Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng
Tám, 1937
tại Kinh Môn,
Hải Dương.
Quê Sơn Tây
(Bắc Việt).
Vào Nam
1954.
Học Nguyễn
Trãi
(Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975
công
chức
Bưu Điện
(Sài-gòn).
Tái định cư
năm
1994 tại Canada.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm
Trắng,
Huỳnh
Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện,
Tạp luận
[Văn Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người Chết Mỉm
Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng
sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Bản quyền
thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô
vụ lợi,
liên
lạc
email
Cần ghi rõ
xuất
xứ
[nguồn] khi sử dụng.
Links
Văn
Art2all
Ý Kiến
Quán Gió
Việt Báo
Talawas
VN Express
Guardian
Hồ
Biểu Chánh
Chess
Trang
& Bài đặc biệt
Hiện
tượng Trâm Thạc
&
Bài vở liên hệ
Thư Tín
Lô cốt
trên đê
làng
Thanh Trì, Sơn
Tây
Golden Bridge
August, 2004
Alexa Ranking
81,253
|
Mưa, tác phẩm mới nhất của Jen
Tự họa: Lãng Tử Về Đêm
Nhìn bằng con mắt nội.
Cái sọ ở bên dưới làn da.
Tự Họa với Cái Chai.
"I came frightened into
the world and lived in perpetual fear of life
and people": thus was Munch, as an aldult.
"Tôi vào đời là đã khiếp viá, và sau đó, sống thường trực với sợ, đời
và người"
[TLS 18 tháng Một, 2005]
Edvard
Munch (December 12, 1863 – January 23, 1944) was a
Norwegian expressionist painter and printmaker. His intense, evocative
treatment of anguish greatly influenced development of German
expressionism in
the early 20th century.
The Scream (1893;
originally called Despair),
Munch's
best-known painting, is regarded as an icon of existential anguish. As
with
many of his works, he painted several versions of it. The Scream is one
of the
pieces in a series titled The Frieze of Life, in which Munch explored
the
themes of life, love, fear, death and melancholy. It was stolen from
the
Munch-museum in Oslo,
Norway,
August 22. 2004, and
unsubstantiated rumors record it as being destroyed by the thieves.
[Họa sĩ Na Uy, nổi tiếng với bức Tiếng
Thét, thoạt
đầu gọi là Chán Chường, được
coi như một biểu tượng về nỗi đau của kiếp người; bức này bị ăn trộm,
và nghe đồn, bị bọn trộm thiêu huỷ].
[From
Wikipedia, the free encyclopedia. Bách khoa từ điển online]
Thi sĩ hả? Đã nếm cơm tù
lần nào chưa?
Nếu ở Anh, và là thi sĩ,
bạn
có nhiều cơ hội đọc thơ, ở các trường học, và việc mời mọc này là do
Hội Thơ [Poetry Society]. Bạn nhận được một cái thiệp mời, ấn định ngày
giờ, và sau đó, thắng bộ đi.
Nhưng Hội Thơ bây giờ ở Anh khó hơn xưa nhiều.
Họ sẽ gửi cho bạn một cái thư, do Angel Dahouk của Hội Thơ, ký, trong
đó tha thiết yêu cầu bạn gửi cho chúng tôi một bản sao lý lịch trích
ngang, do văn phòng hình sự, The Criminal Records Bureau, cấp phát, cho
biết mọi chi tiết liên quan vấn đề hình sự, thí dụ như bạn có bị bắt bớ
lần nào chưa. Nếu bạn giấu diếm, chúng tôi đành phải gạch tên bạn.
Và nếu như thế, thì cũng có khá nhiều nhà thơ bị gạch tên. Tờ TLS, 18
Tháng Một. 2005, đưa ra vài thí dụ: Christopher Logue, nổi tiếng với
bản dịch Iliad, đã từng ăn cơm
nhà tù hai lần. Vernom Scannell suốt đời trốn công an, tội trốn lính.
Ezra Pound khỏi nói, tù dài dài, đến nỗi bạn bè phải viện lý do ông
điên mới đưa ông ra khỏi tù, để... chết. Paul Verlaine tù mười tám
tháng vì tội bắn một ông bạn thi sĩ....
Tuồng Ảo Hóa Đã Bầy Ra Đấy
Sau nhật ký của Anne Frank, đây là cái
nhìn của một đứa trẻ
về Lò Thiêu làm xúc động độc giả. Cuốn "Những Đoạn Rời" mỏng, chỉ 150
trang, nhưng đúng là một chứng liệu khủng khiếp của một người căn cước
tả tơi,
ngay cả trước khi có cơ hội là một đứa trẻ.
