Ghi
1 2 3 4 5 6
7 8
|
Đỉnh
cao chói lọi
Sinh
nhạt Bác
Viên gạch Bác
Cứ
giả sử, nhân
dân đều biết tỏng, Bác ôm cục gạch ấm áp mềm mại trong tay mà đã phịa
ra cục
gạch sần sùi gói trong tờ báo, liệu nhân dân "giận thì giận nhưng
thương
thì vẫn thương"?
Đây cũng là câu hỏi tờ TLS nêu ra khi điểm cuốn tiểu sử Koestler, liên
quan đến
vấn đề đạo hạnh, đời tư của người viết.
Sự khác biệt, là, ông Hồ là nhà chính trị, còn Koestler, nhà văn.
Le Magazine
Littéraire, Juin,
2008, đặc biệt về những nữ tiểu thuyết gia Anh, từ Jane Austen tới
Zadie Smith.
Có một bài luận văn chưa từng được in [inédit] của Emily Bronte: Lâu
Đài của
Thần Chết, viết bằng tiếng Tây, khi 'em' du học Pháp, tại Bruxelles
Tờ
Văn Học Pháp đổi mới, bỏ
một số mục, kể cả mục do Linda Lê chủ trì, Trở về với những nhà văn cổ
điển,
tuy cả hai, Tran Minh Huy và Linda Lê vẫn viết thường trực trong mục
tiểu luận,
phê bình.
Dương
Thu Hương
Những
Tác phẩm: Bên kia bờ ảo
vọng, Những Thiên Đường Mù, Tiểu thuyết vô đề, Chốn Vắng.
Phan
Huy Đường dịch, Nhà xuất
bản Robert Laffont, 1056 trang. 36E
Năm
2006, đại chúng biết đến Dương
Thu Hương khi bà cho xuất bản Chốn Vắng (Giải Thưởng của nữ độc giả báo
Elle,
năm 2007), một quyển tiểu thuyết bậc thầy nói về cuộc đấu tranh của cá
nhân
chống lại chế độ toàn trị. Đây không phải là cuốn sách đầu tiên của bà,
chúng
ta biết điều này khi nhà xuất bản Robert Laffont cho xuất bản tuyển tập
đầu
tiên những tác phẩm của bà, và ngoài Chốn Vắng ra, còn ba quyển tiểu
thuyết
“hải đăng”, thứ tiểu thuyết dẫn lối chỉ đường khác
Trong
các câu chuyện
kể này,
công khai nói về chính trị, và đây là tầm vóc của chúng, những yếu tố
chủ chốt,
mang tính xây dựng đều có mặt, và ở đúng vị trí ở trong một cuốn sách
bậc thầy,
bắt đầu bằng một vài hình ảnh: người lính ma với nhân vật kể chuyện
trong Tiểu
Thuyết Không Đề, hay người phụ nữ bị xâu xé bởi hai người đàn ông trong
Bên kia
bờ Ảo vọng. Hoặc liên minh giữa đạo Khổng xưa cũ với kỷ luật Đảng Cộng
Sản Việt Nam
để chà đạp tự do cá nhân. Trong lời nói đầu tuyệt vời của Antoine
Andouard, ông
nhắc tới điều, tất cả các nhân vật của Dương Thu Hương đều có chung một
số
phận: “Họ bị chiến tranh và lịch sử nghiền nát.”. Cho nghĩa cả. Sự
nghiệp văn
chương của nữ sĩ này luôn luôn đứng sau cuộc đấu tranh chính trị, đến
mức bà
thường coi mình, chỉ là một “văn sĩ nghiệp dư”, một “tài tử”. Nữ anh
hùng thời
chiến, cựu đảng viên Cộng Sản, từ lâu người phụ nữ này đã trả giá tự do
của
mình để đấu tranh cho dân chủ và cho quyền làm người. Tác phẩm của bà
đẫm mình
ở trong cuộc chiến đấu đó, và đây là điều Antoine Andouard vinh danh
bà, thật
nhiều, trong phần giới thiệu. Nhưng ông nói thêm: “Người ta có thể đọc
các tác
phẩm, mà chẳng cần biết đến đời tư của bà, và kinh nghiệm này, thì thật
khó
quên.” Tam Van Thi
Chuyện
cái hồ
nước hiện ra chỉ sau một đêm, và những chuyện cổ tích Việt Nam
khác. do Minh Huy Tran trình bầy, và kể.
Về Đỉnh Cao Chói Lọi.
Trong
The
Noise of Time, Tiếng động của thời gian, lời
giới thiệu, có một giai thoại thật thú vị liên quan tới Pasternak, vụ
bắt nhà
thơ Osip Mandelstam và một cú phôn của Bác Xì, từ Điện Cẩm Linh.
