Gấu nhớ
là, bà chủ quán cá có
lần kể về cái vụ lần đầu vô Nam tìm đọc Bùi Giáng, và được một nhà văn
Ngụy khuyên
can, chớ chớ, ấy là vì thứ đầu óc ‘duy [thực] vật” như của những nhà
văn Miền Bắc, không thể nào đọc nổi Bùi Giáng!
Tuy nhiên, Bùi thi sĩ, ngay cả
Miền Nam,
nói chung, cũng chưa đọc được nữa là. Gấu này hoảng nhất, là, có nhiều
ông, chê
thơ Bùi Giáng, dở quá nhiều, hay quá ít!
Trong "Chân Dung và Đối Thoại",
Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu:
Còn nhớ dạo ông tặng tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính
phục. Khi gặp ông, tôi thú thực:
- Trong này có mấy bài thơ tứ tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào,
thuộc thơ,
rồi lại quên mất tác giả, lại tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường
mới chết
chứ!
Xuân Diệu cười, tỏ ra rất tâm đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng
chân thật:
- Cháu rất thích tập thơ này. Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc.
Cháu
thấy có nhiều bài dở, chú ạ.
- Ơ, cái cậu này hay chửa? - Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây
là
tuyển thơ à? Còn phải sàng sảy chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ.
Còn bây
giờ có cái gì, cứ phải quăng ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái
mẹt, cái
váy đụp gì thì cũng vứt ra, rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang
cháy, mà
cậu còn ngồi nhặt nhạnh của nả hả?
“Chiến thắng” của Kim Dung ở Việt Nam, theo tôi, không có nghĩa là nhà
nước
Cộng Sản, và nhất là những nhà văn của họ đã nhận ra giá trị của ông,
và nói
theo Đỗ Long Vân: nghi vấn này – việc in lại những tác phẩm đã một thời
bị coi
là đồi trụy, trong đó có chưởng Kim Dung - người đời sau sẽ giải quyết.
Nhưng ít ra, có một nhận xét
thật tuyệt vời về chưởng Kim Dung, của một tác giả ở trong nước, qua
bài viết
của Vương Trí Nhàn. Đó là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, “một nhà hoạt động
sân
khấu nhưng lại rất mê văn học, và cũng mê chưởng, mới đây kể với tôi
rằng ông
đã phải suy nghĩ nhiều, khi có lần nghe một người lái xe nhận xét: Đọc
chưởng
của Kim Dung, thấy cái gì cũng bịa, song cuối cùng lại thực, trong khi
xem vở
kịch của anh A. đọc truyện của anh B. viết bây giờ, biết thêm nhiều chi
tiết
thực mà toàn bộ cứ như giả khượt.” (Vương Trí Nhàn: “Ngoài trời lại có
trời”,
in trong “Kim Dung, tác phẩm và dư luận”, nhà xb Văn Học, Hà Nội).
Một “chân lý văn chương” mà
lại do một anh lái xe đưa ra thì thật tuyệt vời!
Trên tờ Điểm Sách Paris (The
Paris Review
interviews, Writers at Work, 6th Series), khi được hỏi bắt đầu viết như
thế
nào, Gabriel Garcia Marquez cho biết, khi học đại học Bogota, những bạn
bè mới
quen biết ở đây đã giới thiệu ông một số nhà văn đương thời. “Một đêm,
một
người bạn cho tôi mượn tập truyện ngắn của Franz Kafka. Khi về nơi trọ,
tôi mở
ra, bắt đầu đọc ‘Hóa Thân’, và dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra
khỏi
giường. (The first line almost knocked me off the bed). Tôi quá đỗi ngạc nhiên. Dòng đầu như sau: ‘Buổi
sáng đó, Gregor Samsa thức giấc và thấy mình biến thành một con bọ ở
trên
giường.’ Khi tôi đọc dòng đó, tôi nói với tôi, mình chưa từng gặp một
con người
nào được phép viết một điều như vậy. Nếu biết, tôi đã khởi sự viết từ
đời nảo
đời nào rồi.”
Nhận xét của anh chàng lái xe
và của nhà văn Nobel văn chương, theo tôi, có một chút gì “tâm đầu ý
hợp”.
Vẫn Gracia Marquez, khi được
hỏi, về sự khác biệt giữa văn báo và văn chương (Ông có cho rằng tiểu
thuyết có
thể làm một số điều mà thể văn báo chí không làm được? Liệu nhà báo và
tiểu
thuyết gia có những trách nhiệm khác nhau, trong việc làm thăng bằng sự
thực
giả tưởng?)
