Trên tờ
TLS số 2 Tháng Giêng
2009, có bài Địa lý về sự mất mát, Geogaphies of loss,
viết về những tiểu
thuyết mới ra lò của Đức, chúng đều nhắm vào sự hoài nhớ, và tội lỗi,
[Recent
German novels deal with nostalgia and guilt].
Chúng ta thì đều quá rành
về một
Miền Nam Mỹ Ngụy, nhưng còn Miền Bắc?
Tiểu thuyết gia Đức Uwe
Tellkamp, trong Cái Tháp, DER TURM, được
giải thưởng 2008 German Book
Prize, đưa ra câu hỏi, Đông Đức là cái quái gì? (1), khi
viết về một dúm gia đình trí thức trưởng giả, đúng ra không thể có, tại
đây.
Mít
chúng ta đã biết về những anh nông dân Bắc Kít, như Cu Sài của Lê Lựu,
nhỏ máu ngón
tay viết
đơn tình
nguyện vô Nam chiến đấu, nhưng chưa hề biết về một Miền Bắc, khác?
Liệu có một
Miền Bắc,
khác?
(1) Hà Nội là cái quái gì?
TTT
Der Turm còn một
cái tiểu tít là: Chuyện về một xứ sở đã mất, Tale from a lost country. Chúng
ta, Mít, hình như cũng có một câu chuyện về một xứ sở đã mất, và chắc
chắn, không phải là Miền Nam !
*
“Nhận định
này không đồng nghĩa với việc chia sẻ
hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở
không ít
cộng đồng người Việt tị nạn."
PTH
Gấu này, tuy không tham gia,
nhưng cũng theo dõi, và chưa hề thấy một cộng đồng hải ngoại nào "nỗ
lực
phục hồi
VNCH". Vậy mà bà chủ quán cá dám phán ẩu 'thường thấy ở không ít...".
Cũng có những chính phủ ma, quân đội dởm, chiến khu lèo... nhưng chưa
hề có tay
nào, đoàn thể nào, cộng đồng nào - ngay của lực luợng chiến khán chán
quá - tuyên bố, họ nỗ lực phục hồi VNCH,
cho dù về
thực chất, chế độ này hơn gấp bội chế độ CS.
Đây là
trò khốn nạn, xập xí xập ngầu, muốn biến ước vọng, về một nền dân chủ
sẽ thay thế chế độ
toàn trị tại
Việt Nam,
thành chuyện dựng dậy thây ma VNCH.
Cũng một giọng như vậy, mấy ông
bà nhà văn VC than thở, mình muốn đám
hải ngoại
về đây cùng hội ngộ, "bao nhiêu năm mới có ngày này" nhưng tụi nó cứ
lắc đầu hoài, chúng còn "máu" lắm!
Một khi
còn nâng bi quá khứ
chống Mỹ cứu nước, vờ hẳn hiện trạng đất nước hiện nay, thì khó có thể
nói bất cứ chuyện gì, nói chi chuyện
giao lưu hòa giải. Những người đã chết, ngay cả, và nhất là, đám liệt
sĩ VC, không
chịu nổi chuyện đó, nói chi Ngụy: Làm sao giải thích cho những liệt sĩ
VC, những
Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Trỗi… về một
"cõi thiên thai" LKP, thí dụ?
Bởi
vậy, Gấu rất tởm đám
Yankee hải ngoại, nhất là những cây viết trong số họ. Giả như có thêm
tiếng nói của bọn khốn kiếp này, thì tiếng nói dân chủ sẽ mạnh thêm
rất nhiều. Gấu đã từng hớn hở vì sự có mặt của những nhà văn ra đi từ
Miền
Bắc, tạo
nên “khởi đầu đầu tiên” cho dòng văn học hải ngoại. Bao nhiêu hy vọng, rồi hoàn
toàn thất vọng!
*
Quả là có một mảng lịch sử
rất ư là cận đại mà đám nhà văn Yankee mũi tẹt không dám đụng vô, không
hẳn vì
nhà nước VC cấm đoán, mà chính họ, thí dụ như bà chủ sạp cá, không dám
đụng
tới, mà nếu có đụng tới, thì bèn dạng háng, làm sao với được cả
hai bên,
cứ xem cái câu bà phán (1), là đủ hiểu. Một khi không dám đụng vô, là
còn khốn
khổ khốn nạn với nó.
