|
Istanbul trình làng!
Sau cú
911, những cuốn tiểu thuyết của Pamuk được coi như là
những sấm
ngôn [oracles]
Những mối tình e
ấp, sót lại những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần đông
trong
chúng ta, không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan
Hương” của
NQT. Anh có thể lồng bóng mình và người yêu một thời (và một đời) của
mình gần như
vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà anh đọc đến, chỉ cần mối tình
ấy là
một mối tình lý tưởng, trong trắng và mù quáng đến rũ rượi. Đọc truyện
tình của
anh, K. có cảm tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ
lao vào cuộc
tình như thế, không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một
cách hạnh
phúc.
K. [Thư luân lưu art2all]
Tks. NQT
*
Tôi thấy chán ốm cả người
khi
đọc Tên tôi là Đỏ, nhưng Istanbul quả đúng
là một kiệt tác khỏi cần bàn cãi,
cuốn sách, như mọi kiệt tác văn chương, duyệt lại quá khứ bằng một cái
nhìn
hiện tại không giống với bất kỳ cái nhìn nào đã từng có. Với Orhan
Pamuk, nước
Thổ đã có thiên tài văn chương của họ. Cũng giống như nhiều thiên tài
văn
chương khác, nhất là ở các nước nhỏ, địa vị của Pamuk luôn chênh vênh
trên một
lằn ranh giữa ngưỡng mộ và khinh thị, ghen tị, nhất là khi tư tưởng
chính trị
của Pamuk là tư tưởng chống đối, nhất là chống mọi biểu hiện Hồi giáo
cực đoan.
NL
Lời
bàn của… MaoTC: Cuốn sách tuyệt vời về mặt văn
học.
Nhưng đọc cuốn sách như vầy, mới đúng. Một tuyệt tác văn học, dù ai nói
gì thì
nói, phải được nhìn từ góc độ chính trị.
Nói rõ hơn, một tác phẩm văn học mà có cái nhìn thiên lệch về chính
trị, và từ
đó, lịch sử, và từ đó, triết học, thì vứt đi!
Chính trị ở trên văn học là vậy.
Để minh chứng, thử đọc Pamuk nhìn Camus, mà không hách ư:
Chính
là từ một thứ lạc quan thời trẻ tuổi [của bất cứ
ai trong chúng ta], đã khiến Camus tạo ra cú làm thịt anh chàng Ả Rập,
và coi
vụ “giết người không suy tư” này, the thoughtless murder, là một
vấn đề mang
tính triết học hơn là thực dân thuộc địa. Và khi một nhà văn sáng
láng với
một tấm bằng về triết học nói về một vị truyền giáo tức giận, hay một
nghệ sĩ
vật lộn với danh vọng, hay một người què leo lên một chiếc xe đạp, hay
một
người đàn ông đi ra bãi biển với người yêu, từ những tình huống đó
Camus chiết
ra những suy tư siêu hình sáng chói, mang tính giả dụ, đề xuất. Như
một nhà
luyện kim, ông biến đổi những chi tiết trần tục, những mảnh vụn của đời
sống,
chuyển hoá chúng vào một bài tản văn siêu hình. Nằm bên dưới nó, lẽ
dĩ
nhiên, là cả một truyền thống, cả một lịch sử dài của tiểu thuyết triết
học của
Pháp, mà Camus, cũng chẳng kém gì Diderot, thí dụ, đều thuộc về nó. Chẳng
tỏ
ra một chút cố gắng khi quyện mình vào truyền thống, đó là tài năng
riêng của
Camus. Và điều này là nhờ ở sự cực kỳ thông minh của ông, thêm một chút
thông
thái, một giọng nói quyền uy, có thể nói như vậy - với những câu văn
ngắn giống
như của Hemingway, và một cách tự sự mang tính hiện thực. Mặc dù
những
truyện ngắn của ông thuộc vào truyền thống truyện ngắn triết học trong
có Poe
và Borges, nhưng của ông, do mầu sắc, do sự sống động, do không khí
truyện,
khiến có thể coi ông là một tiểu thuyết gia miêu tả, Camus, the
descriptive
novelist.
Hai
tuyệt chiêu của Camus, tạo khoảng cách giữa ông và
đề tài, và giọng kể thầm thì. Như thể chính ông cũng không làm sao
quyết định
được, có nên đẩy độc giả lậm sâu vào câu chuyện, và sau cùng đành đem
con bỏ
chợ, nghĩa là bỏ mặc chúng ta lơ lửng giữa những âu lo, thắc mắc siêu
hình của
tác giả, và bản văn, chính nó. Đây có thể là sự suy tưởng về những vấn
đề nhức
nhối thương đau mà Camus gặp phải trong những năm cuối đời. Chúng ta có
thể
nhận ra điều này, ở đoạn mở ra Người Câm, khi Camus tự ý thức về tuổi
già. Hay
trong một truyện khác, Nghệ sĩ làm việc, The Artist at Work, chúng ta
có thể
cảm nhận vào những ngày tận cùng của ông, sống căng thẳng, và gánh nặng
vinh
quang đè lên ông mới khủng khiếp làm sao.
Tuyệt!
Ngay từ
nhỏ, từ thuở chập chững
đi những bước đi văn học, GNV đã được ‘trang bị’ bằng những bậc đại sư
phụ,
Camus, Faulkner, nhưng về già mới nhận ra, không có Koestler, vào lúc
đó, thì hỏng
cả!