Nếu độc giả nào đã từng đọc
“Cội Rễ Nhà Trời” (Les Racines du ciel) của nhà văn người Pháp Romain
Gary,
chắc nhận ra một điều: chuyện phịa. Làm gì có một thằng khùng chui rúc
mãi tít
nơi rừng sâu nước độc, ở tận trái tim của bóng đen, là xứ Phi Châu, để
bảo vệ
loài voi, sợ nó bị diệt chủng, là hết cột chống trời, là trời sập!
Nhưng càng
đọc, càng chỉ thấy “sự thực, và sự thực mà thôi”, bởi vì cái nhân vật
chính ở
trong đó còn “người hơn tất cả mọi người”, và cuộc chiến đấu tuy bịa
đặt, tuy
vô vọng đó, bất cứ một con người nào cũng mong được dự phần. Đây cũng
là “thiên
chức” của nhà văn, nếu anh ta có được một thiên chức, theo Beckett, khi
ông
định nghĩa, nhà văn là một kẻ bị kết án phải thất bại, “Hãy thua, thua
nữa,
thua cho bảnh” (Fail, fail again, fail better).
“Sự kiện” Đoàn Dự uống rượu
rồi vận Lục Mạch Thần Kiếm cho rượu theo mấy đầu ngón tay chảy ra ngoài
thì bố
ai mà tin được, nhưng bất cứ một người nữ nào cũng có thể hy sinh cho
người
tình của mình như A Chu, và hình như đây chính là “thiên chức” của
nàng, một
khi Thượng Đế đã ban cho nàng một “cơ may” gặp được chàng!
“Cội Rễ Nhà Trời” được coi là
cuốn “tiểu thuyết sinh thái” đầu tiên, khi cái từ “sinh thái” chưa được
biết
tới, khi thảm họa môi sinh còn là chuyện “bịa khướt”. Thú thật, bản
thân người
viết cũng không làm sao chịu nổi hình thức văn chương có tên là “tiểu
thuyết
tài liệu” (roman documentaire). Và càng sợ hơn nữa, thứ tiểu thuyết tư
tưởng!
Còn nhớ có lần được nghe một nhà văn hải ngoại “tâm sự”, cứ mỗi lần ông
muốn để
cho nhân vật của mình nói lên một tư tưởng gì đó, là thấy như ngường
ngượng! Có
vẻ như nhân vật tiểu thuyết mũi tẹt không chịu nổi món này!
Mũi tẹt hay không tẹt, thì
cũng rứa. Không phải là không có tiểu thuyết tư tưởng, nhưng thứ này
hiếm. Đâu
có phải ai cũng có thể viết được những tác phẩm như của Musil hoặc
Thomas Mann,
hay một “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày” (Koestler), với những nhân vật từ đời
thực
bước thẳng sang tiểu thuyết, như những nhận định của G. Steiner: “Nhưng
vâng,
đó có thể là ý thức hệ. Tôi may được quen Arthur Koestler, biết được
cái điều:
ai mà chẳng dám đánh đổi tất cả, nếu viết được một tác phẩm như là Bóng
Đêm
Giữa Ban Ngày: một trong những hành động tối thượng của tư tưởng. Đối
với tôi,
đây là một trường hợp biên cương [giữa văn học và ý hệ]. Nó sẽ vẫn còn
được
đọc, không chỉ vì Gletkin và Rubashov là những nhân vật giả tưởng, mà
còn vì
những tranh luận về chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Marx, về sự tra tấn, và
khủng
bố: đâu là bản chất của sự dấn thân tới chết, với ý hệ? Đâu là bản chất
của dối
trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là một cuốn sách giầu có. Koestler
đưa vô,
khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó không nghèo nàn như là một kịch
bản về ý
hệ.” (Trả lời phỏng vấn của tờ Điểm sách Paris).
Và đây có lẽ cũng là lý do,
Kundera coi “1984” của Orwell không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là
chính trị
giả danh văn chương. Ông cho rằng lỗi ở tác giả, đã quá “nghiêm trọng”
khi viết
văn. Ông khuyên, “đừng nghiêm trọng, cho dù đang viết về những chuyện
chết
người.”
Nhìn rộng ra một chút nữa,
nhà văn, một khi muốn “nhân danh”, (hoặc muốn nhét vào miệng nhân vật
mình một
tư tưởng nào đó), là hỏng! Hỏng ở đây, một phần nào đó, không mắc mớ gì
đến tài
năng của người viết, đề tài người đó chọn… mà chính là do người viết đã
tự
trói, hoặc đã thui chột trí tưởng tượng của mình, rồi mới bắt đầu loay
hoay tìm
cách viết văn!
