Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng
Tám, 1937
tại Kinh Môn,
Hải Dương.
Quê Sơn Tây
(Bắc Việt).
Vào Nam
1954.
Học Nguyễn
Trãi
(Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975
công
chức
Bưu Điện
(Sài-gòn).
Tái định cư
năm
1994 tại Canada.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm
Trắng,
Huỳnh
Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện,
Tạp luận
[Văn Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người Chết Mỉm
Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng
sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Bản quyền
thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô
vụ lợi,
liên
lạc
email
Cần ghi rõ
xuất
xứ
[nguồn] khi sử dụng.
Links
Văn
Art2all
Ý Kiến
Quán Gió
Việt Báo
Talawas
VN Express
Guardian
Hồ
Biểu Chánh
Chess
Trang
& Bài đặc biệt
Hiện
tượng Trâm Thạc
&
Bài vở liên hệ
Thư Tín
Lô cốt
trên đê
làng
Thanh Trì, Sơn
Tây
Golden Bridge
August, 2004
Alexa Ranking
81,253
|
Harold
Pinter – Nobel Lecture
Art, Truth & Politics
In his video-taped Nobel acceptance speech, Harold Pinter
excoriated a 'brutal, scornful and ruthless' United States.
(1)
Thursday December 8, 2005. Guardian
Diễn văn Nobel
Nghệ thuật, sự thực và chính trị.
Trong diễn văn Nobel năm nay, qua băng hình video, [do đau thanh quản,
và đang nằm viện], Harold Pinter làm một nghi lễ trừ tà
cho nhân loại. Tà ở đây, là một nước Mẽo 'dã man, tàn bạo, khốn kiếp'.
Tin Văn sẽ chuyển dịch toàn bộ bài diễn văn.
(1) Nguyên văn: Harold Pinter tố cáo một nước Mỹ "dã man, man rợ, ghê
tởm, tàn nhẫn, không còn một chút lương tâm".
Có hơi hướng Beckett, nhất là của Tàn
Cuộc, Endgame, kịch của nhà văn nhà soạn kịch, Nobel văn chương,
người Ái Nhĩ Lan.
Passionate Pinter's devastating assault on US
foreign
policy
Shades of Beckett as ailing
playwright delivers powerful
Nobel lecture
Nobel lecture
Diễn văn
Nobel văn chương 2005
Nghệ thuật, Sự thực & Chính trị
Vào năm
1958, tôi có viết như vầy:
“Chẳng thể phân biệt rạch ròi giữa thực và không
thực, đúng và sai. Sự vật không bắt buộc phải, hoặc đúng hoặc sai; nó
có thể cả
hai, nghĩa là vừa đúng vừa sai”.
Tôi tin rằng lập luận trên vẫn còn nghĩa, và
vẫn có thể áp dụng trong thám hiểm, khai phá thực tại qua nghệ
thuật. Như thế, là một nhà văn, tôi vẫn khư khư giữ chúng, nhưng,
là một công dân, tôi không thể. Là một công dân, tôi phải hỏi: Đồ nào
đồ thực, đồ nào đồ giả?
Đi
tìm một tác phẩm sẽ có
Bạn đọc thấy ngay từ những năm 60, Merleau-Ponty đã nhìn thấy rõ kết
cục bi
thảm của tương lai Cộng sản Việt Nam hiện nay: Hành động dã man, tư
tưởng tín điều.
Lý do là, theo Merleau-Ponty, "nối kết mác-xít giữa triết học và chính
trị
đã đứt rời". Và người ta cứ coi như nó vẫn như thế, theo nguyên tắc,
trong thế giới tương lai, nghĩa là thế giới ảo tưởng, điều Marx đã nói:
"Triết học, cùng lúc, được thực hiện và tiêu huỷ bởi lịch sử, cái phủ
định thì cứu vớt, cái tiêu huỷ thì hoàn tất." (La philosophie à la fois
réalisée et détruite par l'histoire, la négation qui sauve, la
destruction qui accomplit. Signes, p.13). Và ngay từ năm 1960,
Merleau-Ponty
đã tỏ ra sáng suốt, khi kết luận: "Cuộc vận hành siêu hình đó đã không
xảy ra." Thời đại đã chứng rõ ràng là, trong khi qui luật mác-xít đòi
hỏi, đừng tiêu huỷ triết học nếu không thực hiện nó, thực tế
Stalinienne tiêu huỷ triết học, giản dị có vậy.
Hôm nay nhân loại nói chung một tiếng nói
Giả
như cuốn nhật ký của cô Trâm
"đuợc" ông Mẽo đốt bỏ?