Đành
phải cám ơn ông Trời một
phát!
Thầy
của Pamuk cũng là...
Faulkner.
INTERVIEWER
Dòng mở ra Cuộc đời mới, “Tôi đọc mỗi
ngày một cuốn sách, và trọn đời tôi thay đổi”. Có cuốn nào tạo ép phê
như thế ở
nơi ông?
PAMUK
Âm
thanh và Cuồng Nộ
rất quan trọng đối với tôi, khi tôi 21 hoặc
22 tuổi. Tôi mua một cuốn của nhà Penguin và cứ thế đánh vật với nó, bằng cái vốn
tiếng Anh ăn đong
của mình. Nhưng nó có một bản dịch tiếng Thổ thật tuyệt, thế là tôi để
hai cuốn
kế bên nhau, và cứ chơi một đoạn bên này đổi lấy một đoạn bên kia. Cuốn
sách để
một dấu ấn lên tôi, phần còn lại thì là cái giọng mà tôi phát triển mãi
ra….
The Paris
Review
Đây là kinh nghiệm Gấu đọc Đêm
Giữa Ban Ngày, của Koestler, bản tiếng Việt
của Phòng Thông Tin Huê Kỳ, cùng với bản tiếng Tây, Le Zéro et
L'Infini.
Đọc và học tiếng Tây cùng một lúc!
Những ống
khói tầu mệt lả
Cách viết sóng sau đè sóng
trước này, là được gợi hứng từ một kỹ thuật âm nhạc Ottoman có tên là ara
taksim. Từ “taksim” có nghĩa chia ra, thu gom lại, chia nước ra
thành từng
dòng, từng khe, và đây là lý do tại sao những cánh đồng lớn, nơi Nerval
nhìn
thấy những người bán hàng rong và những nghĩa địa (và nơi này cũng còn
được sử
dụng như là một trung tâm phân phát nước), được những người dân thành
phố
Istanbul gọi là “taksim”.
Họ vẫn gọi nơi đó bằng cái tên như thế, ngay cả bây
giờ, và đó là nơi tôi rong ruổi hết cuộc đời của tôi, là ‘một góc trời
chỉ biết
ăn chơi”, của GNV!
*
Nhân Istanbul ra mắt độc giả
trong nước, TV "khuyến mãi", bằng cuộc phỏng vấn Pamuk, do The Paris
Review thực
hiện.
Orhan Pamuk
Nghệ thuật giả tưởng
Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul,
nơi ông
tiếp tục sống. Gia đình làm giầu trong nghề xây dựng đường xe lửa vào
những năm
đầu của nền Cộng Hòa Thổ, và Pamuk theo học ở trường Robert College,
nơi dành cho con cái của giới tinh anh, sính ngoại. Khi còn nhỏ, ông mê
hội họa,
nhưng sau khi học kiến trúc, ông quyết định viết. Hiện nay, ông là một
tác giả được
đọc nhiều nhất của Thổ nhĩ kỳ.
Người phỏng vấn:
Ông cảm thấy sao về cái
vụ phỏng
vấn phỏng viếc như vầy?
Pamuk:
Đôi khi tôi cảm thấy không
thoải mái, bởi vì tôi đưa ra những câu trả lời ngu đần cho một số những
câu hỏi
vô nghĩa. Chuyện này xẩy ra trong những cuộc phỏng vấn tiếng Thổ nhiều
hơn là
tiếng Anh. Tôi nói tiếng Thổ tồi, và thường phán những câu cực kỳ ngu
xuẩn. Tôi
bị phạng tơi bời trong tiếng Thổ, vì những phỏng vấn hơn là những
cuốn tiểu
thuyết của tôi. Đám bình luận, chính trị gia bằng mồm, những tay biếm
văn đâu có
bao giờ đọc tiểu thuyết, ở đó.
Đám Âu Châu, Mẽo nói
chung đều
gật gù với những cuốn sách của ông. Còn đám Thổ nơi quê nhà thì sao?
Những năm tháng tốt lành thì đã qua. Khi tôi cho xb những cuốn sách đầu
tiên của tôi, đám
già đều đã "Xưa rồi Diễm ơi", và đều đi theo TCS cả rồi, bởi vậy, tôi
được vồ vập, vì là một tác
giả mới.
Khi ông nói, thế hệ
trước, đám
đàn anh, ông nghĩ đến những tay nào ở trong đầu?
Những tác giả cảm thấy họ có
trách nhiệm xã hội, những tác giả cảm thấy văn chương là để phục vụ đạo
đức, và
chính trị. Họ là những nhà hiện thực tầm tầm, flat realistics, không
phải thứ
thể nghiệm, not experimental. Như những tác giả trong rất nhiều xứ sở
nghèo đói,
họ phí phạm tài năng của mình trong cái việc cố gắng phục vụ quốc gia,
dân tộc
của họ. Tôi không muốn như họ, bởi vì ngay cả khi còn trẻ, tôi mê Faulkner, Virginia
Woolf,
Proust – tôi chưa bao giờ mơ trở thành một đấng hiện thực xã hội chủ
nghĩa như
là Steinbeck hay Gorky.
Thứ văn chương được sản xuất vào thập niên 60 và 70 thì trở thành lỗi
thời, bởi
vậy tôi được chào đón như là một tác giả của thế hệ mới.