Có một câu chuyện ngụ ngôn,
về một con hổ muốn biết trí khôn của con người ra sao, đã chịu cho
người cày
ruộng trói lại, khi nghe người này nói, “trí khôn tao để ở nhà”. Một
khi bạn
muốn “chụp một cái mũ cho văn chương”, như vậy là đã “cố tình” bỏ quên
trí khôn
ở nhà! Trong trường hợp đó, tốt nhất là để cho hổ ăn thịt, cả trâu lẫn
người!
Tôi sợ rằng, muốn đọc Kim
Dung, là phải để trí khôn ở nhà!
Nhà của Gấu, là Miền Bắc ngày nào!
Trang Đỗ Long Vân
Đọc
chưởng của Kim Dung, thấy
cái gì cũng bịa, song cuối cùng lại thực, trong khi xem vở kịch của anh
A. đọc
truyện của anh B. viết bây giờ, biết thêm nhiều chi tiết thực mà toàn
bộ cứ như
giả khượt.” (Vương Trí Nhàn: “Ngoài trời lại có trời”, in trong “Kim
Dung, tác
phẩm và dư luận”, nhà xb Văn Học, Hà Nội).
Gấu nhớ là một nhà văn mũi lõ,
Tây thì phải, cũng phán ý chang: "Tôi là lời dối trá luôn nói ra sự
thực". Cuộc
chiến đấu vô vọng của nhân vật trong Cội Rễ Nhà Trời, thực như đếm, vậy
mà giả
khượt: Làm gì có một thằng ngu chui vô rừng, một mình chiến đấu chống
chuyện trời
sập.
Kim Dung là đỉnh cao của tình
vĩ đại, thù tàn khốc, người thật người, và để nói ra được những chân lý
như vậy,
ông phải bầy đặt ra cả một trời giả tưởng!
Roland Barthes, gọi, những chổi
cùn rế rách mà Xuân Diệu nói tới, là những cái đó là ‘vai trò phụ” của
văn chương!
*
Roland Barthes nhận xét “văn
chương của chúng ta” đã mất khá thời gian mới khám phá ra “vai trò
phụ”, của
những gì ở bên ngoài con người và ở bên trong một cuốn tiểu thuyết:
Phải đợi
tới Balzac tiểu thuyết mới không còn chỉ là chuyện giữa người và người,
mà cũng
còn của đồ dùng, vật liệu. Chúng được gọi ra để chơi vai trò của chúng
trong
tiểu thuyết. Làm sao Grandet biển lận, theo nghĩa đen của từ này, nếu
thiếu
những mẩu nến, những miếng đường, cái thập tự bằng vàng?
Cũng thế, vai trò của những triết, thi, họa… ở
trong tiểu thuyết của Kim Dung. Thiếu tài hóa trang của A Chu,
làm sao thảm kịch Người Đại Ác đạt tới mức bi thương đến như vậy? Cái
chết của
A Chu, là do nàng tự nguyện, cho nên không thể nói là thảm khốc, nhưng
“Tuyệt
Bi” bắt đầu, khi A Chu giả dạng một vị sư vào Thiếu Lâm ăn trộm Dịch
Cân Kinh…
Đây là nghi án thứ nhì, sau nghi án thứ nhất xoay quanh cuốn kinh “ở
trong
dầu”, tức Cửu Dương chân kinh.
Ôi! Thông minh như Kiều Phong, cẩn trọng như
Kiều Phong, tại sao lại không nhận ra những dáng dấp quen thuộc của A
Châu, khi
hóa trang làm Kẻ Đại Ác?
Hay là tại hận thù làm mờ lý trí? Nhưng nếu
không có sự lầm lẫn đánh chết người yêu, làm sao nhận ra, là người yêu
vì mình
mà chịu chết?
Bi kịch đẻ ra bi kịch: Chứng kiến Kiều Phong
đánh chết chị, và những giọt nước mắt đổ xuống hoà với máu, A Tỉ nhận
ra người
yêu đích thực của mình là Kiều Phong…Tình Yêu ở trong Kim Dung là “đệ
nhất cái
đẹp”!
Nhân đây, xin giới thiệu bài viết của một nữ
độc giả, hay là một hồng nhan tri kỷ của ông:
"Còn mãi Kim Dung.”
Phương Hồng Diễm (Trung Quốc).
“Nào biết đó là nỗi bi ai cho tôi hay nỗi bi
ai của cuộc sống đây?”
Khoảng mười năm trước, khi
Kim Dung một thân, một kiếm đi khắp Thần Châu, tôi mới 18 tuổi, đang
còn đi
học.
