Two Jens @ home
Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng
Tám, 1937
tại Kinh Môn,
Hải Dương.
Quê Sơn Tây
(Bắc Việt).
Vào Nam
1954.
Học Nguyễn
Trãi
(Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975
công
chức
Bưu Điện
(Sài-gòn).
Tái định cư
năm
1994 tại Canada.
Tác phẩm đã
xuất bản:
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm
Trắng,
Huỳnh
Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện,
Tạp luận
[Văn Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người Chết Mỉm
Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng
sông
chảy về
phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung
Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Bản quyền
thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô
vụ lợi,
liên
lạc
email
Cần ghi rõ
xuất
xứ
[nguồn] khi sử dụng.
Lô cốt
trên đê
làng
Thanh Trì, Sơn
Tây
Golden Bridge
August, 2004
|
Turkish novelist Orhan Pamuk faces
trial next month for
referring to his country's massacre of Armenians. Saturday October 29,
2005.
The Guardian
My hero, Ka, was a Turk and therefore
no relation of
Kafka's; they are related only in the literary sense. My Ka's real name
was
Kerim Alaku-o-lu, but he was not very fond of it, preferring the
shorter
version. He first went to Frankfurt
in the
1980s as a political refugee but he was not particularly interested in
politics. He was a poet who saw Turkish politics as someone else might
see an
accident - something he got mixed up in without ever willing it...
Nhà văn Thổ sẽ ra tòa tháng tới vì dám
khui vụ "Mậu
Thân" ở quê hương ông.
Ông nói về người hùng của mình - không
phải bắt đầu bằng vần
T - mà là vần K.
Người hùng của tui là một tên Thổ, do
đó chẳng mắc mớ gì tới
nhân vật của Kafka, nếu có, thì chỉ là những nhân vật văn chương. Tên
thực của
anh ta
dài thòng, anh chẳng ưa, bèn chọn cái tên cụt thun lủn, K. Đầu tiên anh
ta tới Frankfurt vào những năm 1980,
như là một tị nạn chính
trị, nhưng chẳng quan tâm tới chính chị chính em. Anh ta là một thi sĩ,
và nhìn
chính trị Thổ giống như người nhìn một tai nạn...
Thiếu đi
tình yêu thương vô bờ bến, vô điều kiện với tha nhân, những truyện ngắn
của Đỗ Hoàng
Diệu chỉ vật vã trong sự huyễn hoặc ích kỷ về bản thân, một bản thân
không có
chiều sâu của cả văn hoá lẫn tình cảm.
Bệnh anh hùng
Đinh Từ Thức.
Post lại từ talawas. Hy vọng có dịp sẽ tán phó mát thêm, về cái thú ra
ngõ gặp anh hùng của dân Mít ta.
Tôi nghĩ HL dường như
có thành kiến về... cá nhân NMG
Hannah
Arendt: Cái Ác Cà Chớn, Tầm Phào,
Vô Vị
"Cái nước
mình nó thế"
Đèn đuốc ư,
dẹp mẹ nó đi! Đêm rồi.
And take away
the lanterns. Night.
Akhmatova:
Requiem,
Kinh Cầu.
Nobel
2005 1 2
Phê
Bình Là Gì?
Thế giới hiện hữu, và nhà văn nói: đó là văn chương
The world exists and the writer speaks: that is literature.
Roland Barthes.
Mọi phê
bình đều
là một phê bình về tác phẩm và
một phê bình về chính nó. Nói một cách khác, phê bình chẳng hề là một
bảng những kết quả hay một khối, a body, những phán đoán, nó thiết yếu
phải là một hoạt động, an activity, nghĩa là, một chuỗi những
hành động trí thức, một lòng một dạ, [dấn thân hết mình, profoundly
committed] với con người trình diễn chúng; một con người với một hiện
hữu mang tính lịch sử, với một cái tôi của riêng người đó, nghĩa là
hoàn toàn chủ quan.