Đọc, thấy sao giống GNV và ‘thời
của chàng’ quá xá quà xa: Cũng mê Faulkner, cũng mê Woolf, trừ Proust,
vào đúng
lúc mới lớn. Cũng được dán nhãn ‘tiểu thuyết mới’, hay ‘viễn mơ’, bởi
đám VC nằm
vùng, như Ngài Lữ Phương, thí dụ!
Ngay cái vòng hoa vinh
danh Pamuk, khi ông được Nobel, đám Hàn Lâm Thụy Điển cũng thuổng của
GNV, thế
mới quái! (1)
(1) "Người mà
trong khi tìm kiếm linh hồn sầu
muộn của thành phố quê hương của mình, đã khám phá ra những biểu tượng
mới cho cuộc
đụng độ và quấn quít lấy nhau của những nền văn hoá."
Vòng
hoa trao tặng Pamuk vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó,
là kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù
Bangkok
và trại tị nạn Thái Lan:
Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở
trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường
xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời
đó mới đáng kể...
Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua
với
chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông
chủ thuộc
địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ
thù.
Source
*
Chúc mừng Mr.Tin Văn
From:
To:
Bác Trụ,
Cháu rất vui vì bản dịch Istanbul
đã in ở Hà Nội. Cháu ở Đức nên không có điều kiện mua cuốn này, nhưng
qua những
phần đọc được trên trang của bác, cháu rất thích văn phong dịch trong
đó. Hi
vọng đến lúc về Hà Nội chơi, cháu sẽ mua được một bản.
Cháu mong sẽ được đọc thêm
nhiều bản dịch, cũng như các sáng tác khác, của bác.
Cháu kính chúc bác sức khỏe.
Một người đọc.
Tks. NQT
Mèo khen mèo dài đuôi.
Nói ra thì xấu hổ, nhưng Istanbul
bản tiếng Mít phải nói là thần sầu, hay "khiêm tốn" một chút, một "kiệt
tác", như
NL giới thiệu.
Câu bảnh nhất để mà khen nó,
chôm của Brodsky:
Cái phần đẹp nhất của Gấu thì
đã ở đó, ở Hà Nội, rồi: Istanbul
của Gấu! (1)
[Cái
phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó. Rồi: Thơ Của Tôi. Brodsky]
Source
*
Tks all of U.
Again
NQT
(1) Cái phần đẹp nhất của Gấu,
thì đã có ở đó, ở Sài Gòn, rồi: Những
Ngày Ở Sài Gòn
L'écrivain turc publie
«D'autres couleurs», un recueil d'essais, et
parle des
rapports intenses et conflictuels entre son pays et l'Europe par Orhan
Pamuk
prix Nobel de littérature 2006
Âu Châu,
một Đam mê Thổ
Nhà văn Nobel Pamuk viết về mối tình Âu Châu của ông, nhân dịp ra mắt
Những Mầu
Sắc Khác, bản tiếng Tây
*
Nhà văn là một cái
phong vũ biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán
như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra
trò,
nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì
không thơm,
thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi giờ không
được đẹp
như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về mà khổ cái thân
già, còn
khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ
chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm] bằng gỗ
nhỏ, có
thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng bé còn
thủ
theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên
đường
về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…
Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một,
nhưng, chị
giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết
Miền
Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương của một
miền
đất ở nơi Gấu.
Ui chao, chỉ nội kể về hai
chuyến trở về,
cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu thuyết, "có đầu, có
đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác Gái"!
Mais les circonstances m'ont
aidé. Pour corriger une indifférence naturelle,
je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil. La misère
m'empêcha de
croire que tout est bien sous le soleil et dans l' histoire; le soleil
m'apprit
que l'histoire n'est pas tout. Changer la vie, oui, mais non le monde
dont je
faisais ma divinité. C'est ainsi, sans doute, que j'abordai cette
carrière
inconfortable où je suis, m'engageant avec innocence sur un fil
d'équilibre où
j'avance péniblement, sans être sûr d'atteindre le but. Autrement dit,
je
devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est pas d'art sans refus ni
sans
consentement.
Albert Camus: L’Envers et l’Endroit.
Préface.
Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng
dưng tự nhiên, tôi để
mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin
rằng mọi chuyện
đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi
hiểu rằng
lịch sử không phải là tất cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm
mặt trời!
NKTV
Đó là khoảng cách
giữa Những ngày ở Sài Gòn và Istanbul
NQT
Chiều
một mình xuống phố, ghé
tiệm sách báo Tây, mua tờ Điểm Sách London, có bài điểm cuốn tiểu sử
Koestler. Tay điểm sách mở ra bài
viết bằng một câu tuyệt cú mèo, để
vinh danh K.
Rồi tiện ghé tiệm chuyên bán
movies, loại hiếm, quí, cũ, xưa.
Thấy cái poster James Dean, với câu phán của
chàng, bèn muợn luôn, để vinh danh Istanbul:
Dream as
if you'll live forever. Live as if you'll die
today.
Hãy mơ mộng như
thể bạn sẽ sống
hoài hoài. Hãy sống như thể bạn sẽ chết ngày hôm nay.
Câu thứ nhì, là để vinh danh Istanbul!
Tương tự câu: Hãy ghé thăm
Venise rồi hãy chết.
Voir
Venise et mourir!
