Diary
|
Echo in the Dark
In
the land of the Soviets,
the voice of the Kremlin was everywhere, an omnipresent
reality-via-radio that
long preceded Orwell’s dystopia. Lenin and Trotsky fomented revolution
primarily in print—in the commanding editorials of Iskra and Pravda, in
the
frenzied leaflets passed around in St. Petersburg meeting halls and
later
reprinted in “Ten Days That Shook the World”—but the leading instrument
of
enculturation and inundation under Joseph Stalin was a broadcast
technology
called radio-tochka, literally “radio point,” a primitive receiver with
no dial
and no choice. These cheap wood-framed devices were installed in
apartments and
hallways, on factory floors, in train stations and bus depots; they
played in
hospitals, nursing homes, and military barracks; they were nailed to
poles in
the fields of collective farms and blared along the beaches from the
Baltic to
the Sea
of Okhotsk
Ui chao, thảo nào Akhmatova
phán:
Chỉ người nào có sống ở Nga,
và nghe radio (la-dô, đài) mỗi ngày, mới hiểu chủ nghĩa Cộng-sản là gì.
(Only
someone who lives in Russia
and listens to the radio every day can understand what communism is,
trích dẫn
từ Chuyện trò với Joseph Brodsky, của Solomon Volkov, nhà xb The Free
Press,
1998).
Mấy ông bà Miền Nam,
bỏ
chạy kịp, ngay sau khi VC vô, chắc là
chưa kinh qua [kinh quá, hãi quá, hốt quá... cũng đều được cả!], kinh
nghiệm kinh khiếp về một cái loa
phát thanh ở ngay... đầu giường này!
Khủng khiếp lắm! Có lẽ chỉ thua tiếng kẻng ở trại cải tạo, vào buổi
sáng thôi.
Những
bài thơ mới
của Cao Thoại Châu
Uống cạn hoàng hôn
Trong niềm vui có lẫn chút sương mù
Đêm qua Bắc Vàm Cống
Buồn Đại Lục
tặng cho em nguyên
một đóa
trăng rằm
thôi câu chuyện tình nói cho nhiều rồi
cũng vậy
trăm năm dài rồi sẽ đụng
nghìn năm
tất cả qua đi, điều gì
còn ở lại
một đóa hoa quỳnh trong
cõi trăm năm
NBS.
Thời Chúa
Sẩy Thai
Cái sự tắc đẻ của
nhà văn Mít,
quả cũng có liên quan đến vốn đọc, vốn sống - đây là vấn nạn muôn đời
của nhà văn,
của sáng tạo - nhưng trên hết, những nhà văn Mít của chúng ta không
muốn viết dưới
ánh sáng của Đảng nữa, nhưng lại không thể kiếm ra một thứ ánh sáng nào
thay thế
cho nó, theo như Gấu cảm nhận.
Tất
cả những tác phẩm nổi lên
được, ở trong nước, những năm gần đây, chỉ tính từ cuối cuộc chiến, đều
có tính
xé rào, thí dụ, Nỗi buồn chiến
tranh,
và tiếp nó, Tướng
Về Hưu. Hết
chiến
tranh, lấy sex làm ánh sáng chỉ đường, thay cho Đảng.
Paz
có lẽ là người nhìn thấu đáo
hiện tuợng này, khi nêu lên vấn đề hết sức khẩn trương, và hết sức quan
trọng:
cần xoá sạch, xua tan, sự lầm lẫn giữa nghệ thuật tập thể, the communal, hay collective
art, và
nghệ thuật nhà nước, the
official art.
Trong bài Thơ, Xã hội, Nhà nước, ông viết: nghệ
thuật
tập thể được gợi hứng từ niềm tin và tư tưởng của xã hội, thứ kia, là
con cờ
trong tay nhà nước [art subjected to the rules of a tyrannical power].