(1) Kết cục của chiến
tranh Việt
Nam không phải là sự sụp đổ của Hợp chúng quốc Hoa Kì, mà là sự tiêu
vong của
Việt Nam Cộng Hoà, quốc gia từng hiện diện trên một nửa lãnh thổ Việt
Nam không
kém hợp pháp hơn người anh em của nó ở phiá Bắc, và - bất chấp tất cả
sự thối
nát của những nội các cụ thể, sự bất lực của các nhân vật lãnh đạo cụ
thể - là
nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thiết lập trên những nguyên
tắc căn
bản của nền dân chủ hiện đại. Nhận
định này không đồng nghĩa với việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục
hồi Việt
Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít cộng đồng người Việt tị nạn.
Lịch sử
không thể làm lại, mặc dù có thể viết lại. PTH
*
Cuốn tiểu
thuyết Bud’te
Kak Deti [Trở thành như trẻ thơ,
Become like children] của nhà văn Nga Vladimir Sharov, hai lần vô danh
sách
chót, finalist, của hai giải thưởng lớn năm 2008, và được chọn là cuốn
tiểu
thuyết hay nhất trong năm, Book of the Year 2008, của Hội Chợ Sách quốc
tế, ở
Moscow, cũng như những cuốn khác của ông, là những suy tưởng về lịch sử
Nga,
nhập nhằng giữa cái đã xẩy ra với cái nên xẩy ra, và với cái chẳng hề
xẩy ra. [TLS 2.1.2009].
Văn
học Mít, theo Gấu, cũng có một sự nhập nhằng - tránh né, đúng hơn - khi
phải đối diện với lịch sử hiện
đại của nó.
Trong
"Trở thành như con nít", tác giả tưởng tượng Lênin cạo đầu đi tu, the
religious conversion of Lenin. Đám phê bình gia Nga rất nể tiểu thuyết
của Sharov. Một tiếp cận lịch sử, như trên diễn tả, cũng chằng có gì là
mới mẻ, [nếu cái mũi của Cléopatre, nếu Quang Trung ra Bắc nhét kít,
nếu Nguyễn Huệ cũng thường thường bậc trung như NMG...], tuy nhiên cách
viết theo kiểu hậu hiện đại, của Sharov, thì khó có ai bắt chước được,
và dòng văn xuôi của ông, prose, được cảm nhận rộng rãi trong toàn nước
Nga. Tiểu thuyết của ông gần như không có đối thoại., theo bài điểm
sách, Như con ong thụ phấn,
Like a pollinating bee, của Oliver Ready trên TLS, khi đọc một số tiểu
thuyết Nga mới ra lò. Nguời điểm sách nhận xét, nuớc Nga của Sharov bị
mắc bẫy ở trong tư duy nhị phân. Nhắm sự giản dị hài hoà, nhưng chỉ có
được sự rắc rối, da dạng, chia rẽ, phân biệt. [Liệu đó cũng là số phận
văn học Mít?]. Trong "Lazarus sống lại", 2003, Charov đề xuất ý tưởng,
vai trò mà Thượng Đế ban cho con người là của một nhà phiên dịch đếch
làm sao tin vào ngôn ngữ của chính người đó: Cũng lại một đề xuất thật
tuyệt vời cho văn học Mít!
*
30
tháng Tư 2002, nhìn lại
văn học hải ngoại
1. Lời Ước
Nhìn lại thế kỷ, tuần báo Văn
Học Nghệ Thuật trên lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm
một
cuộc phỏng vấn bỏ túi (mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị
coi Y2K là
một ý niệm hay một sự kiện?
Văn học hải ngoại hình như
mang cả hai yếu tố - như một ý niệm, khi vẫn luôn luôn phải nhìn lại
chính nó,
tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng văn học hải ngoại, sau cuộc tháo
chạy tán
loạn, mất quê hương, chọn biển cả thay vì đất liền, để dựng nước
mới.... - hay
như một sự kiện quan trọng: cùng nhân loại chấm dứt thế kỷ hung bạo,
với những
biểu tượng của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin và trại cải tại, Pol
Pot và
cánh đồng giết người...
Trong một truyện cực ngắn,
Lời Ước, Walter Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người
Do Thái,
từ xóm đông xóm đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng.
Chuyện
bá láp một hồi, một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời
ước của
mình. Thôi thì đủ thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu
nhập,
thêm chiếc xế... Khi đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi
thu lu ở một góc. Chẳng ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một
nhân vật
cái bang. Anh ta cũng không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi ao uớc được làm một vị
hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng cánh cò bay; một
đêm đang
ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình vượt biên giới và
trước khi
ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài...