Đọc Istanbul
rồi hãy ngỏm!
*
Thua CM.
Crimson Mai: chú ý, kiệt tác!
ăn cắp cái title của bạn Nhị
Linh.
@NQT: chúc mừng anh.
@all: chúc mừng những người
muốn tìm 1 quyển sách hay và được dịch hay để đọc.
@Crimson Mai: lâu lắm mới có
người sử dụng ngôn ngữ đến mức làm Crimson á khẩu.
Bao Anh: Ngôn ngữ như thế nào
có thể làm Crimson á khẩu?
@BA: thêm 1 chữ thì thừa, bớt
1 chữ thì thiếu, dùng lệch đi thì sai, dùng từ khác thì dở; duyên dáng
mà ko
đến mức làm duyên làm dáng; chuẩn mực mà ko cứng nhắc; gần gũi ,địa
phương mà
ko quê mùa. Tất nhiên là ở 1 số đoạn thôi, người đẹp, nhưng đủ làm ta á
khẩu.
Source
Đọc Istanbul,
á khẩu?
CM muốn nhắc tới
giai thoại về bài thơ Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu.
Tương truyền thi hào Lý Bạch
đến lầu Hoàng Hạc, thấy bài thơ của Thôi Hiệu bảnh quá, bèn á khẩu, ú ớ
phán:
“Nhãn
tiền hữu cảnh đạo bất
đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
(Cảnh trước mặt không thể
nói ra được,
Thôi Hiệu đề thi ở trên đầu)
Tks. NQT
*
Doc bai
dich tren blog hay
qua .
Anh Tru dich "mướt" lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot tac pham nhu the.
Tks
NQT
To die for others is
difficult enough.
To live for others is even
harder.
G. Steiner: Errata
Giữa “Đường ra trận mùa này
đẹp lắm” và “Ngày mai đi nhận xác chồng” là chân lý:
Chết vì người đã khó, sống vì
người còn khó hơn?
*
Nhà thơ Lê Thị Ý, người được
độc giả đón nhận bàng hoàng khi biết chính là tác giả bài thơ dội vang
tình cảm
người đọc trong thời chiến tranh khốc liệt. Bài thơ được nhạc sĩ Phạm
Duy phổ
nhạc, được người đọc lấy câu thơ đầu trong bài để gọi tên: “Ngày mai đi
nhận
xác chồng.”
Thực ra, “Ngày mai đi nhận
xác chồng” có tên nguyên tác là “Thương Ca 1” trong một chuỗi năm bài
Thương Ca
được ghi số Thương Ca 1, Thương Ca 4, Thương Ca 5, Thương Ca 6, và
Thương Ca 8.
Nhắc chuyện cũ, tác giả Lê
Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng trên tờ Tranh Ðấu của sinh
viên
Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã gửi cho bạn ông là nhạc
sĩ Phạm
Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến trên các đài phát thanh
lúc bấy
giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói về hoàn cảnh bài thơ được
khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết, “Nhà tôi ở gần nhà xác trên
Pleiku. Khi
ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang diễn ra thật khủng khiếp.
Không ngày
nào nhà xác không nhận thêm được xác những chiến binh QLVNCH hy sinh
tại chiến
trường. Và những người vợ trẻ thì đứng đầy quanh nhà xác với những vành
tang
trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy những cảnh thê lương ấy.
“Em không thấy được xác
chàng,
Ai thêm lon giữa hai hàng nến
trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai...”
Cái chi tiết về NDQ đọc, và
gửi cho PD, tuyệt!
Có lẽ đã đến lúc phải viết về
cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi đấy. Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ
niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo nghĩa, chưa báo cáo độc giả
Tin Văn,
để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải trải qua những cơ may huyền diệu,
sau những
đau khổ khủng khiếp như thế nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD
sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu, trong cái dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho
Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Theo server, thì 3, trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên
môi.
Và:
Ngày mai đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhà thơ Lê Thị Ý là em của
Vương Đức Lệ, qua bài phỏng vấn trên báo Người Việt cho biết.
-ÐQAThái: Khi phổ thành ca
khúc, hình như Phạm Duy có sửa vài lời trong bài thơ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Ðúng vậy.
Có lẽ ông Phạm Duy sửa vài chữ cho nó hòa hợp với âm điệu bài nhạc hơn.
Có câu
ông Phạm Duy cắt bớt. Thí dụ câu tôi viết, “Chiếc quan tài phủ cờ màu,
hằn lên
ba vạch đỏ au phũ phàng” thì Phạm Duy sửa thành “Bây giờ anh phủ mầu
cờ” và cắt
đi câu thơ kế tiếp.
-ÐQAThái: “Hằn lên ba vạch đỏ
au phũ phàng”, tại sao lại phũ phàng ạ?
-Nhà thơ Lê Thị Ý: Khi đau
đớn thì cái gì cũng phũ phàng cả. Phũ phàng là hình ảnh đau đớn, quằn
quại.
Tuyệt! Thơ được trao cho thi
sĩ, là như vậy đó. Đám thi sĩ dởm làm sao biết một chân lý đơn giản như
vậy.
Cái tay ký giả thì bị ám ảnh bởi mấy cái vạch cờ ba sọc, nên mới théc
méc,"tại sao lại phũ phàng ạ"!