Những tư
tưởng đa dạng, những ý hướng tinh thần - sự thờ phụng polis, Ky tô, Lãng mạn,
Phật giáo, Hồi giáo… đã được nhập thân
[incarnated] vào những nhà nước và đế quốc quyền lực. Nhưng chớ bao giờ
cho rằng
nghệ thuật Gothic, Lãng mạn… là những sáng tạo của giáo hoàng. (1)
Chúng
ta chưa có thứ nghệ thuật của chúng ta, của "thời của Chúa Sẩy Thai".
(1)
There is nothing more urgent
than the need to dispel the confusion that has been established between
the
so-called "communal" or "collective" art and the official
art. One is art that is inspired by the beliefs and ideals of a
society; the
other, art subjected to the rules of a tyrannical power. Diverse ideas
and
spiritual tendencies-the cult of the polis, Christianity, Buddhism,
Islam, and
so on-have been incarnated in powerful states and empires. But it would
be a
mistake to regard Gothic or Romanesque art as creations of the papacy,
or the
sculpture of Mathura
as the expression of the empire founded by Kanishka. Political power can
channel, utilize, and - in certain cases - stimulate an artistic
current. It can never create it. What is more: In the long run it
generally has
a sterilizing effect. Art is always
nourished from the social language. That language is, likewise and
above all, a
vision of the world. Like the arts, states live by that language and
sink their
roots in that vision of the world. The papacy did not create
Christianity, but
the other way around; the liberal state is the offshoot of the
bourgeoisie, not
the latter of the former. The examples can be multiplied. And when a
conqueror
imposes his vision of the world on a people - for example: Islam in Spain - the
foreign state and its whole culture remain as alien superimpositions
until the
people have truly made that religious or political conception their
own. Only
then, that is to say: when the new vision of the world becomes a shared
belief
and a common language, will there be an art or a poetry in which
society
recognizes itself. Thus, the state can impose one vision of the world,
prevent
others from emerging, and exterminate those that obscure it, but it
lacks the
fecundity to create such a vision. And the same thing happens with art:
the
state does not create it, it can hardly encourage it without corrupting
it and,
more frequently, as soon as it tries to utilize it, it deforms it,
suffocates
it, or converts it into a mask.
Octavio Paz:: The Bow and the Lyre
[phần Phụ lục, Appendix]
Cái câu Gấu gạch đít, thật đúng với tình trạng văn chương thời "Đường
ra trận mùa này đẹp lắm", nhưng khi vỡ mộng, Con Bọ VC xuất hiện, thì
tắc đẻ là quy luật, là biện chứng, là tất yếu, là tất nhiên thôi!
*
Nhưng, khủng khiếp hơn hết, là,
cái sự tắc đẻ đó, nó liên quan tới cái gọi là Đạo Viết Văn. Và cái đạo
viết văn,
thì nó lại liên quan tới một tấm lòng nhân hậu.
…
Khó
nhất, là làm sao có được
một tấm lòng nhân hậu, để viết về Cái Đại Ác, bởi vì nếu không có, là
thể nào
cũng bị tẩu hoả nhập ma. Chúng ta lại gặp Kim Dung ở đây, khi ông đặt
câu hỏi,
tại sao Phật Pháp lại rong ruổi với Võ Công, tại sao chỉ có một mình
Đạt Ma Tổ
Sư là thành thạo 72 tuyệt kỹ võ công của Thiếu Lâm. Đạo càng cao, tuyệt
kỹ càng
cao, tuyệt kỹ càng cao thì mới dám đụng vào những đề tài chết người,
chết cả
mình, như Cái Đại Ác !
Viết
tới đây, lại nhớ đến
những ông nhà văn đi ăn cắp của người mà cứ muốn tác phẩm ăn cắp của
thiên hạ
đó biến thành một thứ Chiến Tranh và
Hoà Bình của Việt
Nam, hàn gắn vết thương
lủng bao tử, lủng trái tim, lủng lục phủ ngũ tạng của cả hai miền.
