*
Hình Nữu Ước Thời Báo

Solzhenitsyn, long a nonperson in communist Russia, beams down from a billlboard advertising "The First Circle" above a street in downtown Moscow.
Bích chương quảng cáo Tầng Đầu Địa Ngục, phim TV 10 tập, trên đường phố Moscow. "Cha già dân tộc", râu ria xồm xoàm, mỉm cười nhìn xuống nhân dân.

Cha già dân tộc, hay khiêm tốn hơn, lương tâm của đất nước, tiếng tăm của ông cũng lên xuống như chính nước Nga, kể từ khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Tầng Đầu Địa Ngục, một lần nữa, đưa ông trở lại sàn diễn, tới được với công chúng, một điều kể như không thể nào hiểu nổi, vào thời điểm bốn chục năm trước đây, khi ông lén lút tuồn tác phẩm ra nước ngoài.
Tập I, đứng đầu, trong tuần qua, đánh gục "Terminator 3", nhưng sau đó, tụt xuống hạng năm, tuy nhiên, vẫn có chừng 15 triệu người coi!

Chúng ta cứ thử tượng, trong nước bi giờ cho quay Chuyện Kể Năm 2000, của Bùi Ngọc Tấn, mở ra bằng cảnh Cây Đa Tân Trào đồng chí Giáp ra quân, và kết thúc, người tù BNT từ giã nhà tù Tân Trào, đứng ngay ở gốc cây đa, vẫy vẫy những bạn tù còn kẹt lại.
Không chỉ toàn thể nhân dân, mà toàn thể oan hồn, cũng thức dậy, chen chúc nhau coi!
Chẳng lẽ đàn anh Liên Xô dám, mà thằng em út VC không dám, chịu chơi?

Bà Solzhenitsyn nói: “Cuốn phim đạt mong muốn: chúng tôi cần có một hành vi ăn năn thật sự.“

bnt
BNT & NQT

[Gửi HT và bằng hữu: Tết này, không về được, gửi bài Đêm, mưa, viết, gửi về Bắc Thân, NQT]

".... hắn ngồi nép vào một góc quán, tay ôm cái bọc, nhìn trời, nhìn nắng và sốt ruột. Mặt trời đã chếch chếch trên đầu cây đa Tân Trào xa xa rồi."
Chuyện Kể Năm 2000

Ối giời ơi là giời!
Hai Lúa được mời vô Vẻ Vang Dân Mẽo!
From:
Date: Saturday, February 11, 2006 9:16:50 AM
To:
Subject: Your Invitation to Americas Whos Who
Congratulations!!
It is with great pleasure that we extend to you an invitation to be included in the forthcoming Inaugural Edition of the 2006-2007 of The America’s WHO'S WHO Registries.
This Inaugural Edition recognizes those men and women who have achieved success in their respective fields. This special edition of the registry is designed as an outstanding networking source for the American marketplace as well as a world wide source for the Who's Who of global decision makers.
We believe your accomplishments, as a highly respected professional in your field, merit very earnest and intense consideration for inclusion...
 Có lẽ biết bé cái nhầm, mail kế tiếp, y chang, nhưng thay vì Mẽo, thì là:
From:
Date: Saturday, February 11, 2006 5:06:05 PM
To:
Subject: Your Invitation to Prestige Who's Who
*
DTH trên TV Pháp
Sau mỗi cuộc chiến
Phải có ai đó dọn dẹp sắp xếp mọi chuyện.
Mọi chuyện, tự chúng, đâu làm được chuyện này?...
Một người nào đó. Chổi ở trong tay.
Vẫn nhớ chuyện xẩy ra.
Wilslawa Szymborska
Trang DTH

Salvation or Ruin: Cứu Rỗi hay Điêu Tàn.
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.

Tôi không tin DTH đã từng đọc Arendt, nhưng, như nhà phê bình của tờ Le Monde viết về bà - "... sinh trưởng tại miền Bắc và đối diện với những khủng hoảng, những điên rồ của cuộc chiến, với chế độ độc tài, bà không để những từ 'số kiếp phũ phàng, định mệnh đã an bài, cái nước mình nó như thế' len vào trong đầu, mọc mầm mọc rễ, tạo thành một cái tổ nho nhỏ ở trong đó" - thì đây chính là cách nhìn Kafka của Arendt khi bà cho rằng, nếu bảo ông là nhà tiên tri, nhìn ra cơn ác mộng toàn trị trước khi nó xẩy ra, thì mới cắt nghĩa được... một nửa lời tiên tri mà thôi. Chỉ nhìn ra được cái phần điêu tàn của nó.
Nửa còn lại, là, "cái nước mình nó bắt buộc phải khác như thế", mới là điều mà DTH quan tâm, mong mỏi và chiến đấu vì nó.

Đọc bà, rồi đọc những nhà văn trong nước cùng thời với bà, cả những người nổi tiếng thế giới, ta thấy ngay sự khác biệt, và tự hào về bà, như chính bà tự hào, về mình:
Tôi lúc nào cũng là một con sói đơn độc.
NQT

On Evil
Về Cái Tà Ma, Đại  Ác
*
[So hình này với hình trên, thấy.. sợ Cái Đại Ác chưa?]