Cũng ý này, Lão Tử phán,
thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu [Gấu nhớ đại khái, không biết
có đúng
không, cái này là tán phó mát thêm!]
*
Thật tiện lợi, khi hồi nhớ
làm việc được cả hai chiều”.
“Hồi nhớ của tôi chỉ làm việc
một chiều”. Alice
nói. “Tôi không thể nhớ chuyện, trước khi nó xẩy ra”.
“Quá nghèo nàn, thứ hồi ức
chỉ nhớ chuyện đã qua”. Hoàng hậu nói.
“Bà nhớ rành rọt nhất, là
những chuyện gì?”. Alice
dò hỏi.
"Ồ! Những chuyện xẩy ra
tuần lễ tiếp theo tuần tới”. Bà Hoàng thản nhiên nói.
(Through the Looking Glass).
Bài Ngày mai đi nhận xác
chồng này Gấu đọc lại, mới nhớ ra đây là một bài viết bỏ lửng, tính
viết tiếp,
rồi quên luôn.
Vào lúc đang viết đó, Gấu
đụng vô, cái gọi là sự “chúc dữ của nước”, tạm gọi như vậy, mô phỏng
điều mà
Koestler gọi là sự "chúc dữ của cái vòng tròn", la malédiction du
cercle, giáng lên văn minh Tây Phương.
Vì quá mê cái vòng tròn mà
văn minh Tây Phương mất mẹ nó mất hai ngàn năm, kể từ Pythagore cho đến
khi
Kepler khám phá ra quỹ đạo của các hành tinh là hình bầu dục [ellipse].
Khi Kepler khám phá ra điều
này, ông nghĩ mình là thằng khùng, hay tên tội phạm, bởi vì đây là điều
cách
đây hai ngàn năm Pythagore đã biết rồi!
Nhà Gấu bị chúc dữ bởi nước!
Vào năm 1946, ông bố bị một ông học trò làm thịt, đòm một phát, thẩy
thầy xuống
sông, kèm cục đá.
Thằng em trai của Gấu chết vì
một viên đạn bắn từ bên kia sông, xuống mặt nước, giống như bắn thia
lia, và
viên đạn nhảy lóc cóc trên mặt nước, qua bên này sông, bay lên, lọt vào
ót
thằng em trai, lúc đó đang cùng tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường
Sóc
Trăng, vào năm 1967, trước Mậu Thân một năm. (1)
Khi thằng em vô quân trường
Thủ Đức, là Gấu đã ngửi ra cái chết của nó.
Và nó sẽ chết vì nước!
Lần Gấu thoát chết vì mìn
claymore của VC ở bờ sông Sài Gòn, là Gấu biết, thằng em vô phương!
(1) Đây là Gấu phóng đại, làm
gì có viên đạn nào đi thia lia, nhẩy lóc cóc, nhưng nếu bạn bắn một
viên đạn
xuống bước, thì bắt buộc nó phải trồi lên, theo một định luật về vật lý
học.
Thằng em Gấu quả là chết vì một viên đạn như thế. Khi nghe tiếng súng
từ bên
kia sông, theo phản sạ, cu cậu cúi đầu né, cái nón sắt, do ẩu tả, không
cài
dây, rớt xuống đất, và khi viên đạn bay hết đà, bèn ghé cái ót cu cậu
nằm nghỉ!
Gấu đã từng gặp viên quân y
sĩ, ông nói, nếu lấy viên đạn ra, thì sẽ nát bấy khuôn mặt, nên tôi để
luôn
trong đó.
Đến khi Gấu bỏ chạy quê
hương, bèn đào mộ ông em, lấy xác, hoả thiêu, đem tro cốt vô chùa, vì
cũng sợ,
mấy ông VC chẳng tha người đã chết.
Và quả đúng như vậy, chúng
cho ủi sạch nghĩa trang quân đội Gò Vấp.
Mới đây thôi, đứa con gái út
của Gấu về Việt Nam, ghé chùa, mang tro cốt của bà cụ và đứa em trai ra
Vũng
Tầu, thả xuống biển.
Bà sư trụ trì chùa nói, Ông
Tướng Râu Kẽm cũng vừa ghé, và cũng làm như Gấu!
*
Tiền nhuận bút Istanbul, được
Cô Xì Lô dùng để lo lần chót cho Bà Nội và Chú, trong chuyến đi trên.
Tks all of U. NQT
NKTV
*
Orhan Pamuk
Nghệ thuật giả tưởng
Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul,
nơi ông
tiếp tục sống. Gia đình làm giầu trong nghề xây dựng đường xe lửa vào
những năm
đầu của nền Cộng Hòa Thổ, và Pamuk theo học ở trường Robert College,
nơi dành cho con cái của giới tinh anh, sính ngoại. Khi còn nhỏ, ông mê
hội họa,
nhưng sau khi học kiến trúc, ông quyết định viết. Hiện nay, ông là một
tác giả được
đọc nhiều nhất của Thổ nhĩ kỳ.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện
hai đợt, vào năm 2004, tháng 5,trùng thời gian ra mắt Tuyết, Snow, và
2005, tháng
Tư, cùng tại London, cùng thời gian Istanbul ra lò.
Người phỏng vấn:
Ông cảm thấy sao về cái
vụ phỏng
vấn phỏng viếc như vầy?