Cuốn
của Littell hiện cũng
được coi là một Chiến Tranh và Hòa
Bình, chính là ở đề tài, ở cái tâm của người
viết. Đây cũng là điều Jérôme Garcin, trên Người Quan Sát Mới, số 24-30 Tháng
Tám 2006, nhận ra khi viết về "trạng thái thanh thản trong tâm hồn"
của tác giả. Phải có sự thanh thản như thế, mới dám đụng vào một đề tài
khủng
khiếp đến như thế: Cái Ác Lạnh.
*
Nhân
đây, xin lạc đề một tị,
nói về đạo càng cao tuyệt kỹ càng cao. Không có tuyệt kỹ là không có
văn chương,
chỉ có thứ xém một tí. Nhưng đạo cao đến đâu, tuyệt kỹ theo tới đó, tới
một lúc
không còn tuyệt kỹ nữa ! Chính vì thế mà những câu thơ, câu văn thần,
là những
câu thật là bình thường, giản dị. Cái này chính là vô chiêu mà Kim Dung
nói
tới.
Gấu
này đoán, ông ngộ ra điều
này nhờ thiền. Một bài học thiền nhiều người biết, là, trước khi thiền,
thấy
rừng là rừng cây là cây, đang thiền, thấy rừng không phài là rừng, cây
không là
cây, ngộ thiền rồi, thì lại thấy rừng là rừng, cây là cây.
Nói
rõ hơn: Cái Bình Thường
là Đạo.
*
Gấu mới được coi một
phim của
Nhật, The Hidden Blade. Đề
tài của nó, cũng có gì tương tự tới đạo và tuyệt kỹ.
Có hai kiếm sĩ cùng học một thầy, một ác, một thiện. Tay
ác võ công cao hơn. Ngay khi đang học, thầy đã đoán ra, sau này, hai
thằng thể
nào cũng đụng độ, và giấu đi một tuyệt chiêu, không dậy.
Sau
quả nhiên đụng độ thực,
và anh thiện, trước trận đụng độ, trở về gặp thầy, học chiêu võ công
thầy vẫn
để dành cho mình, thắng anh ác, rồi, trả thù cho anh ác luôn, vì anh
này cũng
bị lừa mà trở thành kẻ giết người. (1)
Điều
Gấu này muốn nói, cái
chất thiện đó, mới là cần. Tuyệt kỹ, học lúc nào mà chẳng được.
Có
tay triết gia thời Hy La
thì phải, bị kết án tử, chỉ còn vài ngày là rụng đầu, vậy mà còn muốn
học thổi
tiêu [?], nữa là !
Nhật
ký
(1) Có tới hai
tuyệt chiêu, ở trong phim. Một rất nổi tiếng, nhưng giang hồ chỉ nghe
tên. Hình như là Móng Chim Ưng.
Tay kiếm sĩ "chính diện" sử dụng chiêu này để trả thù cho bạn
Miểng
Miểng nghĩa là
gì?
Trả lời DDP, Thảo Trường “cẩn
trọng” người phỏng vấn ông, này, mảng là mảng, không mắc mớ gì tới
mảnh, mảnh
thì cũng như miểng, nhưng tôi thích cách gọi miểng [tiếng Miền Nam] hơn.
Mấy thằng ngu, khi viết về
ông,
dùng tưới hai tiếng “mảnh/miểng,” là không hiểu tấm lòng của ông dành
cho “miểng”.
Nhưng miểng ở đây lại còn là
một bận tâm về kỹ thuật viết, giữa hai thể loại viết, truyện ngắn, và
truyện dài.
Thảo Trường viết văn rất tự
nhiên, không cầu kỳ, nhưng như thế không có nghĩa là ông không bị kỹ
thuật viết
làm phiền ông, thí dụ như cái tham vọng nhét của một cuộc chiến vào
trong một
truyện ngắn, và, khi coi những truyện ngắn của ông, như là những miểng
của
một cuốn
tiểu thuyết… chưa có, và cái phần chưa có kia, còn nằm
trong đầu, hay trong túi của ông.