Các bạn học sinh nam chuyền tay nhau đọc như
điên, thành hẳn một phe đối lập với Quỳnh Dao của phe nữ. Chỉ trong một
lúc mà
thế giới chia hẳn thành hai cực nam, bắc; một bên bóng đao ánh kiếm,
một bên
người đẹp như tranh.
Mười năm trước đây, hầu hết
học sinh đều rất nghèo, nhưng đám Kim Dung lại dương dương đắc ý, chỗ
nào ống
tay áo phất tới là kết giao bạn bè. Do túi rỗng không xu, các bạn trai
bèn phân
công nhau mua, hẹn ngày chuyền tay nhau đọc. Cứ đến cuối tuần thì trong
lớp học
hay trên bãi cỏ thế nào cũng có các hiệp sĩ võ lâm họp mặt nhau lại để
ấn chứng
võ nghệ, vui quên cả mệt mà rèn luyện công lực nội thân. Có điều họ
giao lưu võ
công không cần dùng đến tay chân mà chỉ dùng mồm: nào Đông Tà, Tây Độc,
nào Nam
Đế, Bắc Cái, nào Tuyết Sơn Phi Hồ, nào Thần Điêu hiệp lữ… mười tám ban
võ nghệ
đều khảng khái từ miệng phát ra, thỉnh thoảng lại thêm một số ca từ,
thơ phú
điểm xuyết giữa chừng để tăng thêm vị bi tráng sâu xa. Tất nhiên cũng
có khi
động thủ, ấy là lúc đôi bên bất chợt đấu khẩu, đấu đến mức lục tung cả
Kim Dung
đến cùng cực mà vẫn không phân biệt được sắc thu, cũng là đến lúc cưỡi
hổ khó
xuống, chỉ còn cách dùng chưởng, đúng như Kim Dung nói, là đã đến lúc
tỉ thí
nội lực rồi.
Nếu đúng lúc này không may
có mấy nàng Quỳnh Dao đứng cạnh, đưa mắt xinh như mộng thẫn thờ xem
trận đấu
thì sự việc lớn bậc nhất đồn ầm lên trong làng võ lâm ngày hôm sau ắt
là tin
“một chết một bị thương” giữa hai cao thủ nội lực ngày hôm trước.
Bây giờ nghĩ lại tình hình
lúc ấy, bất giác không tránh khỏi mỉm cười, nhưng câu chuyện hồi ấy,
nơi kết
quả khiến ai nấy đều cảm động. Các bạn nam trong lúc văn tài rờ rỡ, để
hết tâm
trí vào một kiếm cho xong ân oán, quyết chí giang hồ và những ánh mắt
si ngây
nhìn theo quả thực ai cũng phải thổn thức.
Trong một buổi hoàng hôn se
lạnh, lá vàng lác đác rơi trước gió thu, tôi gặp một bạn nam để mượn
Kim Dung;
tôi nhớ lúc ấy dường như bên sân bóng, khá lạnh. Trong lúc vui mừng tột
độ, bạn
nam xúc động đến nỗi hai mắt sáng lên. Ánh mắt ấy, xuyên qua cặp kính
dầy cộm
phản chiếu lại ráng chiều tĩnh mịch, thật là sảng khoái lâm ly chẳng
khác gì đi
giữa chốn giang hồ hiểm ác, cuối cùng gặp được tri âm, nhất là tri âm
ấy lại là
hồng nhan.
Anh bạn trước hết khen Thiên
Long Bát Bộ với tôi, đồng thời say sưa đọc thuộc lòng những tiêu đề mỗi
hồi trong
sách. Giới thiệu nhiệt tình đến thế, tất nhiên tôi không thể không có
gì đáp
lại, thế là nhận sách xong, tôi mỉm nụ cười rồi mới quay gót bước đi.
Anh chàng
kinh ngạc lần nữa rồi cất tiếng thở dài xa xa vọng lại: “Mĩ mục miện
hề, xảo
tiểu thuyến hề!” [Chữ trong sách Luận Ngữ, dẫn lại từ bài Thạc nhân
trong Kinh
Thi, nghĩa là: Má lúm cười xinh sao, mắt long lanh đẹp sao! Chú thích
của nhà
xuất bản].
Đọc rồi mới thấm thía với cảm
giác “túy lúy biết rượu ngon”, thì ra Kim Dung uyên bác tinh thâm
nhường ấy.
Đọc vào tình tiết thì không còn làm chủ được mình nữa.