Yet any
projection of
Anne Frank as a
contemporary figure is
an unholy speculation: it tampers with history, with reality, with
deadly
truth.
Cynthia Ozick: Who Owns Anne
Frank? [Ai sở hữu Anne Frank?]
Mọi phóng chiếu Anne Frank, như một hình tượng đương
thời đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác quỉ. Bởi làm thế là
đụng chạm
tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người].
"Vụ án" PD
Man is not merely one who
lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi
là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ, sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
"Ở bẩn sống lâu" hay
"không
thành công thì thành nhân", bạn muốn thứ nào?
Trong kỳ trước, Hai Lúa có viết, PD làm nhớ tới Milosz - một người đi,
một người về - và bài viết ngắn của ông, về nhà thơ "bửn" của thế
kỷ. (1)
Nay, nhân đọc Steiner, Những Bài Học của những Sư Phụ, Lessons of the
Masters, trong đó ông vinh danh một trong những vị Thầy Suy Tưởng,
Maitres à Penser, là Alain. Ông thầy này dậy học trò một câu, thật quái
dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối
thượng về đạo đức, the supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải... bẩn! Phải chiều theo
luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải
thỏa hiệp.
Cái khổ của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là
sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người
nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành
công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!
(1) Về cái vụ bẩn
này, nhà thơ Nobel vừa mới mất, Milosz, có nói tới, trong một "ẩn dụ"
rất ư là tuyệt vời, và chỉ những ai đã từng sống ở trong một chế độ
toàn trị mới viết ra được. Một phần nào, ông được Nobel là nhờ vậy.
Ông kể chuyện một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình
bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả
những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như
vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả"
đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.
Là nhà
thơ bẩn của thế kỷ. Sướng thật!
Tôi sợ rằng, vào lúc này, vào những giờ phút nóng bỏng của Lò Luyện
Ngục, mấy ông thi sĩ như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Huy
Cận... và có thể, có cả thi sĩ, tác giả tập Thơ Trong Tù đang rộn rã
bước vào Ngày Hội Thơ, hay Show Bình Bầu Nhà Thơ Bẩn Nhất Thế Kỷ 20 Của
Nền Thơ Ca Của Chúng Ta, cũng nên!
Biển
Nhớ 3
Một tác giả trong nước, Trần
Tiễn Cao Đăng, gọi bản dịch Mật mã Da Vinci, một thảm họa dịch thuật.
Nabokov đã dùng đúng từ này để gọi bản dịch của Garnett, "một thảm họa
đầy đủ", "a complete disaster".
Nghe nói, trong nước, thảm họa còn là do nguyên tác bị cả một bầy dịch
giả xúm nhau lại làm thịt! Nghĩa là, mỗi người xé ra một mẩu, để dịch,
rồi sau đó, ráp lại.
Bà Garnett, thì mình ên, nhưng đúng là cả một xưởng dịch. Remnick viết,
với cặp mắt lợt lạt, mọng nước, với mớ tóc xám, bà là một xưởng dịch
không hề mệt mỏi: Bẩy chục bộ văn xuôi Nga, chỉ để nhằm mục đích thương
mại, trong đó có toàn bộ tác phẩm của Dostoevsky, hàng trăm truyện ngắn
của Chekhov, cộng thêm hai cuốn kịch của ông này, tất cả những tác phẩm
chính của Turgenev, gần như toàn bộ tác phẩm của Tolstoy, những bản văn
chọn lựa của Herzen, Goncharov, và Ostrovsky.
D.H. Lawrence, nhà văn Anh, bạn của Garnett, đã kính cẩn cúi mình chào
sự bền bỉ của bà, khi nhớ lại, cảnh, bà, dịch xong một trang, vứt xuống
sàn nhà, chẳng thèm nhìn, và vớ trang khác dịch tiếp; những tờ giấy xếp
thành đống tới tận đầu gối bà, đúng như vậy, tất cả thì thật là
thần kỳ [and all magical]!
Trong cuốn viết về văn chương Nga [Lectures on Russian Literature],
Nabokov nhắc tới bản dịch Karerina của bà Garnett, và lời khen tặng của
Conrad, khi nói ông chồng bà này: Đừng quên nhắc nhở tôi một tiếng với
bà vợ của ông, người đã đem đến cho đời, một bản dịch Kha Lệ Ninh thật
là tuyệt vời!
Ông bố của Lolita cáu quá,
chửi um lên, và nói, tôi sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho thằng chả
[Conrad] này.
Còn Brodsky, nhà thơ đồng ý với từ "một thảm họa đầy đủ", mà Nabokov
dùng để phạng bà Garnett.
