Trên
diễn đàn Da Màu, có bài
viết của Trần Hữu Thục, về những bản nhạc của Miền Nam trước 1975, về
những
người lính VNCH, mà ông gọi là nhạc lính, một hình thức nhạc phổ thông,
theo
ông.
Đây là một đề tài mà tôi ấp
ủ, mong có dịp viết về nó, không chỉ một, mà rất nhiều bài, mỗi bài về
một bản
nhạc lính mà tôi yêu thích, và kỷ niệm của riêng tôi về bản nhạc đó.
Với riêng tôi, rất nhiều bản
nhạc lính, chỉ một bài thôi, là cũng đủ để “đi một đường vinh danh,
tưởng
niệm”, như tôi đã từng có lần viết về nó:
Cái hồn thực sự của văn học
Miền Nam,
nó nằm ở trong lời nhạc, nhiều hơn là trong văn chương, trong thơ. Nằm
trong
những bản nhạc vàng, nhạc sến, nhạc lính. Trong những bản thơ phổ nhạc,
và nếu
không được phổ nhạc, chẳng ai biết tới chúng. Người ta đã làm những
công việc
thu gom, bảo tồn thơ văn miền nam, giá mà có một ai bỏ công sưu tầm
những lời
nhạc, rồi đi vài đường “thương nhớ, nâng niu, ấp ủ, tưởng niệm” thì
tuyệt vời
biết là chừng nào!
Nhạc đỏ Miền Bắc, do mang
tính chiến đấu, cho nên không thể có những câu, thí dụ:
Một mai qua cơn mê, xa cuộc
đời bềnh bồng, tôi lại về bên em.
Ngày gió mưa không còn nên
mùa dài thật dài, ta mặc tình rong chơi.
Cùng nhau ta sẽ đi, sẽ
thăm bao nơi xa, xưa một thuở lênh đênh.
Ta sẽ thăm từng người, sẽ
đi thăm từng đường, sẽ vô thăm từng nhà.
Tình người qua cơn mê vẫn
xanh, dù bao tháng năm đau thương dập vùi, dù quên bóng ta nay ta
lại
về, cùng theo lũ em học hành như xưa.
Rồi đây qua cơn mê, sông
cạn lại thành dòng, xuôi về miền quê hương
[Một mai qua cơn mê]
Những
ánh mắt hỏa châu là hoa
đăng ngày cưới
[Những ánh mắt hỏa châu]
Ngoài
kia súng nổ, đốt lửa
đêm đen, tầm đạn thay tiếng em
[Kẻ ở miền xa]
Lá rừng
che kín đường về phồn
hoa
Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống chiều qua...
Còn
nhiều lắm.
*
Brodsky vinh danh thơ
Mandelstam, một thi sĩ Nga, bị Stalin đầy đi tù, và chết tại trại tù ở
Sibérie:
"Thời gian qua [thơ]
ông, lầu bầu với "khoảng trống câm" của Stalin" [... where the
time that utters itself through Mandelstam conftronts the 'mute space'
of
Stalin].
Tôi nghĩ câu đó có thể áp
dụng được, vào trường hợp ở đây, khi, nhạc sến, nhạc vàng, nhạc lính
của Miền Nam
trực diện,
đối đầu, [confront], với thứ nhạc đỏ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm”,
của Miền
Bắc
Tôi thực sự tin rằng, cái gọi
là tinh tuý nhất của văn học Miền Nam, trước 1975, không ở
trong thơ,
văn, mà trong lời nhạc.
*
Để mở đầu loạt bài “Nhịp thời
gian”, xin giới thiệu bản nhạc “Rừng lá thấp” của Trần Thiện Thanh.
Theo lời
giới thiệu bản nhạc này, trên DVD nhạc ASIA, tác giả đã sáng tác để
tưởng niệm
một người bạn thân của ông, là một sĩ quan VNCH, nằm xuống trong trận
Mậu Thân
ở Hàng Xanh, thành phố Sài Gòn.
Rừng Lá
Thấp
Trần Thiện Thanh.
1.
Rừng lá xanh xanh cây phủ
đường đi
Thành phố sau lưng ôm mộng
ước gì
Tôi là người đi chinh chiến
dài lâu
Nên mộng ước đầu tôi nghe đã
chìm sâu
2.
Từ máy thu thanh cô nàng vừa
ca:
"Trọn kiếp yêu anh lính
khổ xa nhà"
Giữa rừng già vang tiếng hát
thật cao
Nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì
đâu
ĐK:
Sao
không hát cho người giết
giặc trên cầu
Khi bùn lầy còn pha sắc áo
xanh
Trong khói súng xây thành
Mắt quầng thâm mất ngủ
tàn đêm khói lửa,
Giờ chỉ còn hai tiếng
"mến anh"
Sao
không hát cho những người
còn mải mê
Lá rừng che kín đường về phồn
hoa
Sao không hát cho những bà mẹ
hằng đêm nhớ con xa
Hay hát cho những người vừa
nằm xuống chiều qua
3.
Rừng lá xanh xanh lối mòn
chạy quanh.
Đời lính quen yêu gian khổ
quân hành
Nghe từ ngày thơ tiếng súng triền
miên
Đánh giặc lâu bền cho non
nước bình yên
4.
Lời hát xin gây rung động
thật sâu
Đừng hát như chim giữa rừng
lá sầu
Xin thật lòng qua câu hát đầu
môi
Như lính giữa rừng yêu lá
thấp mà thôi
[Trích từ net]
Đâu có
thua gì Kinh Cầu của
Akhmatova, trích đoạn, dưới đây.
Bạn có
thể coi Kinh Cầu là
“ấn bản thứ nhì” của Rừng Lá Thấp, khi những người lính, sĩ quan VNCH
thất
trận, đi tù, và thân nhân của họ lặn lội đi thăm nuôi…
Tính nhân bản của cả hai, như
nhau.
Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống chiều qua?
thì cũng tương tự câu hỏi:
Liệu bà có thể miêu tả cảnh
này không?
*
Thay cho một lời mở đầu -
Instead of a preface
Trong những năm khủng khiếp
dưới thời trùm công an nhân dân N.I. Yezhov, tôi trải qua 17 tháng đứng
xếp
hàng trước một số nhà tù ở Leningrad.
Một bữa, có một người “nhận ra” tôi. Rồi thì một bà, môi tái nhợt vì
lạnh, đứng
đằng sau tôi, và, người này, lẽ dĩ nhiên, chưa từng bao giờ nghe tên
tôi, bỗng
như tỉnh ra, hết ngơ ngẩn - đây là tình trạng chung của tất cả chúng
tôi -, và
thầm thì vào tai tôi [mọi người ở đây chỉ nói với nhau theo kiểu thì
thầm]:
-Liệu bà có thể tả cái này?
[Can you describe this?]
Và tôi nói:
-Được!
Và thế là có một cái gì đó
giống như là một nụ cười, thoáng qua trên một nơi đã có thời là khuôn
mặt của
bà.