Liền sau khi Osip bị bắt, nhà
thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là một đặc ân chưa từng một nhà
thơ nào
được hưởng, do quyền uy của nhà thơ [perhaps the profoundest tribute
ever paid
by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s pen]. Do chính Boris
Parternak kể lại.
Một bữa bà vợ Mandelstam đến
gặp ông năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần đầu tiên ông
biết Osip
bị bắt. Cả hai không hề là bạn thân. [Ngay cả về thơ, thì hai ông cũng
đếch chịu
nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ trong sáng qua hũ nút,
còn
Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy nhiên, do bà vợ M. năn nỉ quá,
P. hứa sẽ
làm hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có một ông to lắm ở trong BCT
lăn cổ
ra chết, và theo đúng nghi thức, xác của ông ta phải chường ra tại Nhà
Hội [the
Columned Hall of the House of Unions], cho những quan Xô Viết đến thăm
lần chót.
P. đến, và nhận thấy trong đám này có Bukharin, và bèn tới năn nỉ giùm
bà vợ
Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau đó, một đêm, trong bữa
tụ tập tại
nhà P. giữa đám Bọ L., Bọ PXN… [?], thì
điện
thoại reo. Giọng người bên đầu kia hỏi, có đồng chí Pạt tẹc nặc đó
không; đồng
chí Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm Linh. Một lát sau, có giọng nhừa
nhựa nghe
ra dân Georgian:
-Phải Pạt đó không? Đây là Xì
ta lìn.
-Good Evening, Comrade
Stalin. By the way, this is not a leg-pull, is it? [Này đừng có bịp tụi
này nhé]
-No, no, this is Stalin, all
right.
Nghe tên Stalin cả phòng im ắng.
Pạt nói:
-Hiện trong phòng có 26 người.
và họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make any difference?]
Xì nói, OK, này, về
Mandelstam, thì sao?
-Tôi muốn làm điều gì đề giúp
anh ấy.
-Anh có nghĩ, anh ta là một
nhà thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí Xì. Đồng chí cũng
biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta nghĩ gì, về một nhà thơ khác.
Cũng như
chẳng ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn bà đẹp khác.
-Đồng chí nói như vậy, có nghĩa
là, đồng chí không khoái thằng chả đó? [Then am I to take it you don’t
think
much of him?]
-Không, không, đồng chí lầm rồi.
Tôi là một nhà thơ thật khác ông ta. Chỉ có vậy. Tôi nghĩ, ông ta là
người viết bảnh,
a good writer.
-“Tốt lắm, cám ơn”. Ngưng. “Tại
sao không ghé tôi chơi?”
-Cái này thì hơi bị kẹt. Đúng
ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời, thì tôi mới dám tới.
Xì cười lớn và chúc Pạt một
buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được thả. [Nhưng chẳng được
lâu].
*
Chói lọi mới chẳng trói lại!
Này đừng có bịp tụi này đấy nhé!
*
Để tìm hiểu lịch sử
và nhìn
lại chân lý là một việc nan giải và không dễ dàng gì để tiếp nhận...
Tôi chỉ cho đây là một cuốn
tiểu thuyết.
DTH [Nguồn BBC]
Khi DTH coi cuốn
sách của bà
chỉ là một cuốn tiểu thuyết, thì cái gọi là chân lý, nếu nhờ đọc nó mà
có được,
không phải là chân lý, mà cũng chẳng liên quan đến lịch sử. Bà
DTH, theo Gấu, không phân
biệt được giữa giả tưởng, và sự thực, giữa lịch sử và tiều thuyết lịch
sử. Sự lầm
lẫn này, là do cái lò văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa mà ra. Giả
như bà DTH đưa ra được một
ông Hồ, khác, thì đó vẫn chỉ là một ông Hồ giả tưởng, dựa vào một số
những sự
kiện mà bà DTH nghĩ, chúng là sự kiện thực. Nếu
chúng là thực, và bà dùng
nó để viết về ông Hồ, và vẫn muốn độc giả tin là chân lý, thì bà phải
coi cuốn
của bà là hồi ký, một dạng non-fiction. Những
nhận định của bà về ông
Hồ, bị hai thế lực gì gì đó xâu xé… rồi
con người lười suy nghĩ… theo Gấu, đều nhảm cả!
Rushdie, trong cuốn Quê hương tưởng tượng, có nhắc một
câu của Luis Bunuel: Tôi dám hiến thân mình của tôi, cho kẻ nào đi tìm
chân lý, nhưng tôi sẽ làm thịt, kẻ nào nói, nó nắm được chân lý.