Nhân đọc lại bài giới
thiệu
Joseph Roth, trên Tin Văn, xin post lại những đoạn có thể làm rõ ra
quan niệm
viết, viết truyện ngắn, viết truyện dài của TT.
Trong lời dẫn khi dịch Tập
Truyện Ngắn của Roth, Michael Hofmann viết:
Hình như có hai loại tiểu
thuyết gia. Một, hãy nghĩ tới Kafka, hay Lawrence, hay Hemingway, hay
Scott
Fitzgerald, hay Thomas Mann, hay Jean Rhys, hay Paul Bowles, là những
người có
chút chú ý đặc biệt về cái gọi là truyện ngắn, [short fiction], ban cho
nó một
tí quan tâm, lại cũng đặc biệt, về kỹ thuật, và sau cùng, "bèn" viết
chúng. Và những người khác - Dickens,
Flaubert, Turgenev, Woolf, ngay cả Joyce - là những người cũng viết
truyện
ngắn, nhưng thường 'viết là viết', thoải mái, vô tư mà viết, giống như
một thứ
phó sản phẩm, hay là một phần của cái gọi là chuyện nghề của họ, 'đã
đem nghiệp
ấy vào thân', thì đành cũng thử xoay vần với cái gọi là truyện ngắn
[với Nguyễn
Du, cái gọi là lục bát], xem sao!
Với
nhóm trên, người đọc, khi
đọc những truyện ngắn của họ, là tìm cái mẫn cảm, cái có giá trị, của
cái gọi
là văn chương. Với nhóm dưới, đọc họ thấy kỳ kỳ [peculiar], cứ như là
bị ép
phải đọc! Không phải là họ viết dở, không có chi là đặc biệt ở trong
đó, nhưng
có lẽ, là do cảm giác này: những truyện ngắn của họ viết ra đó không
hẳn là
những truyện ngắn, không phải thứ tuyệt tác, theo đúng như cách mà
người ta
thường định nghĩa truyện ngắn là phải như vậy, nhưng thuộc vào cái khối
đồ sộ
là toàn bộ tác phẩm của họ, toàn thể cuộc đời của họ.
Joseph Roth thuộc nhóm này.
Cái đoạn gạch đít ở trên, có
thể áp dụng cho Thảo Trường. Truyện ngắn của ông, như là những miểng,
của cuốn
tiểu thuyết, là toàn thể cuộc đời của ông.
*
Nhắc tới Josph Roth, là do đọc Người
Kinh Tế, số 6 Tháng Chín, 2008, có một bài viết về Đế quốc Áo
Hung quê hương của ông, và phát súng khởi đầu làm tan rã nó. Chỉ một
phát súng khởi đầu. (1)
Và "chỉ một phát súng' khởi đầu này, lại làm nhớ tới phát súng mở ra
Cách Mạng Tháng Tám, của Văn Cao...
Ấy đấy, cái nọ xọ cái kia,...
(1) Starting Pistol: Cú ám sát Franz Ferdinand: Một buổi sáng tại Sarajevo: 28 June 1914. Tác
giả David James Smith. Nhà xb Weidenfeld & Nicolson; 336 trang,
18.99 Anh kim.
*
Đường ra trận mùa này đẹp lắm:
Hành Khúc Radetzky
Gấu
nhà văn
Sartre,
khen nắc nỏm Âm thanh và Cuồng nộ, nhưng chê hết lời Sartoris, coi đây
là thứ nghệ thuật đánh lừa con mắt.
Lạ, là Borges lại coi đây, thứ
nghệ thuật mà con mắt của Faulkner, là thứ thượng thừa, khi viện dẫn
một câu của Boileau, để minh chứng: ”Cái thực đôi khi có
thể chẳng có
vẻ thực: Le vrai peut quelquefois n’être pas vraisemblable.”