Ngày 1 Tháng Tư, 1957 Leningrad
Anna Akhmatova
Không
phải tôi cầu nguyện chỉ
cho tôi,
Nhưng còn cho những người
đứng trước và sau tôi
Vào một ngày đông giá băng
hay một ngày nóng tháng Bẩy
Trước bức tường Hoả Lò chói
chang làm mù mắt
Not
only for myself do I
pray,
But for those who stood in
front and behind me,
In the bitter cold, on a hot
July day
Under the red wall that
stared blindly
Kinh Cầu: Lời Cuối
*
Từ:
Trong khói súng xây thành
chuyển qua
Mắt quầng thâm mất ngủ
thì đúng là khủng khiếp, quái
chiêu thật!
Hai câu liền sau đó, cũng
thật là thần sầu:
Sao không hát cho những người
còn mải mê,
Lá rừng che kín đường về phồn
hoa
Tôi, do
chưa từng đi lính, mê
thì quá mê bản nhạc, nhưng có mấy câu, mấy chữ không làm sao hiểu được
ý của
tác giả.
Thí dụ: Tàn đêm khói lửa, giờ
chỉ cần hai tiếng... hai tiếng gì? “Bên anh”, hay “mến anh”?
Đừng hát như chim trên “ngọn
lá sầu”, hay, “vùng lá sầu”?
Câu này thật hay, nhưng thật
khó hiểu: Ngọn lá sầu? Vùng lá sầu?
Yêu lá thấp là... yêu lá gì?
Càng khó hiểu càng hay!
Nguyễn Quốc Trụ
*
Thứ Tư,
02 tháng 6 2010
Binh
Tôi không đồng ý câu cuối
cùng của bài viết. "Càng khó hiểu càng hay"- Khó hiểu nghĩa là chưa
hiểu thấu, chưa rõ. Đã mù mờ thì làm sao bảo rằng Hay, có chăng là Khen
Hùa.
Thứ Tư,
02 tháng 6 2010
Thường, đọc nhiều, hiểu
nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng mình. Chứ bạ
đâu cũng
mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như gái quê khoe
của..
Thành ra, dù già khú đế, cái mộng được gọi là nhà văn cũng bị người đời
vất đi.
Làm đỏm quá đáng.
*
Bài vừa post, là đã có phản
hồi liền tù tì, vì vậy, do chưa đọc kỹ bài viết, lại có "tí tị hiềm",
nên… nhảm quá!
Thứ
nhất, cái ý ‘càng khó
hiểu càng hay’, chỉ liên quan tới lời nhạc “như lính giữa rừng yêu lá
thấp mà
thôi”.
“Lá
thấp” là lá gì ở đây?
Gấu khổ vì cái hình ảnh này,
đã lâu, nhân một bữa gặp một ông bạn đúng thứ lính chiến, hỏi, ông cũng
ngớ ra,
xong gật gù, phán, có thể là muốn nói tới cái ‘lá diêu bông’ đây!
Ông giải thích, rừng miền nam
thường là rừng tràm, rừng đước, cây lá đều thấp, mới ra cái ý:
“lá rừng che kín đường về
phồn hoa”
Từ “phồn hoa”, thì nó nẩy ra
cái… lá đa, như ý thơ của NBS, ‘đốt tiền mua lấy một đêm vui”, thế là
ra cái ý,
“như lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi"!
Tuyệt!
Còn cái
chuyện lôi hết ông
Tây bà Đầm, thì có thể, nhưng không lẽ những lời nhạc, thí dụ như, ‘sao
không
hát cho những người vừa nằm xuống’, “trong khói súng xây thành”, “mắt
quầng
thâm mất ngủ”, lại không được coi là một thứ kinh cầu, như của nữ thi
sĩ Nga,
Akhmatova?
Bà làm Kinh Cầu cho quê hương
của bà, chúng ta hát “Rừng Lá thấp” cho những người lính của chúng ta,
không
đặng sao?
Thầy
nào trò đó. Thầy dốt, trò
dốt.
Gấu này đã từng cảnh báo, Thầy
không có hiền đâu, không cần phải đỡ đòn giùm cho Thầy.
Nếu muốn, thì cũng phải cân
nhắc, cố đọc cho thủng một đoạn văn.
NQT Thành ra, dù già
khú đế, cái mộng được gọi là nhà văn cũng bị người đời vất đi.
Làm sao mà hay
thế? Biết cả ‘cái mộng được gọi là nhà văn’ của Gấu?
Câu trên, có tí
mạ lỵ cá nnân, đúng ra không nên có trên VOA.
Gấu vì nể bạn quí
mà gửi bài, nay xin bye bye diễn đàn này. NQT
Thường,
đọc
nhiều, hiểu nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng
mình. Chứ
bạ đâu cũng mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như
gái quê
khoe của.. Thành ra, dù già khú đế, cái mộng được gọi là nhà văn cũng
bị người
đời vất đi. Làm đỏm quá đáng. Độc giả
VOA * V/v
“Thành ra, dù
già khú đế, cái mộng được gọi là nhà văn cũng bị người đời vất đi”.
"Người đời", ở đây, là
những ai?
Nếu độc giả trên,
là một trong những đệ tử của “Thầy”, thì như vậy, là chửi bố Thầy rồi.
Vì chính Thầy đã
từng xoa đầu Gấu, xác nhận đúng là nhà văn!
Chán thế!
Một, trong những chứng
cớ:
Anh NQT kinh,
Toi da doc lai, ky hon, ban dich anh gui. Rat thich. Thich noi dung bai
viet va
cung thich cach dich rat bay buom cua anh. Doc ban dich, co cam tuong
nhu doc
van sang tac.
Ban dich ay chac chan se gop phan lam cho Viet so 3, ve Cai Moi trong
Van
Chuong, phong phu hon. Va cung sau sac hon.
Khi nao dich xong cac title sach tu tieng Tay Ban Nha xong, xin anh gui
cho som
de toi bat dau lay-out.
Xin cam on anh va kinh chuc anh va gia dinh an manh.
*
Hay cái này: Truyện ngắn này đã từng được
gửi đăng ở diễn đàn Hậu Vệ.
Gấu còn nhớ, nhà phê bìnhgửi mail, nắc
nỏm, gọi là thơ, là truyện, là
tản văn, là cái chi cũng được hết.
Tks, anyway.
NQT
*
Hay cái này của
PTH, tổng thư ký VB
Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y)
se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y
be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.),
nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i
*
V/v Thường, đọc
nhiều, hiểu nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng
mình. Chứ
bạ đâu cũng mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như
gái quê
khoe của..
Đây là
do quán tính, do dốt nữa. Cứ thấy
nhắc đến ông Tây mũi lõ nào, là bèn dị ứng, và lập tức phản ứng, không
cần biết
đúng sai.
Bài viết ngắn của Gấu về “nhịp
thời gian”,
khi nhắc tới câu của Brodsky vinh danh Mandelstam, khi nhắc tới Kinh
Cầu của
Akhmatova, là để đặt chúng vào hai đỉnh của một tam giác, đỉnh thứ ba
là bài Rừng
Lá Thấp.
Chẳng có vấn đề tiêu hóa, ăn thức ăn mũi lõ
rồi ị ra cứt Mít ở đây.