Năm 1973,
khi viết về cuốn Bếp Lửa của
TTT, Gấu cũng đã từng dõng dạc lèm bèm:
Sự thực của nhà văn không phải là sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời
sống (sự thực của những người đã chết truyền lưu cho kẻ sống sót. TTT]
lại càng không phải sự thực văn chương. Valéry đã gọi đó là ảo tưởng hiện thực, lòng tin ngây
thơ văn chương có thể ghi lại sự thực
Tôi
sợ rằng, đây là trường hợp Đỉnh Cao
Chói Lọi của DTH. NQT
*
Coetzee đọc Lâu
đài trong Rừng của Mailer, phán, một khi mà lịch sử chịu thua,
đếch
kiếm ra “chân lý” về Cái Ác
Hitler, thì lúc đó, nhà văn bước vô, để ta “phịa” ra cho!
*
Portrait of the Monster
as a
Young Artist
By
J.M. Coetzee
The
Castle in the Forest
by Norman Mailer
Random
House, 477 pp., $27.95
In
his dual biography of the
two bloodiest butchers and worst moral monsters of the twentieth
century,
Stalin and Hitler (but is Mao not up there with them? and does Pol Pot
not get
a look-in?), Alan Bullock reprints side by side class photographs of
young
Iosif and young Adolf taken in 1889 and 1899 respectively, in other
words, when
each was about ten.[*] Peering at the two faces, one tries to descry
some
quiddity, some dark halo, some sly intimation of the horrors to come;
but the
photographs are old, definition is poor, one cannot be sure, and
besides, a
camera is not a divining tool.
Trong cuốn tiểu sử viết sóng
đôi, hai tay đồ tể sắt [hay sát] máu nhất, hai con quỉ khốn kiếp nhất,
the
worst moral monsters, của thế kỷ 20, Stalin và Hitler [nhưng tại sao
lại bỏ sót
Mao, chẳng lẽ này chưa xứng ngồi chung chiếu với hai vị trên, và liệu
có nên
ghé mắt tới me-xừ Pon Pot?] Alan Bullock cho in kế bên nhau, những bức
hình hồi
còn là học trò của hai chú bé Iosif và Adolf, niên học 1889 và 1899,
tức là khi
hai cháu mới 10 tuổi.
Nhìn
hai khuôn mặt, ta có thể
sẽ nhăn mặt, đôi mắt có thể “chợt” u
buồn, khi nghĩ tới những tai họa sau đó mà hai nhân vật “thứ ba” [Nhất
quỉ, nhì
ma, thứ ba học trò] giáng xuống nhân loại, nhưng những bức hình quá
xưa, quá
cũ, thành thử khó xét đoán, và ngoài ra, máy chụp hình không phải là
“mu rùa”,
khó… bói lắm!
Bức
hình học trò, cho dù sáng
sủa cách mấy thật khó là mu rùa. Những đứa trẻ như trong hình, số phận
sẽ ra
sao? Thằng nhóc nào sẽ đi xa nhất? Nhưng, với hai ông thần này, là một
câu hỏi
nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng ta là quỉ, ngay từ khi lọt
lòng
mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và như thế nào, bằng cách
nào,
quỉ... đi vô chúng ta?
Hay là, đặt câu hỏi dưới một
dạng “dễ thương” hơn, ít chất siêu hình hơn, tại sao trong số chúng ta,
có
những con người chẳng hề bao giờ phải cố nén cái ác lại, cố đừng để cho
con lợn
lòng xổ chuồng, cố vận dụng tới cái gọi là lương tâm đạo đức, khi tính
“làm
thịt” ai đó?
*
Với hai ông thần này, là một
câu hỏi nhức nhối: Chẳng lẽ một số người trong chúng ta là quỉ, ngay từ
khi lọt
lòng mẹ? Nếu không phải như thế, thì vào lúc nào? Và như thế nào, bằng
cách
nào, quỉ... đi vô chúng ta?
Trong trường hợp Stalin, và
Hitler, liệu lỗi lầm là do cách nuôi nấng dậy dỗ, “một trăm năm trồng
người”,
tức hệ thống giáo dục tại Georgia
và Austria
cuối thế kỷ 19?
Liệu hai cháu đã phát triển
được một tí lương tâm, nhưng sau đó, làm mất?
Liệu khi chụp hình,
hai cháu
đều là "cháu ngoan Bác Hồ, học tập tốt, lao động tốt, bình thường,
ngoan
ngoãn", như mọi đứa trẻ khác, và sau đó, biến thành quỉ là do những
cuốn
sách chúng đọc, hay bạn bè chúng quen, hay do đòi hỏi, sức ép của “thời
đại”,
theo kiểu thời thế tạo ra quỉ, và trong lá số tử vi của hai cháu, có
đoạn, hai
thằng bé này sinh ra để làm Đồ Tể Đức, Đồ Tể Nga?
Nhưng,
giả như hai cháu, vì
lý do nào đó, không kịp ra đời để đóng vai của họ, liệu Thượng Đế có
kiếm ra
hai tay khác đóng thế?