Pamuk:
Đôi khi tôi cảm thấy không
thoải mái, bởi vì tôi đưa ra những câu trả lời ngu đần cho một số những
câu hỏi
vô nghĩa. Chuyện này xẩy ra trong những cuộc phỏng vấn tiếng Thổ nhiều
hơn là
tiếng Anh. Tôi nói tiếng Thổ tồi, và thường phán những câu cực kỳ ngu
xuẩn. Tôi
bị phạng tơi bời trong tiếng Thổ, vì những phỏng vấn hơn là những
cuốn tiểu
thuyết của tôi. Đám bình luận, chính trị gia bằng mồm, những tay biếm
văn đâu có
bao giờ đọc tiểu thuyết, ở đó.
Đám Âu Châu, Mẽo nói
chung đều
gật gù với những cuốn sách của ông. Còn đám Thổ nơi quê nhà thì sao?
Những năm tháng tốt lành thì
đã qua. Khi tôi cho xb những cuốn sách đầu
tiên của tôi, đám
già đều đã "Xưa rồi Diễm ơi", và đều đi theo TCS cả rồi, bởi vậy, tôi
được vồ vập, vì là một tác
giả mới.
Khi ông nói, thế hệ
trước, đám
đàn anh, ông nghĩ đến những tay nào ở trong đầu?
Những tác giả cảm thấy họ có
trách nhiệm xã hội, những tác giả cảm thấy văn chương là để phục vụ đạo
đức, và
chính trị. Họ là những nhà hiện thực tầm tầm, flat realistics, không
phải thứ
thể nghiệm, not experimental. Như những tác giả trong rất nhiều xứ sở
nghèo đói,
họ phí phạm tài năng của mình trong cái việc cố gắng phục vụ quốc gia,
dân tộc
của họ. Tôi không muốn như họ, bởi vì ngay cả khi còn trẻ, tôi mê Faulkner, Virginia
Woolf,
Proust – tôi chưa bao giờ mơ trở thành một đấng hiện thực xã hội chủ
nghĩa như
là Steinbeck hay Gorky.
Thứ văn chương được sản xuất vào thập niên 60 và 70 thì trở thành lỗi
thời, bởi
vậy tôi được chào đón như là một tác giả của thế hệ mới. Tới những năm thuộc nửa sau thập niên 1990,
khi sách của tôi được bán ra ào ào, tới mức độ mà chưa có ông
nhà văn Thổ nào dám mơ tưởng, thì cũng là lúc tuần trăng mật giữa tôi
và đám báo
chí Thổ chấm dứt. Luôn cả với đám trí thức. Kể từ đó, phản ứng của mấy
đấng phê
bình thì nhắm vào công chúng vào số lượng sách bán ra, chứ không vào
nội dung. Bây giờ, bất hạnh thay, tôi nổi tiếng vì những cái còm chính
trị hầu hết
được đám báo chí Thổ cóp nhặt từ những cuộc phỏng vấn quốc tế, và được
chúng nhào
nặn, cắt xén, để biến tôi thành một thứ ‘cà chớn’, ‘khùng điên ba
trợn’, không đúng
con người thực sự là tôi.
Vậy là có một sự thù
nghịch đối
với cái tiếng tăm bình dân của ông?
Quan điểm mạnh mẽ của
tôi về
vấn đề này, là, đó là một thứ trừng phạt đối với con số lớn lao những
cuốn sách
bán ra, và những lời lèm bèm phạng nhà nước về chính trị của tôi. Nhưng
tôi không muốn
tiếp tục lải nhải theo đường hướng như vậy, vì nghe ra có vẻ chống đỡ,
biện minh,
phân trần. Có thể, tôi trình bầy sai bức tranh toàn thể những sự kiện.
Ông viết ở đâu?
Tôi luôn luôn nghĩ,
cái chỗ bạn
ngủ, và chia sẻ, chung chạ với bạn đời phải tách ra khỏi cái chỗ bạn
viết.
Ui chao, lại y chang GNV!
Hồi
còn trẻ, còn Sài Gòn, nhà thì nhà nước cấp, đâu có chia ra thành phòng
ăn, phòng
ngủ, phòng làm việc, tất tất chỉ có một phòng, GNV cứ phải đợi cả nhà
ngủ ngon,
rồi mới len lén bò dậy, ra cái bàn, bật cái đèn bàn nhỏ xíu chiếu sáng
vừa đủ
trang giấy, rồi cắm cúi viết, như một tên trộm!
Nỗi buồn Istanbul
Tác giả: Orhan Pamuk
Dịch giả: Nguyễn Quốc Trụ
Nhà xuất bản: Văn học
Số trang: 544
Kích thước: 14 x 20.5cm
Giá bìa: 90.000 VND
Năm xuất bản: 2010
Đây chính là cuốn sách biến
Pamuk trở thành nhà văn của thành phố Istanbul, đúng như cách thức đã
từng làm
cho James Joyce là nhà văn của Dublin và Paul Auster thuộc về New York.
Trong
một viễn tượng hội họa, Istanbul tỏa khói những con phà, trầm lắng một
nỗi buồn
đế chế giữa ngổn ngang đổ nát thành quách cũ và đọng mãi trong tâm
tưởng người
đọc hai màu đen trắng, màu của quá khứ, của một ký ức hoang phế nhưng
cũng đầy
sức mạnh. Người ta chỉ có thể thực sự hiểu năng lượng văn chương của
Orhan
Pamuk khi thấm đẫm từng dòng ông viết về thành phố của ông, và khi ấy,
sẽ không
còn ai thấy kỳ lạ việc ông dành cả đời sống ở đó, trong ngôi nhà tuổi
thơ, ngồi
viết tại cái bàn nhìn ra mưa nắng trên mặt biển vịnh Bosphorus, điểm
mốc phân
chia ranh giới Đông và Tây.