Cấu trúc bài viết, mô phỏng
Walter
Benjamin, khi ông mơ, viết được một tác phẩm, gồm toàn trích dẫn, và
nếu có gì
của ông ở trong đó, thì chúng giống như dàn giáo.
Nhà dựng xong, là tháo gỡ bỏ.
Nói rõ hơn, chẳng
có cái chó gì của Gấu ở trong đó!
Nếu có thì đều là những 'câu bất thành cú', toàn là đồ vứt đi, sau khi
dựng
xong căn nhà!
*
Ở Việt Nam
có một điều rất chi thú vị: tôi
nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà
da vịt
trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật
là uốn
éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn tên là chứng bạo
dâm bệnh
lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp
tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo ẻo một
tí, để
mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ
cho
những người như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không
giúp gì
cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích
khó
nhỉ, các bác cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách
nào đó của
Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì. Blog NL
Cuốn Thương Xá của Walter
Benjamin, khổng lồ, gồm toàn trích dẫn. Nếu độc giả Mít, đọc, thì chắc
là đều
phát điên lên được.
Tây mũi lõ cũng phát điên chứ đừng nói Mít.
Đọc bài biết của Coetzee về
cuốn này, khi đăng trên NYRB,
"Điểm sách
New York", số đề ngày 11.1.2001,
là Gấu bèn dịch liền tù tì, vốn liếng
tiếng Anh ăn
đong, phải viện tới NTV. Gấu đã kể kỷ niệm tuyệt vời này rồi, hai thằng
ngồi quán
cá phê Tầu, Coffee Time, ở Phố
Tầu Đông, cãi nhau ỏm tỏi, chủ quán bèn đuổi cổ
ra công viên gần đó…
Bài này sau in trong Inner Workings,
cuốn sách bạn NL đang giới thiệu
Sáng nay tôi
ra vườn sau đứng ngắm
những con chim sẻ nhỏ ríu rít ca hát trong vườn. Chúng nhảy chuyền từ
cành này qua
bụi nọ, vừa nhảy vừa kêu chim chíp. Tiếng chim nghe thân mật quá! Thân
đến nỗi
tôi tin chúng là những con chim của tháng Năm năm ngoái. Chúng dọn đi
đâu mấy
tháng lạnh, qua thu, đông, rồi quay về vườn cũ ở hết xuân qua hè. Tôi
nhìn con
chim nào cũng tưởng là đúng con chim năm ngoái, vì âm thanh của nó phát
ra thân
mật quá nên chính nó bỗng như đã ở đó tự lâu rồi. Con có cái mào nâu
nhạt, con
có hai cánh nâu đậm, con có cái mình thon thon hay cái mình tròn vo,
đều là
những con chim cũ trở về. Với tôi chúng chưa từng chết đi hay thất lạc
một con
nào. Chúng sống và trở về trong vườn nhà tôi vì cái âm thanh đó không
phải đàn
sẻ nào cũng có. Tôi đã thân quen, đã thuộc lòng những tiếng chim chíp
đó, những
tiếng động đơn sơ đánh thức dậy cả một khu vườn, làm rung những giọt
nắng đầu
ngày vừa rơi xuống.
….
Chao ôi! Còn tiếng dội của
bom đạn nữa. Một người lính già có thể nghe được tiếng dội của bom đạn
khi chạm
tay vào bộ quân phục cũ của mình trong đáy tủ, hay khi treo lá cờ quốc
gia
trong một buổi lễ vào lúc thanh bình. Phải ngưng tại đây thôi, nói bao
nhiêu
cũng không hết được điều này, vì những tiếng dội của đạn bom sẽ kéo dài
vô tận.
Nhưng tiếng dội lại thân yêu
nhất của âm thanh vẫn là tiếng nói của con người.
Tiếng nói của người yêu
dội
lại trong tâm trí theo ta đến góc biển chân trời, theo suốt một kiếp
người;
tiếng khóc con thơ, tiếng nói mẹ già, tiếng chị cười, tiếng em gọi và
tiếng thủ
thỉ tâm sự của những người bạn thân thiết. Khi họ đã mất đi, ta không
nắm bắt
được tiếng nói của họ, nhưng âm thanh dội lại trong tiếng nói của những
người
này vẫn luôn nắm chặt lấy chúng ta.
*
TO THE MEMORY OF A POET
Like a bird, echo will answer
me.
B.P. (Boris Pasternak)
[Như một con chim, tiếng dội sẽ trả lời tôi]
1.
That singular voice has
stopped: silence is complete,
And the one who spoke with
forests has left us behind.
He turned himself into a
life-giving stalk of wheat
Or the fine rain his songs
can call to mind.
And all the flowers that hold
this world in debt
Have come into bloom, come forward
to meet this death.
But everything stood still on
the planet
Which bears the unassuming
name ... the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus
the blind,
Toward death the Muse was
leading the seer.
And one linden tree, out of
its mind,
Was blooming that mournful
May, near
The window where he told me
one time
That before him rose a golden
hill,
With a winged road that he
would climb,
Protected by the highest
will.
1960
Akhmatova
Boris Pasternak: 1890-1960,
renowned Russian poet and novelist.
*
It
seems that the voice we
humans own
Will never sound, never
celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the
black gate.
And it seems to me that under
the sun
I alone remain-this honor's
mine,
Simply because I was the
first
Who wanted to drink the
deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ
như cái thứ tiếng người
mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ
đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng
đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn
độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của
tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là
người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc
Note:
Bạn có thể đọc, cùng lúc
ba bài trên.
Đây là cách Gấu tính viết về nhạc lính, nhạc vàng, nhạc sến: Tìm cho
mỗi bài, một thế chân vạc của nó. Thế chân vạc của thơ, nhạc và thời
gian. Thời gian ở đây, như là chốn đồng vọng của thơ và nhạc. Thời để
yêu, để hát, và để chết (1)
Bạn chỉ
sống hai phùa.[fois: lần]
Một phùa, Bố Mẹ ban cho,
Phùa kia,
Khi bạn nhìn vào tận mắt Thần Chết.
You only live twice
Once when you are born
And once when you look death in the face
Ian Fleming: You only live twice
Coetzee viết về Brodsky: Thi sĩ đòi cho thơ cái quyền giáo dục và cứu
rỗi con người.
Và nếu như thế, vị trí của ông, về vấn đề này, gần gụi với Cổ Athens,
khi họ
dậy nam sinh viên [không có nữ], thế chân vạc của âm nhạc [nhạc làm cho
tâm hồn
nhịp nhàng, hài hòa: to make the soul rythmical and harmonious], thơ,
và thể dục.
Plato đạp đổ thế chân vạc, ba còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn
học chính
về tâm thần và tinh thần [the principal mental/spiritual discipline].
Những quyền năng mà Brodsky phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm
nhạc
nhiều hơn, theo Coetzee. Thời gian là chốn đồng vọng, the medium, của
nhạc hơn
là của thơ: Chúng ta đọc thơ trên trang giấy in, nhanh cỡ nào tùy theo
chúng ta
thích hay không thích, trong khi chúng ta nghe nhạc, ở trong thời gian
của
riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam,
đúng là
cái thời để yêu, để
hát, và
để chết!