Đây
là những câu hỏi mà mấy
ông viết tiểu sử rất ngần ngại, khi phải đối đầu. Có những giới hạn
chẳng bao
giờ chúng ta biết được, về hai chú nhóc Iosif, hay Adolf, sống ra sao,
môi
trường, bạn bè, ảnh hưởng sớm sủa nào. Giữa đầu vào, bản ghi nhận sự
kiện, và
đầu ra, cả cuộc đời nội tại một người, là một hố sâu, mà những nhà sử
học, những
tiểu sử gia hiểu rất rõ, đừng nên té xuống đó.
Chính
vì thế, nếu chúng ta
muốn biết chuyện gì đã xẩy ra với linh hồn của hai cháu nói trên, chúng
ta phải
cầu cứu tới mấy ông nhà văn nhà thơ, tới cái thứ sự thực mà họ dâng
hiến, vốn
không giống như của những sử gia [Tiểu sử gia thì cũng là một sử gia,
của một
cá nhân].
Đó
là khi Mailer bước vô bức
tranh, ở cái chỗ những sử gia, tiểu sử gia ngưng lại.
Nguồn
Friday,
January 26, 2007
J. M. Coetzee on Norman
Mailer's Hitler
at the New York Review of
Books (no subscription required). Here are his conclusions:
The lesson that Adolf
Eichmann teaches, wrote Hannah Arendt at the conclusion of Eichmann in Jerusalem, is of
"the fearsome, word-and-thought-defying banality of evil" (Arendt's
italics). Since 1963, when she penned it, the formula "the banality of
evil" has acquired a life of its own; today it has the kind of clichéd
currency that "great criminal" had in Dostoevsky's day.
Mailer has repeatedly in
the
past voiced his suspicion of this formula. As a secular liberal, says
Mailer,
Arendt is blind to the power of evil in the universe. "To assume...that
evil itself is banal strikes me as exhibiting a prodigious poverty of
imagination."
"If Hannah Arendt is correct and evil is banal, then that is vastly
worse
than the opposed possibility that evil is satanic"—worse in the sense
that
there is no struggle between good and evil and therefore no meaning to
existence.
It is not too much to say
that Mailer's quarrel with Arendt is a running subtext to The Castle in
the Forest. But does he do justice to her? In 1946
Arendt had
an exchange of letters with Karl Jaspers sparked by his use of the word
"criminal" to characterize Nazi policies. Arendt disagreed. In
comparison with mere criminal guilt, she wrote to him, the guilt of
Hitler and
his associates "oversteps and shatters any and all legal systems."
Jaspers defended himself:
if
one claims that Hitler was more than a criminal, he said, one risks
ascribing
to him the very "satanic greatness" he aspired to. Arendt took his
criticism to heart. When she came to write the Eichmann book, she
endeavored to
keep alive the paradox that though the actions of Hitler and his
associates may
defy our understanding, there was no depth of thought behind their
conception,
no grandeur of intention. Eichmann, a humanly uninteresting man, a
bureaucrat
through and through, never realized in any philosophically full sense
of the
word what he was doing; the same might be said, mutatis mutandis, for
the rest
of the gang.
To take the phrase "the
banality of evil" to epitomize Arendt's verdict on the misdeeds of
Nazism,
as Mailer seems to do, thus misses the complexity of the thinking
behind it:
what is peculiar to the everyday banality of a bureaucratically
administered,
industrially organized policy of wholesale extermination is that it is
also
"word-and-thought-defying," beyond our power to understand or to
describe.
Before the magnitude of
the
death, suffering, and destruction for which the historical Adolf Hitler
was
responsible, the human understanding recoils in bewilderment. In a
different
way, our understanding may recoil when Mailer tells us that Hitler was
responsible for the Third Reich only in a mediate sense—that ultimate
responsibility lay with an invisible being known as the Devil or the
Maestro.
The problem here is the nature of the explanation we are being offered:
"The Devil made him do it" appeals not to the understanding, only to
a certain kind of faith. If one takes seriously Mailer's reading of
world
history as a war between good and evil in which human beings act as
proxies for
supernatural agents—that is to say, if one takes this reading at face
value
rather than as an extended and not very original metaphor for
unresolved and
irresoluble conflict within individual human psyches—then the principle
that
human beings are responsible for their actions is subverted, and with
that the
ambition of the novel to search out and speak the truth of our moral
life.
Blessedly, The Castle in
the Forest does not demand to be read at face value.
Beneath
the surface, Mailer can be seen to be struggling with the same paradox
as
Arendt. By invoking the supernatural, he may seem to assert that the
forces
animating Adolf Hitler were more than merely criminal; yet the young
Adolf he
brings to life on these pages is not satanic, not even demonic, simply
a nasty
piece of work. Keeping the
paradox infernal–banal alive in all its anguishing
inscrutability may be the ultimate achievement of this very
considerable
contribution to historical fiction.
|
|