầy
mũi lõ, không thể có, vì dốt quá, không đọc được chữ mũi lõ, Thầy mũi
tẹt thì lại
càng không có, vì, có thằng nào hơn tao đâu, mà Thầy mới lại chẳng Thầy!
Nên nhớ, nếu bạn thực tình mê văn chương, thực tình muốn có ngày trở
thành nhà văn: Phải có Thầy!
Nguyễn
Tuân mà chẳng xứng
đáng là Thầy ư. Vậy mà Gấu đọc lũ nhà văn Mít, tên nào cũng chê ông!
Hẳn là có
nhiều người bực mình, nhất là mấy đấng nhà văn cũng có tí tên tuổi,
cũng có 1,
hoặc 2 cái truyện ngắn được đời biết tới, chúng ông cũng nổi tiếng vậy,
mà đâu
cần Thầy.
Đúng như thế,
và đây chính là cõi văn Mít, làng nhàng 1 lũ, áo thụng vái nhau,
"đéch" cần Thầy!
|
|