Gấu này đã kể, về cái lần đầu nghe Tình Nhớ, của TCS, khi nó vừa mới ra
lò,
trong đêm khuya, khi đối diện với cái giường sắt lạnh lẽo nơi Trung Tâm
Ba
Tuyển Mộ Nhập Ngũ, và tưởng tượng ra rằng, có thể đứa em trai đã từng
nằm,
chính cái giường này, trước khi bỏ đi xa.
*
Bài viết thời để
yêu, để
hát, và để chết!, không hiểu có phải vì biến cố 30 Tháng Tư
mà đứng
đầu liền tù tì hai tháng, trong số những bài được đọc nhiều nhất.
Thừa thắng xông lên, Gấu bèn viết, về một thời để yêu, để hát, và - vì
không chết
- để đi tù... VC!
NKTV
* Bài viết của TMT thật tuyệt,
làm
Gấu nhớ đến Hemingway. Ông khi đó, bị báo chí Mẽo coi là hết
thời rồi,
bèn lùi lũi chuồn về một xó ở Cu Ba, đối diện biển, và khi trở về, là
cuốn Ngư ông
và Biển cả. TMT bị độc giả VOA chê ỏng chê eo bài viết về Quán
Chùa, về
những đền
thiêng VNCH bị tụi VC ngu dốt phá huỷ hết trơn hết trọi để xây Siêu
Thị,
bèn diện
bích, nhập thất, và khi xuất hiện trình làng ‘tiếng dội về những tiếng
dội’:
Cánh
hồng rơi xuống vực Tiếng dội vào nơi đâu Người về nơi thăm thẳm Tiếng dội trong hồn nhau.
TMT
Hai câu
thơ đầu, chắc là từ ý
sau đây: Writing a book
of
poetry is like dropping a rose petal down the Grand
Canyon
and waiting for an echo.
Viết một cuốn thơ thì cũng giống như thả một cánh hồng xuống Grand Canyon, rồi đợi tiếng dội của nó. DON MARQUIS
Cụm từ ‘tiếng dội về những
tiếng dội”, Gấu
thuổng của Akhmatova. Bà trước tác một chùm thơ, đặt tên chung là “Bài
hát về
những bài hát”, "Song about Songs" phải nói là thần sầu, trên TV đã
post một số bài.
Nay nhân viết về Hoàng Cầm, tưởng cũng là một cách tưởng niệm ông, khi
ông hoàng
của thơ và của tình yêu, để cứu thơ và tình yêu, đành phải đầu hàng Cái
Ác Bắc
Kít, TV sẽ post toàn bộ, và cố gắng dịch.
Ý tưởng viết về nhạc sến của
Gấu, là do đọc Akhmatova mà có, có thể
nói như
vậy.
Đúng ra là từ ý của Brodsky,
trong bài
giới thiệu tập thơ của Bà:
At certain periods of
history it is only
poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into
something
graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind.
In that
sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova - which
explain her
popularity and which, more importantly enable her to speak for the
nation as
well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a
poet of
humanities: cherished, strained, severed. She showed these solutions
first
through the prism of the individual heart then through the prism of
history,
such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics
any way.
Ở
một vài giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách
xì xằng, mới bảnh tỏng, bởi vì chỉ có nó mới dám đương đầu với thực
tại, bằng
cách nén nó lại, thành một cái gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay,
một điều
gì đó mà cái đầu chịu thua không làm sao cất giữ được.
Điều
Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng
nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà
Bè], và
phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một
vài câu,
một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài
kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng
em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi
Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày
Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng
thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công"
quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm
sao.
Những
ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô
bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi
cận kề cái
chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo
ngang đầu.
Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những
thảm bom
B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn
thường tự
hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách
bình
thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như
vậy... Cõi Khác
NKTV
*
We must therefore listen
attentively to every whisper of the world, trying to detect the images
that
have never made their way into poetry, the phantasms that have never
reached a
waking state. No doubt this is an impossible task in two senses: first
because
it would force us to reconstitute the dust of those actual sufferings
and
foolish words that nothing preserves in time; second, and above all,
because
those sufferings and words exist only in the act of separation.
Michel Foucault, Madness and Civilization.
W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết Strangeness, Integration
and Crisis: On Peter Handke's play Kaspar, trong CAMPO SANTO
Walter Bejamin là
ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một sử gia? Hay "chỉ là" một nhà
văn?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là một "trong
số
những người không thể xếp loại… là những người có tác phẩm không hợp
với trật
tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Ui chao, cái sự kiện,
GNV bị độc giả VOA rũa tơi bời, một phần vì đám đệ tử của Thầy cứ thấy
bài của
Gấu là chửi, một phần còn là vì lý do, như trên!
“Nhịp thời gian”:
một bài viết ‘không phù hợp với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra
một thể
loại mới nào’!
Tuyệt!
* Lê Tấn
Lộc
(Canada)
Cảm ơn Tha
La đã nói giùm tôi (và có lẽ của rất nhiều thân hữu cũng như văn hữu
của NXH).
Xin nhắn NXH chớ quá chiều chuộng bạn bè mà bắt thiên hạ trân mình chịu
đựng
"loạt bài" bắn rafale non-stop nầy, có ngày chúng tôi bị stroke hết!
VOA
LTL, chắc ông
anh KT?
Bạn lầm rồi.
Gấu chẳng hề ham viết cho VOA.
Đã viết chùa còn bị chúng chửi, gần như suốt đời
sống đời ‘đâm thuê chém mướn’, Gấu đâu có ngu đến như thế!
Blog VOA của
NXH & Bạn hữu xuất hiện cũng đã lâu, đâu có Gấu trong số những thân
hữu, văn
hữu?
Mới đây thôi, bạn quí xin số phone, qua một bạn văn ở Cali, nói
bịnh quá, đi giùm một, hai đường ‘cứu bồ’.
Loạt bài ‘rafale non stop’, là để đăng trên TV.
Cái sự không ưa Mẽo của Gấu, dài dòng, nhiêu khê lắm. Bữa nào
rảnh, kể hầu độc giả TV.
Chửi
còn đỡ. Khen mới khổ!
Nathalie Sarraute, kể, nhờ Sartre đọc Chân dung một kẻ lạ, coi
đây là một
thứ 'phản tiểu thuyết', mà bà nổi tiếng, cám ơn ông ta, làm sao không,
nhưng
Sartre chẳng hiểu tí chó gì về cuốn sách của tôi!
Được
triết gia, giáo chủ giáo
phái hiện sinh khen, mà còn khổ như thế, thử tưởng tượng Gấu được Thầy,
đệ tử
của Thầy, và bây giờ, “You too, Brutus?”, xúm
lại xoa đầu thì
chắc chết đứ đừ như Cesar!
*
Sự kiện trang TV lọt vào Top
Ten, đứng chỉ sau Chợ Cá, Băng Đảng Hậu Vệ, thật sự làm Gấu ngạc nhiên,
chỉ mãi
sau này mới hiểu ra: Độc giả TV, một cách nào đó, đều bị cái rìu phá
băng của
Kafka choảng cho một cú, hoặc nặng hoặc nhẹ; hay nói cách khác, đều bị
thương tổn,
nặng nề hoặc không nặng nề, vì Cái Ác Bắc Kít, đều đau lòng vì Con Bọ,
Con Ruồi
xuất hiện sau cú 30 Tháng Tư 1975, ở cả hai miền đất nước!