Như được biết, đúng ra cuốn nhật ký đã bị đốt bỏ. Nhưng một ông thông
dịch viên Ngụy can, đừng, đừng, có lửa sẵn ở trong đó rồi!
Sự tình sẽ khác hẳn, nếu không có ông thông dịch viên Ngụy.
Cynthia Ozick tự hỏi, sự tình sẽ ra sao, nếu bà thần hộ mệnh của Anne
Frank đó, vứt tập nhật ký
của cô vào thùng rác, hay lò lửa?
Khi ông thông ngôn Ngụy kia nói, có sẵn lửa ở trong đó, ông muốn nói,
hãy để cho cuốn sách tự nó đốt nó?
Album
Chùm ảnh Bạn Văn & Bà Con VC của HL
BVVC
Lần về Hà Nội đầu, đầu thiên niên kỷ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách, gặp
những bạn bè chẳng hề quen, trong có NTS, liền tập tức anh làm Hai Lúa
nhớ đến một người bạn thân, cùng học Nguyễn Trãi, mà Hai Lúa bỏ lại khi
nhẩy vội lên con tầu xuống Hải Phòng, chạy một mạch vô Sàigòn.
Nhưng mà này, liệu có cái gọi là văn học Việt Nam hải ngoại không đấy,
Hai Lúa nhớ, ông nhà văn ra đi từ miền bắc VTH
đã có lần nham nhở hỏi lại cái tay phỏng vấn ông.
Cũng là cảm giác ấy, có thể nói như vậy, nhưng bàng hoàng hơn, sửng sốt
hơn, hạnh phúc sung sướng hơn nhiều, khi Hai Luá gặp một nhà văn ra đi
từ Hà Nội,
cùng với gia đình của bà, lần ghé thăm cựu lục địa.
-Ôi chao, những con người Hà Nội, thứ thượng hảo hạng của nó,
sau 1954 cho đến mãi ngày này, mà vưỡn còn, hử?
Thế mình về được rồi! Phải về rồi!
Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc
trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản
ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với
nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh
buốt.
Lần Cuối Sàigòn
Chừng hai mươi
phút sau Kiệt gặp lại Oanh. Trong quãng thời
gian ngắn ngủi, vừa đủ cho Kiệt vào nhà, thay quần áo, chạy xe vòng
quanh hồ,
lòng nô nức như đứa con trai mười bẩy tuổi được buổi hẹn hò đầu tiên
trong đời.
Vậy mà trông thấy Oanh, Kiệt có cảm tưởng như tình cờ run rủi gặp lại
cô bé sau
bao ngày mong mỏi tìm kiếm.
Chạy quanh hồ
lớn, Kiệt đánh nhịp chân, hát nghêu ngao, nhìn
ngó lên những ngọn đồi, hy vọng thấy mầu áo vàng bay lượn. Bữa ấy chẳng
ai mặc
áo vàng trên đồi.
Ngược dốc chợ,
Kiệt vẫn đang hát. Trên đầu dốc, Oanh vừa leo
hết những bực thang từ phố dưới lên. Nàng đi cùng với một cô bạn gái.
Đám đông
tấp nập. Một tốp bạn quen đang nhả dạo trên hè đã trông thấy Kiệt. Mặc.
Kiệt
hãm gấp xe gọi:
-Oanh.
Thiếu nữ bẽn
lẽn, định làm ngơ. Người bạn gái giật giật tay
khiến nàng ngượng thêm, trong khi Kiệt kêu tiếp: Oanh. Nàng đành tiến
lên, bỏ
bạn đứng tại chỗ đợi. Mặt Oanh đỏ vẻ giận dỗi. Kiệt nghĩ cô bé có thể
mếu.
-Mai đến anh
hả? Kiệt dịu giọng.
-Dạ.
Kiệt không tìm
thấy câu kế tiếp. Người qua lại như rối sau
lưng Oanh. Nàng ngước mắt thúc giục.
-Em đi với ai?
-Bạn. Không có
học anh đâu.
Câu sau Oanh
nói lẹ. Rồi nhoẻn miệng cười.
Một
Chủ Nhật Khác
1 2 3 4 5 6
Cuốn sách
tiếng Anh đầu tiên tôi được đọc, tại trại tị nạn Thái Lan,
sau khi chạy trốn [và thoát được] quê hương, là một cuốn thuộc loại
dành cho học sinh nước ngoài học tiếng Anh.
Nhan đề của
nó, lấy ra từ
một dòng thơ "promises to keep", trong bài
Dừng
ngựa bên rừng chiều tuyết rụng, của Robert Frost.
Trong cuốn
sách, có một số truyện thuộc loại ngụ ngôn, một làm tôi nhớ
đến những "ẩn dụ" như cá rô cây, nước mắm lá chuối.
|