Như lính giữa rừng
Journeys, like artists, are
born and not made.
(L. Durrell. Chanh Chát,
Bitter Lemon)
(Lãng Du, như nghệ sĩ, có ở
trong máu, chứ không làm ra được).
Tôi vẫn thường nghĩ, đi chỉ
là để mở ra cõi trong riêng tư, khi đứng trước một cõi ngoài đổi khác.
Thú vị
hơn, nếu bạn đồng hành là một cố nhân tha phương hạnh ngộ.
Tôi và N. ngồi giữa vườn cây
trong lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời gian dẫn về một làng da đỏ
tại vùng
Bắc Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn minh, lối sống của họ, nay
được thu
nhỏ lại để trình bày cho du khách. N. trước năm 75 là một giáo sư trung
học,
ngoài ra còn viết văn, làm xuất bản. Thời gian tụi này ở trại cấm Thái
Lan, anh
thường gửi tiền, và cùng một vài người bạn can thiệp, vận động mong cho
tụi này
qua được thanh lọc. Tuyển tập truyện ngắn do anh xuất bản năm 1974,
trong có
bài, hình ảnh cùng vài dòng tiểu sử tụi này tình cờ gặp được trong đám
người
chung số phận, không ngờ thật hữu ích khi thanh lọc. Tấm hình Cao Lĩnh
chụp vào
một buổi chiều tại Sở Thú Sài-gòn là tấm hình độc nhất đánh dấu những
ngày cá
nhân tôi mê mải với những chữ.
N vẫn còn phong độ, nghĩa là
vẫn đẹp trai, vẫn còn những nét lỉnh kỉnh như cái ống vố, cách bập bập
thuốc,
như để giữ ấm hơi đời, ở cõi người lạnh giá này. Và anh vẫn còn đam mê
làm nhà
xuất bản, vẫn muốn có dịp qui tụ một số cây viết, trong một cuốn sách
có những
dòng chữ đẹp như những bức hình của Cao Lĩnh ngày nào. Tôi nói với anh,
có
những cuốn sách tạo nghiệp. Cuốn trước, trong lời tựa, anh coi đây là
vốn liếng
một đời cho quê hương, cho bạn bè. Chưa đầy một năm, Cộng Sản thôn tính
Miền Nam.
Bây giờ anh lại lăm le làm
xuất bản, biết đâu cái nghiệp lần này khá hơn, tụi mình lại có dịp ngồi
lai rai
ở Quán Cái Chùa, tại Sài-gòn.
Tôi vẫn còn nhớ cái nhìn của
anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ và Cao Uỷ Tỵ Nạn
mướn làm
thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn dừng lại rất lâu trên
khuôn mặt
tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ anh tin. Có vẻ anh thông
cảm. Có
vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một chế độ so với sức chịu
đựng của
con người.
Trong tuyển tập có một truyện
ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp",
của Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở
đường Gia
Long, để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng
chữ Tây,
chép từ cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn
thường tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20
tuổi
vào những năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều
triết
thuyết, chủ nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu
luận... Những
đàn anh chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về
sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt
những bờ
của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ
anh tính
đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ
Hữu Tường
đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh
Tâm Tuyền
khi viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ
Hữu
Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm
Tuyền lúc đó
còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn.
Truyện được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Tôi cũng nghe nói. chị NG.
phu nhân anh N. là một ca sĩ. Lần trước tụi này lên Montreal, thời gian quá ít ỏi nên
không được
hân hạnh nghe tiếng hát của chị. Tôi nói với N., cũng vẫn một giọng đùa
đùa,
chỉ mong chị đừng có tiếng hát của cô Tơ trong Chùa Đàn.
"Nguyệt giãi tàn
nhang...ư... Con sông hồ nước biếc... Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh
mệnh chỉ
còn dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là đời
người
đang cúi xuống cái gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn".
Cũng lại một cuốn sách tạo
nghiệp, Chùa Đàn. Đọc lại tôi thấy tiếc hùi hụi, phải chi Nguyễn Tuân
đừng thêm
vô Mưỡu Cuối. Cũng vẫn chuyện Ngày Mai ăn bánh khỏi trả tiền, trong một
Thị
Trấn Ngày Mai, của một Ngày Mai Ca Hát. Ngày Mai to lớn hơn, huy hoàng
hơn...
Vâng, cũng những bài xưa cũ
đó, buổi tối tại một nhà hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG. Cô Tơ đã
chết
rồi, bây giờ những bài hát không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch
quá khứ,
đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu
lá thấp mà thôi...".
Nguyễn Quốc Trụ
Sao không hát cho người giết
giặc trên cầu
Khi bùn lầy còn pha sắc áo
xanh
Trong khói súng xây thành
Mắt quầng thâm mất ngủ
Tàn đêm khói lửa
Giờ chỉ cần hai tiếng mến anh
Sao không hát cho những người
còn mải mê
Lá rừng che kín đường về phồn
hoa
Không hát cho những bà mẹ già
từng đêm nhớ con xa
Hay hát cho những người vừa
[gục] nằm xuống chiều qua.
Đây có lẽ là bài hát tuyệt
vời nhất trong những bản nhạc sến, nhạc vàng.
Từ
Trong khói súng xây thành
chuyển qua
Mắt quầng thâm mất ngủ
thì đúng là khủng khiếp, quái
chiêu thật!
Hai
câu liền sau đó, cũng
thật là thần sầu:
Sao
không hát cho những người
còn mải mê,
Lá
rừng che kín đường về phồn
hoa
Gấu này, do chưa
từng đi
lính, mê thì quá mê, nhưng có mấy câu, mấy chữ không làm sao hiểu được
ý của
tác giả.
Thí dụ: Tàn đêm khói lửa, giờ chỉ cần hai tiếng... hai tiếng gì? Bên
anh, hay mến anh?
Đừng
hát như chim trên ngọn
lá sầu, hay, vùng lá sầu?
Câu này thật hay, nhưng thật khó hiểu: Ngọn lá sầu?
Vùng lá sầu?
Yêu
lá thấp là... yêu cái lá
đó?
Càng
khó hiểu càng hay!
*
Rừng Lá Thấp
Rừng lá xanh xanh
cây phủ
đường đi
Thành phố sau lưng
ôm mộng
ước gì
Tôi là người vui
chinh chiến
dài lâu
Nên mộng uớc đầu tôi
nghe đã
chìm sâu
Từ máy thu thanh cô
nàng vừa ca
Trọn kiếp yêu anh
lính khổ xa
nhà
Giữa rừng già nghe
tiếng hát
thật xa
Nhưng giữa rừng già
tôi có
thấy gì đâu
Sao không hát cho
người giết
giặc trên cầu
Khi bùn lầy còn pha
sắc áo
xanh
Trong khói súng xây
thành
Mắt quầng thâm mất
ngủ
Tàn đêm khói lửa
Giờ chỉ cần hai
tiếng mến anh
Sao không hát cho
những người
còn mải mê
Lá rừng che kín
đường về phồn
hoa
Không hát cho những
bà mẹ già
từng đêm nhớ con xa
Hay hát cho những
người vừa
[gục] nằm xuống chiều qua.
Rừng là xanh xanh
lối mòn
chạy quanh
Đời lính quen yêu
gian khổ
quân hành
Nghe từ ngày thơ
tiếng súng
triền miên
Đánh giặc lâu bền
cho non
nước bình yên
Lời hát xin gây rung
động
thật lâu
Đừng hát như chim
trên ngọn
[vùng] lá sầu
Xin thật lòng trong
câu hát
đầu môi
Như lính giữa rừng
yêu lá
thấp mà thôi.