Anh hùng mĩ nữ, chí cương chí nhu, bàn về
kiếm ở Hoa Sơn, máu chảy tràn trên sa mạc, dưới bút bậc đại sư, giang
hồ tuy
gian hiểm ác độc song lại cũng vô hạn phong quang. Đọc đến chương “Hứa
hẹn suông
chăn bò dê nơi biên tái”, trong đêm mưa gió não nề, trên lầu nơi cầu
nhỏ, Kiều
Phong vung một chưởng ra, A Châu hồn lìa theo gió. Chưởng đó chẳng
những làm vỡ
vụn tuyết bay nơi biên ải, làm lỡ lời thề cùng nhau chăn bò dê, mà còn
khiến
nước mắt tôi bỗng chốc thành trận mưa rào. Lúc ấy trái tim thiếu nữ cho
rằng đó
chính là tình yêu vĩ đại bậc nhất. Nếu đem so, Quỳnh Dao nào đáng kể
gì? Gương
chuốc sầu làm bài thơ mới, không bệnh mà rên, có vậy mà thôi, từ ấy bèn
giã
biệt Quỳnh Dao.
Đọc hết cả bộ truyện xong
tỉnh giấc, thấy thế giới vẫn y nguyên, cái gì đẹp vẫn đẹp, cái gì xấu
vẫn xấu,
tự mình không thể trừ lũ bạo ngược, cũng không thể yên dân lương thiện.
Đêm dài
dằng dặc, nào đâu cao thủ thiếu niên tự trời xuống bảo vệ quanh mình?
Tuyết bay
tơi tả, nào đâu hiệp sĩ áo trắng bầu bạn cùng ta nơi góc biển chân mây?
Thôi
cho rồi, không xem cũng vậy.
Nhưng không bao lâu sau,
chẳng cưỡng nổi sức lôi cuốn của rất nhiều chàng kính cận lêu đêu như
sào trong
giới võ lâm, cuối cùng một lần nữa tôi lại tìm đến người bạn trai hồi
nào.
Với thần sắc như dự liệu,
chàng thở dài một hơi bảo tôi:
-Người chốn giang hồ, thân
không làm chủ mà! Bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ này tôi mới mua xong, bạn xem
trước
vậy!
Vẻ mặt anh chàng như cứu
người khỏi nước sôi lửa bỏng, tôi nhìn thấy mà thương!
Bây giờ tốt nghiệp rời trường
đã mươí năm, tôi không còn đọc tiểu thuyết võ hiệp nữa, chỉ nghe loáng
thoáng
trong giới võ lâm đã có thêm Cổ Long, Ôn Thụy An cùng nhiều danh gia
khác, song
tôi đã là vợ, là mẹ, dù ở chỗ sâu kín nhất trong lòng, vẫn thủy chung
dành một
phần hướng về cảnh tượng giang hồ vô cùng đẹp thú, thì, theo tầm vóc
con trai
[của tôi] ngày một cao, phần hứng thú đó cũng ngày một giảm cho tới lúc
hóa
thành số không.
Cuộc sống cứ thế trôi qua
từng ngày, tẻ nhạt và mệt mỏi, cảnh tượng xiêu lòng xa trông giang hồ
giữa lúc
chiều tà nhuộm máu, trăng sáng gió thu, đăm đăm nhìn thế giới, đã như ở
một nơi
nào xa lắc, còn bầu bạn bên tôi chỉ có đứa con trai chưa hiểu biết gì
về thế
giới này mà lại muốn nhảy ra thử sức, không hề biết sợ là gì. Mặc dù
cháu còn
quá nhỏ, quá nhỏ nhưng đôi mắt trong xanh của cháu ít nhiều cũng khiến
tôi nhớ
lại khoảng trời sáng sủa, thuần nhất, chân chất ngày nào.
Trong những đêm ẩm ướt và
quạnh quẽ, tôi cũng có đọc sách. Nào “Dương Xuân bạch tuyết”, nào “Hạ
Lí ba nhân”
[“Dương Xuân bạch tuyết” là một khúc hát cao nhã của nước Sở thời Chiến
quốc,
đối lập với “Hạ lí ba nhân”, tên một khúc hát dân gian. Sau này dùng để
chỉ tác
phẩm cao nhã và tác phẩm đại chúng. CTNXB], song thực lòng mà nói, đọc
thì có
đọc đấy nhưng không sao cảm động nổi. Sách vừa rời tay, ngày hôm sau đã
không
còn mảy may vương lại.
Một hôm tôi về nhà mẹ, ngẫu
nhiên bắt gặp hai tập “Ỷ Thiên đồ long kí” dầy cộm trên đầu giường em
trai, hai
chữ “Kim Dung” đập ngay vào mắt. Sau một thoáng ngẩn người, tôi đưa tay
cầm
lên. Cái văn quen thuộc của đại sư phả vào mặt mũi khiến người đọc cảm
động mãi
không thôi. Cầm lòng không đậu, khoé mắt tôi dường như cũng hơi ươn ướt.