Liệu một hoạt động như thế, có thể "thực"?
Nó trả
lời cho những đòi hỏi hoàn toàn khác hẳn.
Mọi tiểu
thuyết gia, mọi thi sĩ, múa may quay cuồng với những đường đao thế kiếm
dựa trên bất cứ một lý thuyết văn học gì thì gì, tựu chung cũng là để
nói về tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy [nguyên văn: để nói về những sự vật,
và hiện tượng, to speak of the objects and phenomena], cho dù những thứ
này là do tưởng tượng, ở bên ngoài hoặc là có trước ngôn ngữ: thế giới
hiện hữu và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự vật, hay đối vật, the
object, của phê bình khác hẳn: Đối vật của phê bình không phải là "thế
giới" nhưng mà là một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói đó, là
của một người nào đó: phê bình là một bài viết/nói về một bài viết/nói;
nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu
ngôn ngữ (như những nhà lý
luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này "thao tác" (operate) trên ngôn ngữ
bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật,
language object). Từ đó suy ra, ngôn
ngữ phê bình phải đụng (deal) với hai thứ liên hệ: liên hệ
giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của tác giả được tìm hiểu, và liên
hệ giữa ngôn ngữ sự vật đó, this language object, với thế giới. Chính
sự "đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này làm ra cái
nghĩa của phê bình, nghĩa là, định nghĩa nó, và định nghĩa, phê bình
gia, mi là ai? Và, có lẽ, chính sự đụng độ này đã đem đến cho phê bình
một nét hao hao, thì cứ nói đại, giống hệt như, một hoạt động tâm thần
khác, đó là lý luận học, cái món này cũng đặt nền tảng ở trên sự phân
biệt, giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ.
Và bởi vì phê bình, như thế, chỉ là một siêu ngôn ngữ, cho nên, nhiệm
vụ của nó, chẳng hề là, khám phá ra, "những sự thực", những mà là,
"những
cái có giá trị" ["the validities"]. Tự thân, ngôn ngữ thì không thực,
mà cũng chẳng giả.
Đáp
lời Vũ Huy Quang 1 2 3 4 5
Ông
Thầy TTT?
Đọc những bài viết của ông, chắc Thanh Tâm Tuyền có ảnh
hưởng rất lớn trong việc viết lách của ông?
Mỗi nhà văn/thơ có phải chịu ảnh hưởng một người như vậy?
Câu hỏi của ông, một cách nào đó, là một trong ba búa Trình Giảo Kim,
mà ông anh của Gấu, là nhà thơ TTT đã chỉ bảo thằng em, những ngày chập
chững viết.
Ông nói, mày muốn viết văn, là phải kiếm cho ra một ông thầy.
Có điều, ông thầy của Gấu không phải là... TTT.
Nhưng nhờ câu chỉ bảo của ông anh, Gấu đã kiếm ra được "sư phụ" của
mình.
Bài học anh T.
dạy tôi không xuất phát từ chuyện tôi viết "được", còn
có thể "đi xa", điều này chỉ cho tôi thêm an tâm trong việc lựa chọn
một cuộc đời "trăm năm rách nát", nhưng từ một kinh nghiệm, chắc là của
riêng anh: Hãy đọc thật nhiều, rồi một ngày nào đó, sẽ tìm ra dòng văn
chương
thích hợp...
Một Người Anh
Cái dòng "văn chương thích hợp" với tôi, đáp ứng được cái tật lảm nhảm
nói một mình những khi quá cô đơn, đó là dòng độc thoại nội tâm, dòng ý
thức... và ông thầy của tôi, do đọc thật nhiều, rồi tự mình mầy mò,
khám phá ra, là William Faulkner. Và cuốn số một của ông này, với tôi,
là Asalom, Asalom!
Về già, tôi nhận ra một sự thực, là, lý do mà tôi chọn được W.