Tôi
chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này
qua ngày
nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc
quán này.
Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người nọ ngó người
kia, chưng hửng
-Thế anh có thêm được một món
đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại
văn học hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?
Thật khó mà quên được lời
ước, với bất cứ một người Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán
loạn.
Nhưng với thời gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời
hơn,
khẩn cấp hơn, làm quên lãng.
Những tác phẩm văn học hải
ngoại những năm gần đây cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có
những
cuốn sách mà "người ta" cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng,
hết còn ở trong ghetto. Ở
đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn,
hoặc đã cố ý đồng hoá, một tác phẩm văn học với một hiện tượng xã hội.
Và cái
ghetto mà người ta ngụ ý một số nhà văn hải ngoại đã vượt ra ngoài được
chính
là cái ghetto VNCH. Nhưng cho tới nay, chẳng hề có một tác phẩm văn học
nào
hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc chiến, để tái lập một chế độ.
Và cũng
chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người Việt Nam đã
hội nhập thực sự ở quê hương
mới. Tôi thật sự không tin, những tác giả của những cuộc tình chốc lát
ở nơi
đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự hào mình đã hội nhập! Họ thực ra
là đã
từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà chủ yếu là tố cáo cái ác của
chủ nghĩa
cộng sản, và hậu quả của nó, những thảm họa khi vượt biển tìm tự do.
Bây giờ,
hoặc là đề tài này không còn ăn khách, hoặc là chính tác giả của chúng
cũng
chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu với nó, bèn quay ra kể chuyện
cuộc
sống thường nhật của người Việt, đã có một công ăn việc làm ổn định, đã
có va
chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút xíu, nhưng không phải là
xung đột,
bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung đột; theo nghĩa, anh mới tới
muốn nơi
đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ nhà thì muốn chui vào tận
trong ngõ
ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì khác ta.
Nhà văn, nhìn một cách nào
đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975, đề tài trại cải
tạo, vượt
biển có lượng nhưng thiếu phẩm, trong những năm gần đây, đề tài này trở
lại,
trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác phẩm trước
đó, tác
giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản thân hay
gia đình,
và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính trị, thời
cuộc.
Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn chương
chống
cộng, cuốn 1984 của Orwell: đây chỉ là chính trị giả danh văn chương.
Tác phẩm
1984 giản lược chế độ cộng sản vào danh sách những tội ác của nó, và
như thế,
vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông
chứng
minh, ngay cả trong thế giới mê cung là Vụ Án, hay Lâu Đài, nhân vật
của Kafka
cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và ông
nhặt ra
được không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không
thơ, tức
thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi hăm hở tố cáo,
chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra, cái phần tha
hóa ở nơi
họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng bị tổn thương.
Nói như
Todorov, chủ nghĩa cộng sản là thử nghiệm tối hậu về đạo đức của con
người.
Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của Thảo Trường, có vẻ như
thấy hết,
hiểu hết, và tỏ ra có một thái độ vượt lên khỏi những đau thương, giận
dữ;
nhưng được như vậy, là nhờ đệ tử, một anh lính truyền tin. Anh này làm
độc giả
nhớ tới nhân vật chính trong Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của
Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó quên "xen" đệ tử kiếm việc làm
nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là
của con
heo đực).
Thảo Trường đi tù tất cả 17
năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng trong năm qua là
Đá Mục
và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả . Trong một phỏng vấn trên đài Kicon, mạng
Internet,
ông cho biết, trong tù ông cứ thế nghiền ngẫm, và đã "bỏ túi" năm bẩy
cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống lại một lần nữa thời gian
dài 17
năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những bài viết của ông, sẽ nhận ra, đã
có dấu
vết thay đổi, giữa những truyện ngắn đầu, và mới đây. Tác giả tuy bỏ
túi vài
tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không giống như là lúc ông còn ở
trong
trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng. Ông ngày trầm hơn, văn ngày
thấm
hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức những ngày tù.