Trong Borges a Reader, có ba bài điểm,
review, thật ngắn, của Borges, về
ba tác phẩm của Faulkner: The
Unvanquished, Absalom, Ansalom!, và The Wild Palms.
Gấu đọc The Wild Palms, từ bản tiếng
Tây, Les Palmiers sauvages, là qua "gợi ý" của ông anh
nhà
thơ, những ngày ngồi
quán Chùa. Có vẻ như ông chỉ ưa, [hay chỉ đọc?] cuốn này. Gấu đọc,
nhưng thú thực,
không mê, bởi vì bao nhiêu hồn vía bị tay colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom! hút sạch mất rồi!
*
WILLIAM FAULKNER
THE UNVANQUISHED
It is a
general rule that
novelists do not present a reality, but rather its recollection. They
write
about real or believable events that have been revised and arranged by
memory.
(This process, of course, has nothing to do with the verb tenses which
are
used.) Faulkner, on the other hand, wants at times to re-create the
pure
present, not simplified by time nor even refined by attention. The
"pure
present" is no more than a psychological ideal; and therefore certain
of
Faulkner's disarrangements seem more confused-and richer-than the
original
events.
In previous works, Faulkner
has played powerfully with time, deliberately shuffling chronological
order,
deliberately multiplying the labyrinths and ambiguities, so much so
that there
were those who insisted that he derived all his strength from those
involutions. This novel-direct, irresistible, straightforward -finally
destroys
that suspicion. Faulkner does not attempt to explain his characters. He
shows
us what they feel, how they act. The events are extraordinary, but his
narration of them is so vivid we cannot imagine them any other way.
''Le vrai
peut quelquefois n'être pas vraisemblable"
("The truth may not seem
plausible. "), Boileau has said. Faulkner lavishes implausibilities in
order to appear truthful - and he succeeds. Or rather: the world he
imagines is
so real that it also encompasses the implausible.
William Faulkner
has been
compared to Dostoevsky. The comparison is not unjust, but Faulkner's
world is
so physical, so carnal, that, next to Colonel Bayard Sartoris or Temple Drake,
the explanatory homicide Raskolnikov is as tenuous as one of Racine's
princes. Rivers of brown water,
rundown mansions, black slaves, equestrian wars-lazy and cruel: the
peculiar
world of The Unvanquished is
consanguineous with this America
and its history, and it is also criollo.
There are some books that touch
us physically like the nearness of the sea or the morning. This-for
me-is one
of them.
*
"Thầy của Gấu" thường được so sánh với Dos. Cũng được thôi, nhưng thế
giới Miền Nam của F. thì dung tục, xuồng xã, thành thử, đứng kế bên
những Colonel Sartoris, hay Temple Drake, thì anh chàng sinh viên bầy
đặt giết người Raskolnikov mới yếu ớt, tội nghiệp làm sao, chẳng khác
một trong những ông hoàng của Racine!
Dọn
Gặp
ông chủ
…giáo
sư tại Mỹ nổi
tiếng
nhưng khiêm nhường…
Dị
ứng với “trí thức” và
“Việt kiều”
“Trí
thức” nghe quá kênh kiệu. Người khác dùng
trung hoà hơn. Tôi cũng dị ứng với các từ “toàn cầu hoá” và “hiến kế”.
Nghe to
tát quá.
Trang
viet-xì-tốp-đi-thôi của
ông chủ, chuyên làm link, nghĩa là, giới thiệu những bài viết trên net.
Một thằng
thư ký nhà giây thép như Gấu cũng làm được, vậy mà “nổi tiếng, khiêm
nhường, trí
thức nghe quá kênh kiệu, dị ứng…”!
Bản
thân ông chủ chưa thấy có
một bài viết nào cho ra hồn [riêng về môn kinh tế, Gấu không phải là
dân khoa bảng
nên xin miễn có ý kiến].