*
... dịch thuật hiện đang là đề tài
"hot" ở trong nước. Nào là dịch dở, dịch sai, dịch xô bồ, "đạo
dịch", "thảm họa dịch"...
Tất cả những khuyết điểm đó, theo tôi, chưa đáng sợ, so với
thứ này: Những tác phẩm "nhạy cảm", của những nhà văn "nhạy
cảm", đều bị thiến, hoặc được chích thuốc miễn nhiễm, được khử trùng...
trở thành "bất lực" "vô hại", trước khi đến tay độc giả
Việt Nam.
*
Trong
bài viết "Hãy Bước Qua Lằn Ranh Này", Rushdie trích "Ghi chú về
dịch thuật" của Nabokov, qua đó, nhà văn Nga này cho rằng, có "ba bậc
quỉ ma" [three grades of evil], trong thế giới lạ kỳ dịch thuật.
Bậc thứ nhất, không đến nỗi tà ma cho lắm, là do thiếu hiểu biết, hiểu
sai. Cái này tha thứ được. Vì làm người có nghĩa là phải có lỗi lầm.
Bậc thứ nhì dẫn tới Địa Ngục, "The next step to Hell", là thiến vô tư,
thoải mái những
chữ, những đoạn, mà dịch giả không hiểu nghĩa , hay cảm thấy,
chúng có
vẻ mù mờ, tối tăm, hay thô bỉ, dơ dáy, tục tĩu đối với những độc giả mà
người dịch mường tượng ra ở trong đầu.
Bậc thứ ba, tội ác tệ hại nhất trong dịch thuật, là dịch giả muốn "làm
tốt", sửa đổi, improve, nguyên tác, "đánh bóng, minh họa" nó, sao cho
tác phẩm đi đúng luồng, phục vụ yêu cầu của nhân dân [to conform to the
notions and prejudices of a given public: phù hợp với quan niệm và định
kiến của một tầng lớp công chúng nhất định].
Vấn
nạn dịch
Trường hợp dịch "áp bức" thành "ẩn ức", thuộc "quỉ bậc ba".
Nobel
05
Kiệt vừa đặt chân vào
trong hành lang sâu hoắm bít bùng như
một đường hầm đã nghe văng vẳng tiếng nhạc từ phòng Nghiêm. Anh chàng
có thói
quen mở nhạc lúc làm việc. Nghiêm thu thập trong hai năm học ở Mỹ được
một bộ băng
nhạc quý. Những khúc nhạc vẳng trong trại binh buổi tối đã dẫn dụ Kiệt
tới phòng
Nghiêm gõ cửa làm quen.
Vừa
thoát cơn huyễn hoặc của bóng lửa trên núi, Kiệt lại bị
xô ngụp vào cơn huyễn hoặc của những âm thanh thân thiết.
Như
đứng lạc giữa tòa nhà bí ẩn, ma quái, Kiệt lóng tai nghe
Hòa Tấu Khúc Số 5. Những hòa tấu khúc của Beethoven Kiệt đều đã nghe
nhiều lần đến
độ thuộc lòng có thể hát theo từng đoạn. Đẩy cánh cửa khép hờ vào
phòng, nằm trên
giường Nghiêm, trong khi bạn cắm cúi ở bàn viết, Kiệt buông mặc cho
khúc nhạc
chiếm ngự.
*
Tiếng Duy oang oang trong khoang thang. Duy lia ngọn đèn bấm
soi đường.
-Tìm anh cả buổi để báo một tin vui. Có người hỏi thăm anh
nghe.
-Ai vậy?
-Một người đàn bà. Người đẹp.
-Mệt. Kiệt ngắt lời.
-Thiệt không cha… Duy đứng lại kêu.
Một
Chủ Nhật Khác 1 2 3
Chuyến đi thăm Paris, vào cuối thiên niên kỷ, và cùng với nó, là chuyến
đi thăm nước Đức, đất nước đẻ ra Lò Thiêu, đã quyết định chuyện trở lại
đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách, hành lý mang theo là một số kỷ niệm
vẫn còn sót lại ở Hai Lúa, những kỷ niệm tưởng thằng em trai đã mất đã
mang theo đi giùm, nhưng không thể, và đành phải mang về, trong
đó, có mùi nước mắm lá chuối, mùi sống sít của một con ốc nhồi, nổi lửa
ngay bờ ao, sau khi tóm được nó, ẩn dưới một cánh bèo, của một củ khoai
lang đào trộm ngoài đồng, rửa nước rãnh kế bên, ăn vội ăn vàng, ăn ngấu
ăn nghiến để đừng ai nhìn thấy, đừng ai bắt gặp.
|