Faulkner, coi ông ta là Ông Thầy, không đơn giản, theo cái nghĩa, đây
là sư phụ dậy viết văn, mà còn một điều gì "thê thảm hơn", có thể nói
như vậy, nó liên can đến định mệnh của một đời người: đời của Gấu (1)
Nói một cách ngược ngạo, chính Faulkner tìm Gấu, bắt Gấu phải là đệ tử
của ông ta!
Bạn cứ thử tưởng tượng, nếu cái tay Khương Duy, không
bị Khổng Minh bắt, hãy lậy ta và gọi ta là sư phụ, cuộc đời của ông đệ
tử này chắc là khác hẳn đi, đâu đến nỗi chết thảm?
"Ông số một" quả đúng là ông anh của
Hai Lúa. Tuy không phải ruột thịt mà sợ còn quá cả ruột thịt. Trong ba
đứa, hai ông con ruột, là nhà thơ, và ông em, me-xừ C. bạn thân của HL,
thì, tuy là phận ghẻ, nhưng HL được cụ thương yêu còn quá con ruột. Có
những chuyện mà một bà mẹ chỉ thích nói cho thằng con nuôi nghe, ở đời
thường vậy. Vì hai thằng con ruột ít chịu ngồi nghe cụ nói, hoặc, ôi
dào, mẹ ơi, nói hoài chuyện đó, mệt lắm, đại khái như vậy. Đã có lần,
ông số một cằn nhằn, tại sao những chuyện như thế mà mẹ cũng nói cho
thằng Trụ nó nghe?
Hai Lúa này hay nhắc ông số một, là vậy, chứ không phải ông là sư phụ,
thần tượng trong văn chương của Hai Lúa. Ông là sư phụ, là thần tượng,
hay giản đơn hơn, ông anh ở đời. Những gì Hai Lúa hay nhắc tới, nếu có
liên quan tới ông, là những kỷ niệm những ngày cả ba anh em sống quây
quần dưới gối của bà cụ, chúng có "tính tự thuật" nhiều hơn là "chất
văn chương". Nói vậy, để trả lời nhà thơ Viên Linh, đã nhiều lần "cảnh
cáo" Hai Lúa, mày, hay Jennifer Tran, mà không nhắc tới ông số một, là
bịnh liền tức thì!
Nhưng nhờ ông, mà HL tìm ra ông thầy văn của mình.
Xóm
Gà
Cũng xin phép, nhắc một tí về nhân vật Trình Giảo Kim, trong Thuyết
Đường.
(1) Gấu là tên một truyện ngắn thần sầu của Faulkner.
Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ?
Hai Lúa lẩn thẩn thử đi tìm, trong văn học Tầu, có tay nào, cũng nói ra
một tư tưởng tương tự như của ông triết gia Đức Adorno: Sau Lò Thiêu mà
còn làm thơ thì thật là dã man.
Cái ý tưởng lẩn thẩn này, là từ Kim Dung mà ra.
Ông để cho nhân vật Tạ Tốn, chỉ vì tức một "sự kiện" trong sử Tầu, về
tay Sư Khoáng [?], một nhạc sư đã từng chọc mù mắt, để cho trình độ
thẩm âm của cái tai của mình trở thành tuyệt hảo.
Ông này nói, sau ta, bản đàn Quảng Lăng Tán [?] tuyệt tích giang hồ.
Tạ Tốn bực quá, bèn đào mồ những người thuộc đời trước Sư Khoáng, và
quả nhiên đã tìm thấy copy, của bản đàn Quảng Lăng Tán.
Hai Lúa, tự hỏi, trước Lò Thiêu, trước Adorno, liệu có tay nào đã "tiên
tri ra được" "hai kiệt tác" của nhân loại.
Một là Lò Thiêu.
Và một, là một câu nói về Lò Thiêu.
Quả nhiên Hai Lúa kiếm được một câu tương tự câu của Adorno, trong văn
học Tầu.
|