Ít
ra cũng phải có tí liêm sỉ
chứ! Đâu có phải cái cô [hay bà?] nữ phóng viên khen thực sự đâu? Cô ta
đang cười
thầm
trong bụng, đám Vịt Kìu này sao dễ ‘thuốc’, dễ 'chuốc’ quá!
Về
nước, đọc tham luận, có
bao nhiêu điều cần nói, cần thẳng thắn yêu cầu nhà nước… Vậy mà nói
chuyện trí
thức ở bên Tầu. Không biết ngượng, mà còn tự sướng, tự mình chơi “ba
bốn
sao” vào
bài viết của một em thổi mình!
Thảm
thật!
Nguyễn Khải
Tôi
viết hồi ký chủ yếu là do
nhu cầu giải toả cho bản thân, thế thôi. Con người ta có một khoái thú
là được
décharger khỏi bản thân mình một « gánh nặng » nào đấy về trải nghiệm,
về tâm
tư v.v... Vì thế tôi viết hồi ký chủ yếu cho mình và một số người thân,
không
hề có ý định công bố bằng bất cứ phương tiện thông tin nào. Vả lại, tập
hồi ký
chưa hoàn chỉnh, còn đang trên quá trình chỉnh lý, sửa chữa (kể cả bài
về
Nguyễn Khải).
NDM
Giải toả cái kiểu này ư:
Nguyễn Khải cũng kể lại,
hôm
ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một cậu nói nhỏ với anh: “Ông Lành đang
nói sao
cậu lại cười?” Khải sợ quá, vội chối: “Không, răng tôi nó hô đấy chứ,
tôi có
dám cười đâu!”?
Tôi
đã chứng kiến Nguyễn Đình
Thi sợ ông - Tố Hữu - như thế nào, tôi ví như con cua co dúm người lại
trước
con ếch?
Thảo nào, D.
H. Lawrence khuyên:
"Đừng bao giờ tin tưởng nghệ sĩ. Hãy tin câu chuyện kể".
Chức
năng chính hiệu của một phê bình gia, đó là cứu vớt (save) câu chuyện,
ra khỏi
nghệ sĩ, kẻ tạo ra nó.
Bạn đã đọc Don Quixote chưa?
Đừng
tin nhà văn.
NQL phán: “Ngu gì lấy văn để
chỉ trích người khác”.
Nhưng, trong truyện, ông lôi
tên cúng cơm của bạn ra để chửi, không phải bạn ông, mà là nhà nước.
Gấu
có nhớ nhà không?
Khi rời Hà Nội, Gấu
muời bốn
mười lăm tuổi, cỡ đó, và, ký ức của Gấu về nó, là của một thằng bé nhà
quê Bắc Kỳ may mắn được ra Hà Nội học. Và khi nhớ lại, quãng đời tuyệt
vời như
thế, không có hình bóng một cô bé con, thì “nói không được, nói không
được”, và,
có thể vì vậy, khi nhìn thấy BHD lần đầu, một cô bé đen nhẻm, ốm tong
ốm teo,
nhưng cặp mắt thì cực kỳ thông minh, nụ cười phô ra chiếc răng khểnh…
Gấu
này bèn ơ ra ka một tiếng, Hà Nội của Gấu thiếu đúng hình bóng của cô
bé mười một
tuổi này!
Bởi
vì phải như vậy, mới hiểu
được, tại sao, khi BHD bỏ đi, em cay đắng phán:
"Mi
đâu có yêu thương gì ta, mi
yêu thương một con bé 11 tuổi, là ta, từ đời thuở nào, và Hà Nội của mi
ở trong
con bé đó."
Nếu
không, tại sao
cô Nga, một
nữ điện thoại viên trên Đài, sau khi đọc những dòng chữ trong lá thư
đầu tiên của
BHD gửi cho Gấu, “thứ tình yêu đầy đam mê mà anh có đó, em không có”,
bèn phán:
“Cái
cô bé này không có thương
cậu đâu!”
|
|