Mười năm nay, chưa từng có
cuốn tiểu thuyết nào khiến lòng tôi thổn thức nhường ấy. Nào biết đó là
nỗi bi
ai cho tôi hay nỗi bi ai của cuộc sống đây?
Phạm Tú Châu dịch (Theo báo
Tân Hoa Văn, số 7 năm 1995).
Gấu nhớ
là, bà chủ quán cá có
lần kể về cái vụ lần đầu vô Nam tìm đọc Bùi Giáng, và được một nhà văn
Ngụy khuyên
can, chớ chớ, thứ đầu óc ‘duy [thực] vật' như của những nhà
văn Miền Bắc, không thể nào đọc nổi Bùi Giáng!
Cũng vậy, là, chưởng!
*
Cả
một nước Việt Nam
coi chúng tôi như không có mặt trên đời.
LTH
Vào năm
1981, Bai Hua, một nhà
văn quân đội của TQ, bị đả kích nặng nề vì đã để cho một nhân vật của
ông, [trong
phim Tình Yêu Không Được Đền Đáp, Unrequited Love], một cô gái nói với
ông bố sắp
chết: “ Bố yêu xứ sở của bố, nhưng xứ sở của bố có yêu bố đâu”. Giai
thoại kể là,
Đặng Tiểu Bình có coi phim, chiếu riêng cho ông, và ông bực quá, sủa,
đếch được,
“this won’t do”.
Thành
thử, câu của bà Huệ, nên
để cho những nhà văn trong nước nói ra, thì bảnh hơn. Mấy ông nhà văn,
nhà báo
trong nước đi biểu tình chống cắt đất, cắt biển dâng Tầu, nghe con cái
của họ
chửi, "bố yêu nước Mít, nhưng nước Mít đếch có yêu bố, đếch coi bố có
mặt ở trên đời", thì mới hợp
tình hợp cảnh
hơn là đám bỏ chạy!
Và đám bỏ chạy, hình như chúng nó chỉ mê có một nửa đất nước đếch còn
nữa mà thui!
*
Giai thoại trên, về Deng, Gấu
đọc, trong bài viết của Jonathan Mirsky, Những nhà văn trong một trận
gió lạnh
[Writers in a Cold Wind, nhái
tít của Le Carré, The Spy Who Came
In From The
Cold], điểm cuốn Những sử
dụng, the uses, của văn chương: Cuộc sống ở trong hệ
thống văn học xã hội chủ nghĩa TQ, của Perry Link [NYRB, 8
March, 2001]. Mirsky
kể là, vào đầu năm 1979, nhà nước TQ bãi bỏ rào cản 19 tác phẩm cổ
điển, và 16
tác phẩm ngoại quốc, trong có cuốn Anna
Karenina, và vào cái ngày đầu tiệm sách
Bắc Kinh bầy bán chúng, thiên hạ rồng rắn
nối
đuôi
nhau chờ mua, và đã xẩy ra đánh lộn, và trong một tuần, tám trăm ngàn
cuốn truyện
về nàng Kha Lệ Ninh đã được bán ra!
Gấu bất giác lại nhớ những ngày
1954, khi mấy anh VC về tiếp quản thủ đô, và lần, mấy rạp ciné cho
chiếu lại một
hai phim Tây phương cũ rich, bị kẹt: Cả Hà Nội xếp hàng đi coi! Gấu
cũng xếp hàng, tất nhiên. Vừa xem xong một cái là chạy vội kiếm đường
chuồn!
*
Hoàng
Xuân Trường, trong bài
viết trên Thế Kỷ 21, số tháng Tám, 1997, kể về một trong những lý do
vượt biên
của ông. Có cả ngàn lý do, nhưng thiếu kiếm hiệp cũng là một. Ông cho
rằng, xã
hội cộng sản cấm kiếm hiệp chẳng phải vì nó viễn mơ, không có tính
đảng, tính
giai cấp, tính hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà vì những nhân vật của Kim
Dung
như Hồng Giáo Chủ, Tinh Tú Lão Quái, Đông Phương Bất Bại... đã gợi đến
những
lãnh tụ muôn vàn kính yêu của họ.