Ở Lâm
Chương cũng vậy. Khi
trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết, chỉ vào nhà tù, ông mới biết
căm thù
nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông càng bớt căm thù. Bởi vì, hận thù,
với một
nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Trong truyện của ông, người
đọc nhận
ra những cay đắng, nhưng còn nhận ra, vết thương đang lành. Trong một
bài tổng
quan, thật khó mà đưa ra chi tiết chứng minh, hy vọng sẽ có dịp được
viết rõ
hơn về từng tác giả. Vả chăng, khi người ta "trung thành" với một
điều gì, cùng lúc người ta "phản bội" một điều khác: chống Cộng, ở một
số nhà văn Miền Nam
mang tính công dân (thù nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.
Chính chúng ta, độc giả, khi
phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm văn học, cũng thấy mình đã đổi
khác.
Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con người đổi khác. Trước đây, những độc
giả Miền
Nam thật khó mà chấp nhận một tác phẩm của một người ra đi từ Miền Bắc,
lại có
thời rất thân cận với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư Hiên. Và người
ta nhận
ra một điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế độ toàn trị,
tiếng nói của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng cách. ["Đi
tù
với một bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, trên báo
Diễn
Đàn, về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.] Rõ rệt nhất là
ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất bản liền trong hai năm vừa qua,
Trăng Góa,
và Gió Biếc.
Có người cho rằng ở Lê Minh
Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có
người
chỉ thấy những cảnh đời nhếch nhác của một số người Việt, phải bỏ nước
ra đi,
rồi cố tìm cách để khỏi phải trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp
Kundera nói
về sự khác biệt giữa Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở,
thay vì
cố chứng minh, đây là những nhà tù!
Vẫn có những tác giả đã không
thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ không nói tới, nhưng chúng ta
cảm thấy,
qua cách viết, qua hành động của nhân vật. Trong truyện ngắn Biển (của
Miêng)
là chia sẻ tấm áo thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ
điên khùng,
không còn nhận ra chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó,
những đứa
con đã chết trên biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như), khi trở về, và
nghe quê
hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như nhân vật trong truyện Trở
Về (tạp
chí Hợp Lưu) của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối
anh.
Hay như nhân vật Nữ Độc Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy
để cho
ông ta yên thân!
Theo tôi, văn chương Việt hải
ngoại trong năm 1999 là một năm được mùa. Mùa gặt mới, trong đó có cả
lúa chín
muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị NGH. Đây là một tác giả
trước
1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách ở Sài
Gòn, với
truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái. Nếu trí nhớ không phản bội tôi, hình
như
truyện đầu tay của bà là về một người đàn ông có vợ, đến gặp một người
đàn bà
không chồng, nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua
thuốc cho
đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn còn nhớ cái cảnh cô đơn của
người đàn
ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc tây, trước cuộc
chiến,
và trước cuộc tình vụng trộm. Ở những truyện viết sau này (trong tập
truyện
ngắn do nhà Văn Nghệ xuất bản, 1999), nhân vật của bà vui hơn, tuy vẫn
chưa
quên được những người tình cũ, cuộc đời con gái, cũ.
Nếu phải chọn một tác phẩm,
tôi chọn tập truyện ngắn của Miêng. Do cái phần tâm linh của nó, hơn là
do cách
dựng truyện, cách dựng nhân vật. Với Lê Minh Hà, tôi chọn ngôn ngữ, hơn
là
truyện ngắn. Có một cái gì đó, làm tôi phải tự hỏi: làm sao cái mầm
sống của
chữ nghĩa, của một miền đất, sau bao nhiêu đọa đầy, nhưng vẫn không
chịu bị bẻ
gẫy, ở đôi chỗ, vẫn tươi mát đến như vậy?
Walter Benjamin, trong một
truyện cực ngắn khác, Chữ Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ
hoàng
Catherine, ở Nga. Vị cận thần của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút
tinh
thần trầm trọng, kéo dài ngày này qua ngày khác. Không ai được tới gần
căn
phòng của ông. Không ai dám xì xào về căn bệnh của vị cận thần sủng ái.
Khổ một
nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ trình nữ hoàng, là phải có chữ ký của
Potemkine. Đám
quan chức hàng đầu trong triều không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may quá, một viên
chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine, không hiểu vì lý
do nào,
lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như bị, anh
ta mới
rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để em xông vô
phòng,
với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu có mất
gì, bèn
gật đầu.
Chouvalkine ôm mớ giấy tờ, mở
cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên chiếc ghế bành.
Anh tới
gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết, chấm mực, dí vào
tay Ngài;
và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác. Xong, anh trở ra.