Trong thiên hạ có ba ông/bà tận mắt chứng kiến Cái Đại Ác, và chỉ ra nó, "Ơ Ra Kìa", nó đây này, đó là Hannah Arendt, Svetozar Stojanovic và Aleksandr Solzhenitsyn, theo Paul Crichton, trên TLS, số đề ngày 27 Tháng Giêng 2006, khi điểm hai cuốn Destined For Evil [Cái Nước Mình Nó Như Thế: Đẻ Ra Dưới Ngôi Sao Đại Ác]: The 20th century responses, Ứng Phó của thế kỷ 20, Predrag Cicovacki biên tập, nhà xb University Rochester Press, 50 Anh Kim, và cuốn Về Cái Ác, On Evil của Adam Morton, nhà xb Routledge. Bản bìa mỏng 15.95 Mỹ Kim.
Phát hiện mới mẻ nhất về Cái Ác, của Morton, theo người điểm sách, đó là, ai cũng ác như nhau, nhân chi sơ tính...  bản ác, nhưng, với những con người thường thường bậc trung, thì chỉ muốn ác... khơi khơi thế thôi", đếch có dám biến nó thành hiện thực! [Morton thinks that what marks out evil-doers from the rest of us is not so much their desires, which are, on the whole, little different from anyone else's, but they are able to transmute their desires into actions: Ai cũng thèm... ác như nhau, có hơn kém thì cũng tí ti thôi, nhưng mấy ông... [mấy ông 'chấm chấm chấm' đó] có khả năng biến cái muốn của họ đó thành hành động].
Và đây là cái rào cản, mà Morton gọi là "lý thuyết rào cản về cái ác" [the barrier theory of evil]. Theo người điểm sách, lý thuyết này có cái hay là giải hoặc, demystifying, cái ác, coi  đó như là cơ sở, để, mỗi khi bị cái ác nó quần, thì theo đó mà ứng phó, không đến nỗi khiếp vía rùng rùng cả nước chạy ra biển!

Svetozar Stojanovic
Born 1931. Founder and President of the Serbian-American Center, Belgrade. Professor and director emeritus of the Institute for Philosophy and Social Theory, University of Belgrade. Elected member, Institut International de Philosophie, Paris. Elected member of the International Academy of Humanism, Buffalo, NY. Distinguished Research Fellow, Center for Inquiry International, Buffalo, NY. Elected member of Clare Hall College, Cambridge, UK. Elected member, Academy of Humanities Research, Moscow. Member of the Advisory Board of the University of Belgrade. Member of the Board of "Politika", Newspaper. Radio and TV co, Belgrade.
His publications include 6 books, 4 brochures and about 130 journal articles translated into 14 languages. Books in English: "Between Ideals and Reality", Oxford University Press, 1973; "In Search of Democracy in Socialism", Prometheus Books, Buffalo, NY, 1981; "From Marxism and Bolshevism to Gorbachev", Prometheus Books, 1988; "The Fall of Yugoslavia: Why Communism Failed", Prometheus Books, 1997; and "Serbia: The Democratic Revolution", Humanity Books, Buffalo, NY, 2003.
He has been distinguished visiting professor at many universities in U.S., Germany, Great Britain, Austria, India
As one of the leading dissidents under Tito, together with 7 other professors from the so called Praxis-group, was expelled from the University of Belgrade, in January 1975.


Thi Sĩ và Thế Giới
Wilslawa Szymborska

Chống Bất Phục Phản: Về Jean Améry
Against The Irreversible: On Jean Améry
W. G. Sebald
Vào giữa thập niên 1960, khi, sau một thời gian dài im tiếng, Jean Améry lại xuất hiện trước tầng lớp công chúng nói tiếng Đức, với những bài tiểu luận về lưu vong, đề kháng, tra tấn, và diệt chủng, những khuôn mặt văn học của tân Cộng Hòa Liên Bang vẫn còn đang cố làm sao cân bằng mức thâm thủng đạo đức lớn lao, [điều mà Jean Améry có vẻ như chẳng quan tâm cho lắm], cho tới năm 1960, vẫn là mặt nổi của văn chương thời kỳ hậu chiến. Thật chẳng dễ dàng khi phải hình thành một ý nghĩa, về con số những rào cản mà ông phải vượt qua, khi quyết định lại nhẩy vô cuộc bàn luận. Sự kiện là, những kinh nghiệm như của riêng ông không còn bị coi là điều cấm kỵ khi phơi bầy trước công chúng, điều này hẳn đã giúp cho ông xác định vị trí của riêng mình; về mặt khác, nhiệm vụ của ông trở nên thật khó khăn, do hoàn cảnh rất ư đặc biệt, đó là, có rất ít những tiếng nói chân thực đã cất lên trong cuộc bàn luận; tuy nhiên, ít ra, phải nói, có tiến bộ so với sự dửng dưng lạ kỳ không thể hiểu nổi của thập niên 1950.

Tiểu Thuyết Trinh Thám
Kertesz trả lời Le Figaro/AFP, 8.2.2006
Một Chủ Nhật Khác 19, 20
Đà Lạt
8

Ẩn hả nhớ chứ
Nhân đọc, cũng tờ Người Nữu Ước, có bài viết về một tay bảnh hơn Ẩn nhiều, số phận thảm hơn Ẩn nhiều. Không làm điệp viên, nhưng là người chuyên trị điệp viên: Code Breaker, kẻ phá mật mã. Nhờ ông này, không biết bao nhiêu mạng người đã được cứu thoát trong Đệ Nhị chiến. Ông còn là người đẻ ra cái máy computer.
Ông tự tử bằng cách ăn trái táo có tẩm thuộc độc, y như trong Người đẹp ngủ trong rừng.
Hai Lúa hy vọng sẽ có dịp dịch bài này cống hiến bạn đọc Tin Văn, nhất là những độc giả mê môn Toán.

CODE-BREAKER
The life and death of Alan Turing.
by JIM HOLT
Issue of 2006-02-06
Posted 2006-01-30