Gấu cũng đã từng lầu
bầu, Gấu làm trang TV chẳng hề vì mục đích văn chương, làm sao có
chuyện khen
chê Gấu viết văn, số 1 hay số 10 trong thiên hạ?
Một độc giả TV đã từng than
thở, vô TV của anh cu Gấu, ngoại trừ những
trang viết về BHD, tất cả còn lại thì đen thui, có khi vô một lần, mà
lẩn thẩn
mất cả một tuần lễ!
*
Thu, March 18, 2010 1:06:48
PM
From:
To:
Cc:
Trụ ơi,
Thích bài này lắm.
Cám ơn Trụ.
email cua moa la:….
Cậu liên lạc qua email nay
nhe!
Xin cậu 1 tấm hình va mấy
dòng bio de di kem bai viet nay..
Cậu gửi sơm cho mình nhe!
Mong lam!
H
Trên
đây là
cái mail, nhận
được từ bạn quí của Gấu, kể từ khi Gấu ngưng viết mục Tạp Ghi cho báo
Văn,
không phải báo Văn Học.
Đành phải phô ra, để ‘thỏ
thẻ’, Gấu không hề ham hố viết cho VOA!
Gấu đâu muốn, đã viết chùa, rồi
còn bị chửi, đồ già khú đế sắp ngỏm củ tỏi, mà còn mơ được gọi là nhà
văn!
Gấu cũng đã từng biết trước,
là cả đám sẽ trơ mặt dầy ra, làm như không hề biết đến những lời nhục
mạ cộng tác
viên của chúng!
Cảm ơn Tha La đã nói giùm
tôi (và có lẽ của rất nhiều thân hữu cũng như
văn hữu của NXH). Xin nhắn NXH chớ quá chiều chuộng bạn bè mà bắt thiên
hạ trân mình chịu đựng "loạt bài" bắn rafale non-stop nầy, có ngày
chúng tôi bị stroke hết!
VOA
LTL, chắc ông anh KT?
Bạn lầm rồi. Gấu chẳng hề
ham viết cho VOA.
Đã viết chùa còn bị chúng chửi. Gần như suốt đời sống đời ‘đâm thuê
chém mướn’, Gấu đâu có ngu đến như thế!
Blog VOA của NXH & Bạn
hữu xuất hiện cũng đã lâu, đâu có Gấu trong số những thân hữu, văn hữu?
Mới đây thôi, bạn quí xin số phone, qua một bạn văn ở Cali, nói bịnh
quá, đi giùm một, hai đường ‘cứu bồ’.
Loạt bài ‘rafale non stop’, là để đăng trên TV.
Cái sự không ưa Mẽo của Gấu, dài dòng, nhiêu khê lắm. Bữa nào rảnh, kể
hầu độc giả TV.
Thu, March 18, 2010 1:06:48
PM
From:
To:
Cc:
Trụ ơi,
Thích bài này lắm.
Cám ơn Trụ.
email cua moa la:….
Cậu liên lạc qua email nay
nhe!
Xin cậu 1 tấm hình va mấy
dòng bio de di kem bai viet nay..
Cậu gửi sơm cho mình nhe!
Mong lam!
H
Trên
đây là
cái mail, nhận
được từ bạn quí của Gấu, kể từ khi Gấu ngưng viết mục Tạp Ghi cho báo
Văn,
không phải báo Văn Học.
Đành phải phô ra, để ‘thỏ
thẻ’, Gấu không hề ham hố viết cho VOA!
Gấu đâu muốn, đã viết chùa, rồi
còn bị chửi, đồ già khú đế sắp ngỏm củ tỏi, mà còn mơ được gọi là nhà
văn!
Gấu cũng đã từng biết trước,
là cả đám sẽ trơ mặt dầy ra, làm như không hề biết đến những lời nhục
mạ cộng tác
viên của chúng!
Sự kiện trang TV
lọt vào Top Ten, đứng chỉ sau Chợ Cá, Băng Đảng Hậu Vệ, Da Tàu [Phù]
thật sự làm Gấu
ngạc
nhiên, mãi gần đây mới ngộ ra:
Độc giả TV, một cách nào đó, đều bị
cái rìu
phá băng của Kafka choảng cho một cú, hoặc nặng hoặc nhẹ; hay nói cách
khác,
đều bị thương tổn, nặng nề hoặc không nặng nề, vì Cái Ác Bắc Kít; đều
đau lòng
vì Con Bọ, Con Ruồi xuất hiện sau cú 30 Tháng Tư 1975, ở cả hai miền
đất nước!
Gấu cũng đã từng nhiều lần lầu bầu, Gấu làm trang TV chẳng hề vì mục
đích văn
chương, làm
sao có chuyện khen chê Gấu viết văn, số 1 hay số 10 trong thiên hạ?
Một độc giả TV đã từng than thở, vô TV của 'anh cu Gấu', ngoại trừ
những
trang
viết về BHD, tất cả còn lại thì đen thui, có khi vô một lần, mà lẩn
thẩn mất cả tuần lễ!
Bài
Nhịp thời gian, Gấu hằng ấp
ủ, chỉ mong có dịp thuận tiện viết ra. Khi đi
tù VC,
nghe nhạc sến, nhạc lính, nhạc vàng Gấu ngộ ra là, cái hồn của văn
chương Miền Nam chính
là ở đó
Từ trước tới
nay, cứ nói đến văn chương Nam Bộ, là, trong đầu ai cũng nghĩ ngay tới
một ông
Sơn Nam, thí dụ, mà ông này, như mọi người đều rõ, đều rành, có một cái
đuôi VC thật dài, người thời nào cũng sống được. Nếu coi cái hồn văn
chương
Miền Nam
ở nơi... đuôi
chồn của một ông Sơn Nam, VC nằm vùng thì... nhảm quá!
Cũng
không thể ở ở mấy anh Bắc
Kít di cư được!
* Những dòng sau
đây,
chẳng là viết về nhạc sến, vàng, lính Ngụy, ư?
Kundera dẫn giải:
Iliade hoàn tất trước khi thành Troie sụp đổ, vào lúc mà cuộc chiến còn
chưa
ngã ngũ, và con ngựa thần kỳ bằng gỗ chưa hề có ở trong đầu của Ulysse.
Bởi vì
đây là ý muốn, [“Tao thích như thế đấy”, mô phỏng ông Trùm Hàng Không
VC, “Tao
đếch thích như thế!”], của bậc thầy vĩ đại, tác giả sử thi vĩ đại đầu
tiên của
nhân loại:
Mi không được để cho trùng hợp [coincider] thời gian của những số mệnh
cá nhân,
với thời gian của những biến động lịch sử.
Bài thơ sử thi đầu tiên được tạo nhịp [rythmé] bởi thời gian của những
số mệnh
cá nhân.