Mọi người
vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các chữ ký, từ chính tay
Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện cực ngắn Chữ
Ký, chúng ta nhìn về trong nước. Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ
nghĩa
hiện thực xã hội (thứ thiệt?), mà những anh chàng Chouvalkine vẫn hy
vọng viết
dưới ánh sáng của nó?
*
Lâu nay
đa số chúng ta cứ
nghĩ thưởng thức văn chương tùy thuộc gu, mĩ cảm riêng mỗi người, nên
việc chọn
và đánh giá tác phẩm không tránh khỏi chủ quan.
Điều đó
đúng, nhưng chưa rốt
ráo. Nếu đặt tác phẩm văn chương trong tiến trình phát triển của một
nền văn
học, vấn đề sẽ rất khác. Bởi, nếu sáng tác thơ văn cứ mãi ở lại với hệ
mĩ học
cũ, lối viết cũ, thì văn học sẽ đi đến đâu? Giậm chân tại chỗ là cái
chắc.
Văn học
như là tiến trình -
ít ra là với văn chương tiếng Việt trong thời đại toàn cầu hóa. Câu hỏi
đặt ra
là: tác phẩm đó góp gì vào khai vỡ hiện thực cuộc sống hay bề tối lịch
sử xã
hội không? Có khai phá lối nghĩ hay thủ pháp mới lạ nào không?
Inrasara [BBC]
Tôi sợ
có sự hiểu lầm trong tư
duy ở đây.
Cái
chuyện thưởng thức một tác
phẩm văn học, là thuộc phần người đọc. Và người đọc nào cũng có gu
riêng của người
đó, và bắt buộc phải - chứ không phải ‘không tránh khỏi’ - chủ quan.
Cái
chuyện đặt văn chương trong
tiến trình gì gì đó, thì lại thuộc giới đọc sách, phê bình sách. Một
người phê
bình, đọc một cuốn sách, khác hẳn một độc giả bình thường, cũng đọc
cuốn đó.
Bây giờ
nói đến chuyện nhìn tác
phẩm từ phía tác giả.
Nhà
văn, khi viết, chỉ có mỗi
một trách nhiệm, là với ngôn ngữ của người đó, theo Cao Hành Kiện, qua
bài viết Tin Văn đang giới thiệu dưới đây.
Giả như
nhà văn nhà thơ Việt Nam chu toàn được
những đòi hỏi mà Inrasara nêu ra, “tác phẩm đó góp gì vào khai vỡ hiện
thực cuộc
sống hay bề tối lịch sử xã hội không? Có khai phá lối nghĩ hay thủ pháp
mới lạ
nào không?”, chắc chắn tác phẩm của người đó bị cấm, tác giả có khi vô
tù, theo như
CHK nhận định, về nhà văn TQ:
TQ là
một nhóm
ngôn ngữ rộng lớn trên thế giới hiện nay nếu tính đến con số những
người nói
thứ ngôn ngữ này, nhưng với một người sử dụng nó, người đó có được bao
lăm tự
do. Trước hết, đây là một vấn đề chính trị, rồi tới những sức ép xã
hội, chúng
gây tự chế ở nơi nhà văn, và sau hết, đây là một vấn đề tự thân của
chính ngôn
ngữ. Nhà văn đối đầu chỉ với ngôn ngữ, trong những gì ông viết ra,
nhưng trước
tiên người đó phải đụng [deal] tới không biết bao nhiêu là sức ép và
tìm kiếm
cách để vượt qua [transcend] chúng. Nhà văn viết bằng tiếng TQ thường
xuyên
chiến đấu một cách vô vọng với những gánh nặng cực kỳ nặng này, bởi
vậy, tới
khi ông phải đương đầu với nghệ thuật ngôn ngữ, thì đã mệt nhoài, hết
hơi.
Người ta có thể nói nhà văn TQ quả là có quá nhiều điều để mà vật lộn
với chúng.
Nhà văn TQ có quá nhiều điều để vật lộn, nhà văn Mít, đàn em, cũng
không thua đâu!
Tố Hữu, năm 1954 chưa hề bước
chân tới Điện Biên, vẫn viết nên tráng ca "Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên" chẳng có chi tiết nào
sai thực tế. Nhiều khi trực
giác đã giúp
các
nhà thơ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Nhưng thôi, ở đây
tôi
chỉ muốn
nói đến một số chi tiết "chưa chuẩn" trong một số tác phẩm nghệ thuật
tương đối tiêu biểu, để thấy sự nhầm lẫn có thể xảy đến với bất cứ ai,
kể cả
trường hợp đó là những văn nghệ sĩ lớn.