Với Istanbul, có thể nói
rằng Orhan Pamuk đã viết cuốn sách ám ảnh nhất, đau lòng nhất, tuyệt
diệu nhất
về một thành phố.”
The San Diego
Union-Tribune
Orhan Pamuk, “một trong
những tiếng nói mới mẻ
và độc đáo nhất trong văn chương đương đại” như lời Independent on
Sunday nhận
xét, đã viết nhiều cuốn sách trong đó có Pháo đài trắng và Cuộc đời
mới. Năm
2003, ông nhận giải International IMPAC Dublin cho cuốn Tên tôi là Đỏ,
và năm
2004, Faber ấn hành bản dịch tiếng Anh cuốn Tuyết của ông, được
Margaret Atwood
ca ngợi là “cuốn sách không thể thiếu của thời đại chúng ta”. Istanbul, một
ghi chép của ông về cuộc sống
nơi thành phố này, đã được đề cử giải Samuel Johnson của BBC4, được
Katie
Hickman trong New Statesman gọi là “đẹp đẽ một cách phi thường và siêu
việt”.
Orhan Pamuk hiện đang sống ở Istanbul.
Nguồn
The Paris
Review:
Ông làm việc ở đâu?
Pamuk:
Tôi luôn cho rằng, nơi mà bạn
ngủ hay nơi bạn chia sẻ với bạn đời nên tách ra khỏi nơi bạn viết. Ba
thứ lẩm cẩm
của cuộc sống thường nhật trong gia đình, một cách nào đó, giết chết
tưởng tượng.
Chúng giết con quỉ ở trong tôi. Cuộc sống thường nhật, vẻ thảm hại của
nó khiến
cho nỗi ước mong vượt thoát cuộc đời này tới một thế giới khác, nơi trí
tưởng tượng
tha hồ mà tung tẩy, trở thành nhạt nhòa. Bởi thế trong nhiều năm tôi có
một cái
văn phòng, hay một nơi chốn ở bên ngoài nhà mình để làm việc. Tôi luôn
có những
căn hộ khác nhau.
The Paris
Review:
Ông có bao giờ làm thơ?
Pamuk:
Tôi thường bị hỏi như vậy. Tôi làm thơ khi 18 tuổi, và có cho xb vài
bài, nhưng rồi thì tôi chừa [quit]. Câu 'giả nhời' của tôi là như vầy:
Tôi nhận ra là thi sĩ là một người nào đó, mà qua người này, Thượng Đế
nói [someone through whom God is speaking]. Bạn phải bị chiếm hữu bởi
thơ ca, giống như bị quỉ bắt mất hồn vía. [You have to be possessed by
poetry]. Tôi cố thử tay nghề thơ của tôi, nhưng kịp thời nhận ra Thượng
Đế không nói với tôi. Tôi thật buồn vì chuyện này, và rồi tôi lại tưởng
tượng – giả như Thượng Đế nói với tôi, thì Người nói gì?
Tôi bắt đầu viết thật tỉ mỉ, thật chậm rãi, cố làm bật cái điều đó ra.
Đó là văn xuôi, thơ xuôi, là viết giả tưởng. Như vậy là tôi làm việc
như một anh thư ký. Một vài nhà văn, coi điều viết trên đây, là một sự
sỉ nhục. Ti tí thôi. Nhưng tôi chấp nhận nó; tôi làm việc giống như một
anh thư ký.
Bạn phải bị chiếm hữu bởi thơ
ca, giống như bị quỉ bắt mất hồn vía. [You have to be possessed by
poetry].
Thảo nào thi sĩ Mít nhiều như thế!
Đọc sách: Thành phố “được”
suy tàn
SGTT - Người Do Thái lang
thang (Le Juif Errant, như
nhan đề một cuốn sách của Eugène Sue – tác
giả Bí
mật thành Paris), thích cho vay cắt cổ, hay người Thổ hung hiểm
giảo
hoạt thích
dùng thanh gươm cong, chỉ văn học mới tạo ra được những hình ảnh ăn sâu
đến
vậy. Và cũng chỉ văn học mới giải trừ được các huyền thoại dân gian lan
truyền
nhiều đời.
Orhan Pamuk của cuốn hồi ký Istanbul (Nguyễn
Quốc Trụ dịch, Nhã Nam & NXB Văn Học) là nhà văn
của phân
tích kỹ càng và của sự giải thích mềm mại; sự chừng mực trong cách nhìn
và sự
phê phán của ông (nhất là phê phán cách nhìn Istanbul của người phương
Tây và
sự Tây hoá vô lối của người Thổ Nhĩ Kỳ) thu hút sự ngưỡng mộ cho những
người
Thổ đặc biệt nhưng ít được biết tới, Ahmet Rasim “nhà bỉnh bút” hay
Koçu nhà
bách khoa, nhưng không nhận chìm Edward Said vào sự thù ghét hoặc phóng
đại sự
sai lệch trong tác phẩm quá nhấn mạnh tính “kỳ hoa dị thảo” của Pierre
Loti.