[Nhìn như thế, bất
cứ một bản nhạc vàng, sến, lính nào của Miền Nam,
đều được tạo nhịp bởi thời
gian của những số mệnh cá nhân:
Anh không chết đâu
anh
Cho một người nằm
xuống
Rừng lá thấp…]
Trường hợp của
Solz, của Kafka,
nếu như thế, thì là do, thời của số mệnh của
riêng cá nhân họ trùng hợp với thời của biến động lịch sử.
Y như giọt lệ trời, ngàn năm trước, nhờ ‘thời gian được tái sắp xếp’,
ngàn năm
sau, trở thành giọt lệ người!
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời
gian làm
gì con người. [Brodsky] NKTV
Trong một bài viết rất ‘xưa rồi
Diễm ơi’,
cho tờ Vấn Đề của ông thầy họ Vũ, “Đi tìm một tác phẩm sẽ có”, chôm một
ý tưởng
của tụi mũi lõ, “nhà văn nhớn là kẻ kết hôn với xứ sở của nó’, Gấu bèn
đi một
đường vinh danh cái xen anh cu Dũng trong Đôi Bạn, vào một buổi trưa
hè, ‘ôi
nắng vàng sao mà nhớ nhung’, nhìn sang hàng xóm thấy một áo cánh trắng
cộc tay
bay phất phơ trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, ‘áo ai trắng quá nhìn không
ra”, và
đúng lúc đó, anh cu Dũng ngộ ra là Loan đi học, nghỉ hè, về quê, và
cùng lúc,
khám phá ra tình yêu, người yêu của mình!
Từ đó, GNV đi một đường viết về nhà văn Nhất Linh, và cuộc hôn nhân của
ông với
Đất Bắc Kít, nào là nhặt lá bàng, nào là xóm cầu mới…
V/v Đi tìm một tác phẩm sẽ có
này, Gấu
cũng có một kỷ niệm thật để đời về nó. Đó là lần đến nhà cô bạn như
thường lệ,
thấy trên bàn số Vấn Đề, mở ra ở ngay bài viết trên. Cô bạn nhìn thấy
Gấu nhìn
thấy số báo, mắt như muốn nói, đọc rồi, hay lắm!
Ui chao, làm sao mà GNV hay
thế, đọc ra
hết, những điều trên?
Thì sau này, chính cô bạn nói,
anh đâu
phải đàn bà, anh đâu phải tôi, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi
như thế?
Mũi lõ
phân biệt nhạc có lời,
chanson, song, khác với nhạc không lời. Làm gì có thứ nhạc phổ thông?
Có thể có, nhưng
không liên quan mắc mớ đến nhạc lính, nhạc vàng, nhạc sến của Miền Nam.
Nhạc họ Trịnh,
tuy ‘phổ thông’ thật đấy, vì có rất nhiều người nghe nó, hát nó, nhưng
dễ ai hiểu
nổi ý nghĩa của những lời nhạc của ông?
Điều gì khiến ông viết lời bí hiểm, hũ nút
như thế?
Nhiều tay viết
nhảm, tìm cách ăn theo TCS, phịa ra, nào là thiền, nào là Phật, nào là
vô thường…
trong lời nhạc của TCS.
Gấu, sau khi giải ra được thai đố của Kafka, mới hiểu
ra được, đây là do thiếu 1 ngày lính. Thiếu một ngày lính,
không chịu ở phía cuộc đời trong cuộc
đấu tay đôi sinh tử với nó.
Giống Văn Cao sau khi giết người.
Steiner
quan niệm âm nhạc
vượt lên khỏi xấu và tốt, thiện và ác. Khi mớm lời cho nó, là đẩy nó
vào cõi tục
lụy. Chẳng thế mà Văn Cao, sau khi làm thịt tay Việt gian DDP, không
làm nhạc
có lời được nữa, và chỉ ngao du trong cõi vượt ra khỏi thiện và ác của
những
thanh âm không lời. Chẳng thế mà mỗi lần PD làm nhạc có lời, là phải
mượn hứng
khởi, ở một nơi chốn ‘âm u và ẩm ướt’, là ‘bướm’ của một em nào đó, hay
phổ một
bài thơ.
Thơ, thanh cao, thành ra nhạc phổ thơ của ông gần tới cõi thiên thai
của nhạc
Văn Cao.
Ba thứ nhạc có lời kia của ông, đều thấm đẫm mùi tục lụy, cho rồi đòi
lại, nào
môi, nào vú, nào bướm!
Liệu,
chúng ta có thể coi,
mỗi bản nhạc lính, sến, vàng, là một ghi chú, về một giọng nói, của
thời của
chúng ta?
Và
'typical sentence', của thời của chúng ta, là, thí dụ: Như lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi? Với Greene, qua NICHOLAS
SHAKESPEARE là: "I
believe in the evil of God." Tôi tin vào cái gọi là quỉ ma ở nơi Thượng
Đế.
CULTURE
NOTES ON A VOICE
No 2 Graham Greene
"Tiger,
darling,"
Graham Greene's wife used to say whenever she found a florid metaphor -
and out
it would go. His rival and fellow Catholic, Anthony Burgess, said that
Greene
sought in his writing "a kind of verbal transparency which refuses to
allow language to become a character in its own right", His voice is
the
driest of any great writer, drier than bone.
His sentences are lean,
lucid, free of the "beastly" adverb, as well as of authorial comment
and moral judgment. He is hard to quote, not being epigrammatic like
his friend
and fellow Catholic Evelyn Waugh; nor easy to parody, like their
contemporary
Ernest Hemingway, But it rarely takes more than three of those
sentences to
situate you in Greeneland, a place whose moral temperature would wring
sweat
out of a fridge, He doesn't have a style so much as a humidity.
Greene's prose has the
clarity of a pane of glass, yet it creates an air of menace, almost an
airlessness, which intensifies the drama, His simplicity makes him
appear
modern, and two of his novels, "The End of the Affair" and
"The Quiet American", have been re-made for the screen since 2000,
Now it's the turn of "Brighton Rock" (first filmed in 1947, with
Richard Attenborough), with the tigerish Helen Mirren down to play one
of
Greene's signature waif-like women.
Golden
rule
Get on with it. Character comes through dialogue and action. No
tiresome
philosophy (except about God, generally one of Greene's least
successful
characters). He believes in "the importance of a human activity
truthfully
reported".
Key decisions
Using Catholic themes for "Brighton Rock" (1938) and his tenth (and
best) novel, "The Power
and the Glory"
(1940). They brought a commercial breakthrough and landed him with the
reputation of a Catholic novelist, which resulted in "The Heart of the
Matter" (1948) - his most famous book, but one he grew to loathe. ("I
hated the hero;' he told me in a BBC interview. When I asked which was
his favorite
of his own books, he answered without hesitation: "The Honorary
Consul" - one of eight novels he set in and around South
America.) In an age of diminishing faith, he uses Catholic
parables in a way that lend them a power beyond their biblical origins
- mining
the gospels rather as John Le Carré, his most obvious successor, has
mined the
cold war.
Strong points
Page-turning. Greene doesn't despise the thriller or detective story.