Nguồn
Chính
me-xừ Tồ Hữu thú nhận,
phịa như thật (1), vậy mà dám xưng xưng ra rằng, trực
giác giúp
hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc!
Đúng là VẸM!
Đúng là quê hương tưởng tượng!
(1) Trần
Đăng Khoa
hỏi, về xuất xứ bài Hoan hô Chiến sĩ
Điện Biên, Tố Hữu cho biết:
"Chịu không thể nhớ được (...) Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền.
Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc chạy
qua bên
Bộ Tổng, Quân Uỷ Trung Ương, chỗ anh Văn (Võ Nguyên Giáp) hỏi xem có
đánh nhau
ở đâu để viết bài tuyên truyền (...)
-Vậy tin toàn thắng đến với anh vào lúc nào?
-Lúc ấy khoảng 5 rưỡi hay 6 giờ chiều ngày 7-5. Rừng nhá nhem tối mới
có điện
từ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện 'Hỏa tốc, hỏa tốc
- Ngựa
bay lên dốc' ấy là có thật (...) chứ làm gì có 'Đuốc chạy sáng rừng',
với 'Làng
bản đỏ đèn đỏ lửa' (...) Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng tối
mù mù
(...) Vậy thì loa với ai, thế mà vẫn loa kêu từng cửa (...) Làng bản đỏ
đèn đỏ
lửa (...). Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa,
toàn
chuyện phịa. Chỉ có điều mình phịa như thật, nên người ta tha cho.
Nguồn
Trên Tin Văn, cũng nhiều lần
Gấu lèm bèm, về cái chuyện, nhờ net, chúng ta viết, là để cho độc giả ở
trong nước,
chứ không phải để… phiếm cái chơi, đọc cái chơi. Báo chí hải ngoại khi
nhắc tới
những nỗi cơ cực ở trong nước, thì cũng đừng làm cho độc giả cảm thấy
cơ cực thêm,
chúng mượn cái đau của mình để chửi nhà nước, chứ đâu có san sẻ nỗi đau
cùng với mình.
Một diễn đàn hải ngoại, một khi than thở, cả nước đếch đọc chúng tôi,
dẹp đi là
vừa!
Tuy nhiên, có một tụi
vờ “chúng
tôi”, thì phải chửi: Đó là cái đám Yankee mũi tẹt hải ngoại. Chúng tìm
đủ mọi cách để nâng bi đám chúng. Nhất hải ngoại, là Sến
Cô Nương, là talawas, thí dụ.
Khốn nạn thế đấy. Ngay cả khi viết về những người ly khai chạy ra
ngoài này,
thí dụ BT, chúng cũng dùng những lời rất ư là khốn nạn, nào là phản
quốc, nào là
đầu hàng VNCH.
Thử tưởng tượng, có ngày, chúng phỏng vấn... bà Huệ, hay đưa Gấu
vô... Wikipedia?
Đừng nghĩ là Gấu này ghen tức! Hay thèm thuồng được đám khốn kiếp này
phỏng vấn, hay viết về, hay làm entry!
*
Tục ngữ
Việt Nam
có câu
"Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Hóa ra sự tha hóa tiếng nói ở
ta đã bắt đầu từ lâu lắm. Điều cần nói thêm là đến nay trong xã hội
hiện đại,
khuynh hướng này ngày càng phổ biến.
Vương Trì Nhàn
Nhà
viên ngoại họ Vương, dựa
vào câu “Lưỡi không xương…”, mà đưa ra phán quyết về sự tha hóa của
ngôn ngữ, là
một sự lầm lẫn lớn, theo Gấu.
Cái sự
tha hoá của ngôn ngữ
chẳng liên quan mắc mớ gì đến cái lưỡi không xương, và Gấu
còn sợ rằng, họ Vương lầm lẫn cái đẹp, sự đa dạng của ngôn ngữ, thành
cái xấu, là sự băng hoại của nó. Giả như, thay vì cái lưỡi không xương,
mà là cái lưỡi gỗ, thì sự tình còn khốn nạn tới cỡ nào!