Kinh nghiệm vượt biên của ông
làm tôi nhớ đến của tôi, khi rời bỏ Hà-nội. Năm 1954, dân Hà-nội chỉ
đâu một
hai tuần là quá ớn phim ảnh xã hội chủ nghĩa. Trong tình trạng còn xập
xí xập
ngầu đó, cũng có thể do chủ trương của nhà nước, (thời gian 300 ngày tự
do của
Hải-phòng), một ông chủ rạp đã cho chiếu lại một phim cũ, thuộc loại vô
thưởng
vô phạt. Tôi còn nhớ, đó là một phim của Ý, về một vị nữ y tá, hình như
còn là
nữ tu, muốn rời bỏ tu viện, và bệnh viện, để đi theo bồ. Đúng lúc bà
rời bỏ,
thì những đoàn xe đưa binh sĩ bị thương tới bệnh viện. Và bà đã quyết
định ở
lại. Bữa đó, cả Hà-nội sắp hàng vô coi phim! Còn thằng bé thì sau đó,
tìm đủ
mọi cách xuống Hải-phòng, trước còn xem phim, rồi về, sau đi luôn!
Tây phương vẫy gọi
*
Nhân chuyện thơ Bùi Giáng, chưởng
KD mấy anh mấy chị Bắc Kít không làm sao đọc được, và, suy tư trăn trở
hoài
về vấn nạn này, Gấu ngộ ra chân lý. Đối với họ, văn chương là một
chuyện nghiêm
trọng, không phải chuyện đùa. Trong khi một trong những bí quyết viết
văn, là, “tôi
là kẻ nói dối luôn nói ra sự thực”.
Hay, như John Fowles, một tiểu
thuyết gia Hồng Mao, phán:
Nếu bạn
muốn thực với cuộc đời,
khởi sự nói dối về thực tại cuộc đời.
If you
want to be true to
life, start lying about the reality of it.
Hay,
vẫn ông này, bạn không thể miêu tả thực tại;
chỉ đưa ra những ẩn dụ, metaphors, và chúng chỉ ra, indicate, thực tại.
Tất cả
những kiểu cọ miêu tả (hình ảnh, toán học, và cái còn lại, cũng như là
văn chương)
đều có tính ẩn dụ. Ngay cả một miêu tả chi li nhất, xác thực nhất, có
tính khoa
học nhất, một sự vật, hay một khoảnh khắc, thì cũng là một mớ ẩn dụ.
Fowles,
một cách nào đó, là đệ
tử của Alain-Fournier, tác giả Le Grand Maulnes. Anh Môn Vĩ Đại, "Đại
Gia" Môn!
[Note:
Do quá mê sư phụ, Fowles bị bạn bè chọc quê, biến Le Grand Maulnes
thành 'The Great Moan': Tiếng Rên Rỉ Lớn!]
Chính là vì đám Bắc Kít quá
nghiêm trọng với văn chương, cho nên nó đã bị cả hai bên, nhà văn, nhà
nước lợi
dụng, và lạm dụng. Một ‘đặc sản Nam Bộ’ khó mà ngửi được câu thơ “Đường
ra trận
mùa này đẹp lắm”. Có thể, họ nghĩ, phải đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào,
nhưng vừa thôi
cha nội, đừng xúi con nít ăn cứt gà!. Bắc Kít, không chỉ ăn cứt gà, mà
còn
nhỏ máu tay viết đơn xin được ăn cứt gà! Cái sự nghiêm trọng thái quá
với văn
chuơng nó gây họa khủng khiếp là như vậy đấy!
Trong tập tiểu luận và những
bài viết tình cờ, Lỗ Giun, Wormholes, Fowles dành một bài thật trang
trọng về
Miền Đã Mất của sư phụ Alain-Fournier: The Lost Domain of
Alain-Fournier
(1986). Đọc bài viết Gấu ngộ ra, Fowles, Alain-Fournier, Bùi Giáng, và
Gấu, mỗi
người đều có một ‘lost domain’, và với Gấu, đó là BHD, và qua BHD, Hà
Nội của
tuổi thơ của Gấu. Bài viết thật tuyệt, Gấu cứ tính dịch ra hầu độc giả,
nhưng
do quá nghiêm trọng với cái gọi là Cái Ác Bắc Kít, giờ này, chán quá
rồi, bèn
loay hoay tìm cách trở lại miền đã mất của Gấu, trong khi chờ đợi BHD
ới một tiếng,
là đi!