Billing
his novels as "entertainments", he is not afraid of suspenseful
chapter endings, which Virginia Woolf would never have understood. He
allies dramatic
and comic storytelling with the economy of the age of cinema, drawing
on his
experience as a film critic for the Spectator. Whereas the great novels
of the
19th century went on and on, the power of Greene lies in his concision;
he
wrote novels of about 80,000 words, which you can read and digest in a
sitting,
getting back to the unitary power of drama. When he reached his daily
target of
500 words, he would stop - even in mid-sentence. Oh, and he wrote the
screenplay for one of the best English films, "The Third Man".
Favorite trick
Learned from Joseph Conrad, the trick of comparing something abstract
to
something concrete. If we remember any of his phrases it is likely to
be one of
these images: "silence like a thin rain", or a brothel madam's
kindness mislaid like a pair of spectacles.
Role models
At 12, his favorite character was the detective Dixon Brett, his
favorite
authors John Buchan, Marjorie Bowen and H. Rider Haggard. But his
potency is
anticipated most clearly in the stories of Robert Louis Stevenson, his
idol and
distant cousin.
Typical sentence "I believe in the evil of God." - from "The
Honorary
Consul" –
Ở
Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam
đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp
trai, trẻ
măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một
tự sự lớn
[a great narrative], về Việt Nam.
Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng
cho cả
một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu
chuyện của
anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của
mình, về
tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ
theo kiểu Mẽo
đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu
thuyết. Cả
hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng
có một
câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng
cá
nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính
vị kỷ,
nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người
Mỹ Trầm Lặng,
những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và
cùng với
nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn
bà thực,
đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà
mà Pyle
đang chôm từ Fowler.
Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về
thế giới
của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ
khi được
xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây.
Ôi, tôi
hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp
của
anh. Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một
vài ý hướng
xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con
người.
Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”
Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh
ta cho rằng,
niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự
ngây thơ
của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống
giáo
[fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ
của
Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có
muốn làm
cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do
niềm tin,
cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm
thương tổn
chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là
cho tên
già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người
mà Pyle
coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý
tưởng quá
đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào
xứng
đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle
hỏi
Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình
đang tựa
lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi
đâu tính
hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người
đọc, một
hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem
lại cho
chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến
cho chúng
ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong
một cuộc
chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý
nghĩ, tư
tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những
chi tiết,
ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong
những chi
tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một
vài người
trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có
thiên hướng
tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí
phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm. NKTV
Greene thật
sướng: mỗi cuốn sách của ông, được một tay phê bình thật bảnh, đọc nó.
Coetzee
chọn cuốn Brighton Rock, in trong Inner Workings. Trong bài viết, ông
cho thấy
nối kết giữa Conrad, Greene và Le Carré. Nhưng Coetzee còn cho thấy,
Greene thuộc
thế hệ mà cái nhìn cuộc sống đô thị hiện đại ảnh hưởng nặng nề ở Hoang
Địa của
T.S. Eliot:
Graham
Greene belonged to a generation whose vision of modern urban life was
deeply
influenced by T. S. Eliot's The Waste Land. No mean poet himself,
Greene brings
Brighton to life in imagery of sombre expressionist power: 'The huge
darkness
pressed a wet mouth against the panes.' (p.252) In later books Greene
tended to
rein in the poetry when it became obtrusive.
Even more
pervasive in his fiction is the influence of cinema.
Mũi lõ phân
biệt nhạc có lời, chanson, song, khác với nhạc không lời. Làm gì có thứ
nhạc phổ
thông? Có thể có, nhưng không liên quan mắc mớ đến nhạc lính, nhạc
vàng, nhạc sến
của Miền Nam.
Nhạc họ Trịnh,
tuy ‘phổ thông’ thật đấy, vì có rất nhiều người nghe nó, hát nó, nhưng
dễ ai hiểu
nổi ý nghĩa của những lời nhạc của ông?
Điều gì khiến
ông viết lời bí hiểm, hũ nút như thế?
Nhiều tay viết
nhảm, tìm cách ăn theo TCS, phịa ra, nào là thiền, nào là Phật, nào là
vô thường…
trong lời nhạc của TCS.
Gấu, sau khi
giải ra được thai đố của Kafka, mới hiểu ra được, đây là do thiếu 1
ngày lính.
Thiếu một
ngày lính, không chịu ở phía cuộc đời trong cuộc đấu tay đôi sinh tử
với nó.
Giống Văn
Cao sau khi giết người.
Steiner quan
niệm âm nhạc vượt lên khỏi xấu và tốt, thiện và ác. Khi mớm lời cho nó,
là đẩy
nó vào cõi tục lụy. Chẳng thế mà Văn Cao, sau khi làm thịt tay Việt
gian DDP,
không làm nhạc có lời được nữa, và chỉ ngao du trong cõi vượt ra khỏi
thiện và
ác của những thanh âm không lời. Chẳng thế mà mỗi lần PD làm nhạc có
lời, là phải
mượn hứng khởi, ở một nơi chốn ‘âm u và ẩm ướt’, là ‘bướm’ của một em
nào đó,
hay phổ một bài thơ.
Thơ, thanh
cao, thành ra nhạc phổ thơ của ông gần tới cõi thiên thai của nhạc Văn
Cao.
Ba thứ nhạc
có lời kia của ông, đều thấm đẫm mùi tục lụy, cho rồi đòi lại, nào môi,
nào vú,
nào bướm!
Lẽ dĩ nhiên,
trong lời nhạc TCS có những trầm tư về một cõi người ‘vô thường’ mang
dấu ấn của
Phật của Chúa, 'hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi', thí dụ, nhưng đây là
phản ứng tất
nhiên của một kẻ đã không đứng về phía cuộc đời trong cuộc đấu sinh tử
tay đôi
với nó. Không phải tự nhiên mà ông ghiền rượu sau 1975 ? Không phải tự
nhiên mà
các em đẹp bu lấy ông...
Hãy yêu người
bằng một thứ tình yêu cũ xì, cằn cỗi vì thương hại, cáu kỉnh và cô đơn.
"Aimer
les hommes d'un vieil amour usé par la pitié, la colère, et la
solitude".
C. Milosz: Hành Trình qua Tây Phương.
Tuyệt cú!
Trong bài viết
về Victor Hugo, in trong Protée et les autres essays, Simon Leys có
trích dẫn một
câu của Delacroix, trong hội họa, ‘căng nhất là đưa thực tại vô giữa
giấc mộng’,
en peinture, ‘le plus grand de tous les tours de force, c’est
l’introduction de
la réalité au milieu d’un songe’.
Câu trên áp
dụng vô cõi nhạc sến, vàng, lính, thật tuyệt. Những ánh mắt hỏa châu
[thực tại],
giữa giấc mộng, [hoa đăng ngày cưới]
Câu này cũng
thật tuyệt, Leys trích dẫn, cũng trong bài viết:
Hugo viết:
Nghệ sĩ lớn khi tới đỉnh [vào lúc viên mãn, thành tựu,], làm lại toàn
thể nghệ
thuật theo như hình ảnh của mình [Tout grand artiste à son avènement
refait
l’art tout entier à son image]
Nghệ sĩ lớn
và toàn nghệ thuật, với nhạc vàng nhạc lính nhạc sến, là… một. Trước
đó, ở Miền
Nam, toàn nghệ thuật của nó là cải luơng. Cùng với cuộc chiến cải lương
nhập dần
vào nhạc vàng sến lính, thành thử ‘dòng chủ’ của nó, là điệu bolero, là
vậy!