Để chỉ trích một con người
nói xuôi cũng được, nói ngược cũng được,
người Việt mình mượn ngay cái lưỡi làm hình ảnh minh họa, và lấy ngay
cái đẹp của ngôn ngữ, mà vận cái xấu của con người sử dụng nó. Nói rõ
hơn, câu châm ngôn không nói về sự tha hóa của ngôn ngữ, mà tâm địa
khốn nạn của người dùng. Vương viên ngoại lầm quá lầm rồi!
*
Sự tha hóa khủng khiếp nhất
của ngôn từ, nếu hiểu theo Vương viên ngoại, chính là, bụng thì bụng ăn
cướp, mà
miệng lưỡi thì thốt ra lời giải phóng, bắt Nguỵ đi tù lao động khổ sai,
thì nói
đi học tập cải tạo. Ba cái tha hóa ngôn ngữ tầm phào, lẻ tẻ, như Vương
viên
ngoại chỉ ra trong bài viết, chỉ là hậu quả tất yếu, hỗ tương, dây
chuyền… của lời nói dối vĩ đại, hào
nhoáng, thắng
xong trận giặc này, ta sẽ xây cái nhà Mít [cái nhà ở đây, xin hiểu theo
nghĩa của Heidegger, tiếng Mít] đàng hoàng hơn!
Tuy
nhiên, quả có một sự tha
hóa trong tiếng Mít, tương tự như trong tiếng Đức, như Steiner chỉ ra,
nhưng
vấn đề này vượt ngoài không chỉ ‘tâm và tầm’ của họ Vương, mà còn tất
cả giới
nhà văn, trí thức Bắc Kít, theo tôi, cả ở trong lẫn ngoài nước, vẫn
theo tôi.
Chỉ
một khi họ dám nhìn thẳng vào "tội ác", thì mới có cơ may cứu rỗi,
người Mít, tiếng Mít:
For let
us keep one fact
clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of
Nazism.
(Hãy
minh bạch một điều: ngôn
ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ
nghĩa
Nazi.)
George
Steiner, Phép
Lạ Hổng
Cái sự
tha hóa của ngôn ngữ
tiếng Việt, còn là ở cái sự bắt ngôn ngữ phục vụ những mục đích chính
trị, chỉ
có tính nhất thời, giai đoạn. Đây là điều Kundera chỉ ra, và Gấu áp
dụng nó,
khi đọc Chuyển Kể
Năm 2000 của Bùi Ngọc Tuấn.
*
Đây là
một tác phẩm văn
chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu
nhất, chính
là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải ngoại tá hoả
vì những phát giác ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần
Quốc
Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng khư khư cầm trong tay… Người
đọc
khóc cho những thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại, nên
quên đi
những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN 2000. Nghịch lý là ở
chỗ đó:
đâu là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những
chi tiết
độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc
có thể
thông cảm với giọng đanh đá, thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám
làm
quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút
không chấm giọt mực nào của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc
trân
trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng
trăng
goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp
yêu
thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm
người đọc
khựng lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau
những
vần thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:
Tôi sẽ giơ cao tờ chứng
minh
thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích
tôi
làm"?
(CKN
2000, trang 106)
Mayakovsky
, nhà thơ, nhà
tiên phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế độ mới tại Nga, đã tự sát
bằng
súng vào năm 1930. Lẽ dĩ nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông thất vọng,
nhưng
"có thể", ông nhận ra, cái phần trách nhiệm của ông, từ những vần thơ
"hắn và Phương thích" ở trên. Như
Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần
cả hai: nhà thơ Maia và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài "Mùa Thu,
những di dân", đã đăng trên VHNT). Theo ông, đây là thời đại mà nhà thơ
ngự trị cùng với đao phủ. Kundera nhớ lại những năm tháng sống dưới ánh
sáng
cách mạng tại xứ sở quê hương (Tiệp khắc, 1948), ông đã nhận ra sự mù
lòa trữ
tình và vai trò cao cả của nó (the eminent role played by lyrical
blindness).
Những "giơ cao thẻ Đảng-bài thơ," "mặt trời chân lý chiếu qua
tim"… là không thể thiếu trong thế giới toàn trị. "Tự thân, thế giới
đó không là ngục tù, gulag. Nó là nhà tù khi trên tường nhà giam dán
đầy thơ,
và mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó" (Kundera, Những Di Chúc
Bị
Phản Bội). Cây đa Tân Trào
(biểu tượng cách mạng Mùa Thu) biến thành trại tù
là vậy.