Cách nhìn không phi thường về
một thành phố phi thường như Istanbul, bờ cõi của cả Đông phương và Tây
phương,
nơi mọi cái tên đều thuộc vào lịch sử kỳ vĩ của một nền văn hoá:
Byzance,
Ottoman, Hagia Sophia, pasha (*)… không những tạo ra những góc quay
thật đẹp về
mùa đông Istanbul, khói phà toả trên mặt vịnh, những con tàu cháy ngoài
biển,
mà còn tạo ra được một hiệu ứng đặc sắc: ngay cả trong cái kỳ vĩ vẫn có
thể tìm
ra được điều giản dị của đời thường và sự kỳ lạ của những mẩu tin trên
báo chí
(chương Đừng vừa đi ngoài đường vừa
há hốc miệng ra), miễn là có đầu óc
sáng
suốt.
Một trong những điều đặc biệt
của Istanbul
(cuốn sách có quá nhiều điều đặc biệt, tất cả đan cài xâu chuỗi móc
xích vào
nhau giống như một bức tranh nhiều hoạ tiết phức tạp trong hội hoạ Hồi
giáo) là
suy nghĩ của Pamuk về sự suy tàn.
Không thể nói là một con
người say đắm với thành phố quê hương như Pamuk lại thoải mái và vừa
lòng với
sự suy tàn cứ ngày ngày diễn ra trước mắt ông, một cách vật chất chứ
không hề
trừu tượng, lẩy ra từ trong sách vở: chương Phá huỷ dinh cơ của các
pasha: nỗi
buồn dạo phố mô tả những dinh thự bằng gỗ của Istanbul cứ thi nhau cháy
rụi:
“Vào những năm cuối thập niên 1950, hầu hết những dinh cơ này bị đốt
rụi hoặc
phá huỷ, dọn đường cho các khu căn hộ” (tr. 48).
Thế nhưng, những đoạn tả cảnh
hay nhất (gồm những câu văn thật dài, nhiều chục dòng không dấu chấm)
lại là
khi Pamuk đưa cái nhìn chầm chậm theo những đổ nát, hoang phế đế chế,
những bức
tường không còn đứng vững, những vết nứt, những vỉa hè lát đá vỡ. Với
suy tàn
cái nhìn ấy ve vuốt, dịu dàng hơn nhiều so với những khi nhìn vào đổi
thay cuộc
sống và phong tục, hay sự hiện đại hoá. Thành phố Istanbul được suy
tàn, chỉ
đống đổ nát của một nền văn minh mới có sức mạnh gợi hứng cho một cái
nhìn mới,
của một con người tự nhận mình “thuộc thế hệ thứ nhất của một nền văn
minh mới”
thay thế cho những người Ottoman từng chinh phục Byzance.
Chương Chinh phục hay suy
tàn? Constantinople trở thành Thổ Nhĩ
Kỳ là
nơi sự lưỡng lự đẹp đẽ nhất trong trí tuệ Pamuk này được hé lộ và phân
tích kỹ
càng. Sống ở một thành phố như Istanbul,
người ta không được phép không lưỡng lự, nếu muốn xứng đáng với tinh
thần thành
phố của mình.
Istanbul vẫn cứ là thành phố
kỳ lạ ấy, mà Pamuk đã cống hiến toàn bộ tài năng để cảm nhận, và sống,
cái
thành phố mà Dario Moreno đã phác hoạ thật khái quát và đơn giản đầy
hiệu quả
bằng một bài hát: “Istanbul, đó là Constantinople… Istanbul đó không còn là châu Âu nữa.
Hoặc là Istanbul hoặc là Constantinople”.
Cao Việt Dũng
(*) Pasha: tổng trấn – từ chỉ
một giới được kính trọng thời Ottoman. Trong nhiều thập kỷ, các sĩ quan
cấp cao
của Thổ Nhĩ Kỳ – tự xưng là người bảo vệ truyền thống của đất nước –
được gọi
là pasha
Nguồn
Crimson Mai
22:48 22-09-2007
Cháu đọc entry của bác từ lúc
nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều
và
rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm,
hihi.
Hôm nào cháu viết tặng bác 1
entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn
chương
Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến"...
*
Cái hồn của văn chương Việt Nam...
D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn
Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue].
Gấu
thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn:
"Sao không hát cho những
người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao
chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi
tên
thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ
dại.
Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ
những kỷ
niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần
nhà cô
bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải
lắc đầu,
rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia
Long. Buổi
sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn
người
yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha
thẩn
giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng
đậu trên
vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai
không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu
ngao
một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng
báo trước một Miền Nam
mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một
Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của
bạn sáng
ngời.
Tình cờ đọc
câu "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya",
trên lưới, nhớ mưa SG quá, bèn viết tiếp.
Nhờ vậy quen CM. Rồi từ CM ra
NL.
Không quen, nhưng thấy trong friends list của CM.
Thế rồi một bữa đẹp trời nhận được cái mail,
đề nghị dịch Istanbul,
của
một tay lạ hoắc. Nhờ CM hỏi giùm, thật không đấy?
CM hỏi NL. Thật đấy.
Thế là dịch.
Tks all.
Quái nhất là cái tay lạ hoắc.
Rất rành ‘văn phong’ của Gấu!
Để rảnh kể tiếp.
|
|