Ôm em trong
tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
TTT
Nếu trong
thơ có tí mùi của ngày sắp tới, nếu thi sĩ là một thứ tiên tri, thì
nhạc luôn
có mùi của hiện tại, và khi hiện tại qua rồi, thì bản nhạc sẽ cất giữ
cho những
người đã từng nghe nó, chút kỷ niệm về nơi chốn, nhạc và người cùng gắn
bó.
Thành thử, vấn đề nghe ở đâu, vào lúc nào, một bản nhạc, là cũng rất ư
quan trọng.
Những cư dân của Sài Gòn, và nói chung Miền Nam đều giữ riêng cho họ,
kỷ niệm lần
đầu nghe nhạc Trịnh Công Sơn, thí dụ vậy, và sẽ nhớ ra rằng, bản nhạc
đã ra đời,
vào thời điểm nào.
Nhưng nhất,
vẫn là kỷ niệm những bài nhạc lính. TCS do chưa từng đi lính, nên không
thể diễn
tả được cái cảm giác, nỗi hoài mong, "Một mai qua cơn mê, qua cuộc đời
bình bồng, anh lại về bên em".
Đây là một
thiệt thòi của riêng ông, ảnh hưởng tới chúng ta.
Gấu này chẳng
đã từng lèm bèm rất nhiều lần, về cái lần nghe bản Tinh Nhớ, khi nó vừa
mới ra
lò, lần bị gọi đi trình diện nhập ngũ tại Quang Trung, vào những ngày
cận Tết,
và đêm khuya, nghe một tay tân binh đang chờ kiểm tra sức khoẻ như Gấu,
nhớ
nhà, nhớ bồ, và cứ thế huýt sáo miệng bản nhạc, khiến Gấu gần như phát
khùng,
vì nhớ Sài Gòn.
Và nhớ cô bạn.
NKTV
Đọc câu này
"Tôi thực sự tin rằng, cái gọi là tinh tuý nhất của văn học Miền Nam,
trước
1975, không ở trong thơ, văn, mà trong lời nhạc" của NQT, tôi phân vân
không biết ông có bình thường không? Nó giống như nói: Tinh tuý của xe
hơi là nằm
ở chiếc bánh xe đạp.
Nhạc thì có
dính gì đến văn học? Thật trớt hướt.
Độc giả Blog
NXH @ VOA
Tinh tuý của
xe hơi là nằm ở chiếc bánh xe đạp.
Nhạc thì có
dính gì tới văn học?
Một giả
khác, của TV:
Tôi yêu văn
chương Miền Nam, âm nhạc Miền Nam, nhưng tôi không nghĩ "Bolero" hay
"Cải lương" là linh hồn cuả nó.
*
Viết, cái kiểu
tản mạn, nay một tí, mai một tí, cái viết bữa trước cà khịa với cái
biết bữa
sau… trong khi đó, cái ‘vision’ toàn thể của bài viết chưa hiện ra đầy
đủ…
Xin tạ lỗi tất
cả. và giải thích tàm tạm thế này:
Chỉ đến khi
vô tù VC thì Gấu mới nhận ra, cái gọi là nhạc sến nhạc vàng nhạc lính…
là linh
hồn của văn chương Miền Nam!
Tại sao thế?
Bởi vì khi
vô tù VC chúng ta chẳng mang theo được cái gì khác, ngoài những thứ kể
trên,
cùng với chúng là những kỷ niệm…
Chúng ta
không thể mang theo những TTT, VP, MT…
Tác phẩm của
họ đều trở thành tro than cùng với cuộc phần thư 30 Tháng Tư.
Theo nghĩa
đó, Kafka phán, có thứ âm nhạc chỉ để tấu lên ở địa ngục!
*
Lần nghe bản
Thuyền Viễn Xứ, do một tay trại viên độc tấu Tây Ban Cầm, nó nhiêu khê
lắm.
Không có ông Trời sắp xếp là trớt qướt!
Lúc đó là thời
gian Gấu đã mua được cái chức Y Tế Đội, không còn ăn ngủ tại lán trại
viên, mà
là được đưa lên… Đội. Chỉ ở trên Bộ Chỉ Huy của Đội, thì mới có cây Tây
Ban Cầm
dành cho những buổi sinh hoạt Đội. Gấu tuy không biết đàn TBC, nhưng có
thể sử
dụng nó như là một cây măng đô lin, bấm nốt tỉ tì ti, thì dư sức.
Thế là, buổi
tối hôm đó, khi đi từng lán ghi tên trại viên khai bịnh, ngày mai cho
nghỉ lao
động đưa qua bệnh xá, xin vài viên Xuyên Tâm Liên, bèn xách cây đàn đi
theo. Tới
một lán, gặp tiệc trà, dựng cây đàn kế bên, nhập cuộc. Trong đám ngồi
dự tiệc
trà, có một tay, trong lúc hứng quá, bèn cầm cây đàn lên.
*
Nói Thuyền
Viễn Xứ được sáng tác cho những thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột
ngàn dặm,
thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc
ruột ngàn dặm,
ở ngay trong nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh
thần
thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác
giả
của nó cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả
đích thực của
bản nhạc Thuyền Viễn Xứ,là đám tù cải tạo.
Nói,
"nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng không
nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền
năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích dẫn
Lévi-Strauss, sự
phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù
cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê hương'
xuất hiện,
không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ
đau",
mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời.
Trong tù VC,
có lần Gấu đã được nghe Hạ Trắng, tấu bằng một cây khẩu cầm, harmonica,
giữa
trưa nắng gắt, đói, một thằng cha tù nào đó, bất thình lình, như quá
nhớ nhà,
nhớ Sài Gòn, lôi cây kèn ra mà gào mà rống, đếch thèm để ý đến lệnh cấm
nhạc
vàng của quản giáo.
Gấu vừa nghe
vài đường kèn, là run rẩy như "con thằn lằn đứt đuôi", trưa nắng gắt,
đói như thế, mà cảm thấy "nhẹ tênh". Sau này, nhiều lần nghe ông nhạc
sĩ Trần Mạnh Tuấn, nổi tiếng chơi saxo, tấu bài này, vậy mà cũng chẳng
thể nào
cảm thấy "phê" như lần ở trong trại cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè.
Hạnh phúc nhất,
và cũng đau thương nhất, là lần nghe Tình Nhớ, tại Trung Tâm Ba, Quang
Trung.
Hạnh phúc
này, Gấu đã từng khoe, nhiều lần rồi, nhưng cứ muốn khoe tiếp. Vả
chăng, còn rất
nhiều chi tiết, vừa hạnh phúc vừa bi thương, chưa từng kể.
Lần này,
chơi xả láng!
Cũng là một
cách tưởng nhớ ông nhạc sĩ tài ba. NQT