*
Khủng khiếp nhất, là khi hết còn tin vào cái gọi là "Đường ra trận mùa
này đẹp lắm"! Bởi vậy cứ mỗi lần nghe mấy anh VC huyênh hoang là mỗi
lần Gấu nhột. Cái thê thảm, băng hoại, xuống hố bây giờ là do cái lẫm
liệt ngày nào mà ra. Càng ca bao nhiêu càng nhục bấy nhiêu. Sự thực rõ
ràng như ban ngày, mà hễ nói tới là đổ tội cho bọn Chống Cộng Điên
Cuồng. Quái thật. Bọn Chống Cộng Điên Cuồng chỉ Chống Cộng Điên Cuồng
từ
30 Tháng Tư, 1975. Chúng chống, đâu cho một Miền Nam đã mất, mà cho cả
một nước Việt Nam sẽ hồi sinh. Bởi vậy, khi nghe bà chủ sạp cá phán
trong Còn Lại Gì: “Nhận định
này không đồng nghĩa với việc chia sẻ
hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở
không ít
cộng đồng người Việt tị nạn. Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có thể
viết lại.”, Gấu cứ cười khùng khục. Đâu phải ngu, mà
tâm địa khốn nạn, mới phán như vậy.
Mới đây, Gấu đọc mấy anh VC
ca ngợi Võ tướng quân, về cái chuyện không "khứng" chiến thuật biển
người của Tầu Phù, vì ông rất thương bộ
đội Cụ Hồ, nên đã "cho pháo vô, lại kéo pháo ra", trong chiến dịch Điện
Biên, hay sau này, chống lại chiến thuật nướng anh em VC miệt vườn Miền
Nam của Lê Duẩn, nên mới thất sủng. Tuy nhiên, Võ ông đã từng trả lời
phóng viên Mẽo, "Twenty years,
maybe 100 years-as long as it took
to win, regardless of cost.": Hai
chục năm, 100 năm có thể, đánh đến thắng thì thôi, bất kể tổn thất.
Nhân loại, thế giới sợ tướng Võ là ở cái sự vô cảm, hết "nhạy cảm"
đó,
chứ đâu phải ở tài cầm quân? Gấu này lại nhớ đến câu trứ danh của Xì Ta
Lin: Cái chết
của một người, thì là một tai ương, thảm họa. Của triệu người, chỉ là
thống kê.
Giáp đâu có thua Xì?
But,
as Ho's brilliant
commander, General Vo Nguyen Giap, told me
in Hanoi
in
1990, his principal concern had been victory. When I asked him how long
he
would have resisted the U.S.
onslaught, he thundered, "Twenty years, maybe 100 years-as long as it
took
to win, regardless of cost." The human toll was horrendous. An
estimated 3
million North and South Vietnamese soldiers and civilians died.
STANLEY
KARNOW
Cái
gì
làm cho Miền Bắc tin
như bắp vào chân lý, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước,
xây dựng
cái nhà to tổ bố? Ngu si thất học, hay quá thông minh, ưu việt? Nhân
vật
nữ trong The Reader của Bernhard Schlink,
do mù chữ, không đọc được báo, nên hụt một việc làm tại nhà máy, và
được đi làm
quản giáo, và dâng hiến đời mình cho việc làm thịt Do Thái. Đa số Nazi đều là thành phần có học. Và với The Reader, đây là
một “tai nạn” của lịch sử tội ác Nazi. Chúng ta tự hỏi, liệu, cái sự
ngu si thất
học là nguyên nhân thắng trận? Những thành phần ưu việt đã xúi đám ngu
si dốt nát lao vào
chiến trường
Miền Nam?
Liệu có người nào làm một cuộc điều tra về chuyện này, như Mẽo đã từng
làm, và
cho thấy, đa số Mẽo tham chiến tại Việt Nam là da đen?
Trên tờ TLS số 2 Tháng Giêng
2009, có bài, Địa lý về sự mất mát, Geogaphies of loss, viết về những tiểu
thuyết mới ra lò của Đức, chúng đều nhắm vào sự hoài nhớ, và tội lỗi,
[Recent
German novels deal with nostalgia and guilt]. Chúng ta thì đều quá rành
về một
Miền Nam Mỹ Ngụy, nhưng còn Miền Bắc?
Tiểu thuyết gia Đức Uwe
Tellkamp, trong Cái Tháp, DER TURM, được giải thưởng 2008 German Book
Prize, đã đưa ra câu hỏi, Đông Đức là cái quái gì? (1), khi
viết về một dúm gia đình trí thức trưởng giả, đúng ra không thể có, tại
đây.
Mít
chúng ta đã biết về những anh nông dân Bắc Kít, như Cu Sài của Lê Lựu,
nhỏ máu ngón
tay viết
đơn tình
nguyện vô Nam chiến đấu, nhưng chưa hề biết về một Miền Bắc, khác?
Liệu có một
Miền Bắc,
khác?
(1) Hà Nội là cái quái gì?
TTT
Der Turm còn một
cái tiểu tít là: Chuyện về một xứ sở đã mất, Tale from a lost country. Chúng
ta, Mít, hình như cũng có một câu chuyện về một xứ sở đã mất, và chắc
chắn, không phải là Miền Nam !