|
Chingiz
Aitmatov
A Kyrgyz writer, his
books
were translated into 150 languages
Mark
Yoffe
Tuesday
July 15, 2008
The
Guardian
The Kyrgyz writer Chingiz
Aitmatov, who has died aged 79, was the most celebrated representative
of Kyrgyzstan, a
landlocked, mountainous nation of
5 million people in the heart of central Asia,
which was a Soviet republic until 1991. A bilingual and bicultural
writer,
Aitmatov wrote his prose and plays in both his native Kyrgyz and in
Russian,
and was translated into more than 150 languages. Described as a
"magical
socialist-realist" in the Russian press, he was able to combine
elements
of Kyrgyz folk-tales and epics with formally traditional Russian
realism.
Chingiz
Aitmatov,
nhà văn Kyrgyz, mất,
thọ 79 tuổi, là người đại diện bảnh nhất của quốc gia thảo nguyên và
núi đồi, dân cư 5 triệu, ở ngay trái tim Trung Á, vốn là một xứ cộng
hòa Xô Viết cho tới năm 1991. Thành thạo môn song thủ hổ bác
[Song ngữ và song văn hóa], Aitmatov viết tản văn và kịch,
bằng cả hai thứ tiếng, bản địa và tiếng Nga, và được dịch qua hơn 150
ngôn ngữ. Được báo chí Liên Xô mô tả, như nhà văn của “chủ nghĩa xã hội
thần kỳ”, ông
là một cao thủ trong việc hoà nhập những yếu tố dân gian trong những
chuyện cổ, cùng chất sử thi của xứ sở quê hương của ông với chủ nghĩa
hiện thực truyền thống
của Nga.
Aitmatov's life was itself
full of paradoxes of epic proportions: the son of a victim of the
Stalinist
purges, he became the most decorated of all Soviet writers, gaining
three state
prizes and a Lenin prize. A beneficiary of the thaw, the cultural
liberalisation which took place under Nikita Khrushchev, he became a
world-famous author in the 1950s while still writing in Kyrgyz,
gradually
switching to Russian in the mid-1960s to became one of the most
eloquent
practitioners of the language. Aitmatov was deeply in love with his
native land
and lore, but he was also a Soviet patriot and a true internationalist.
Russian revelations
Guy
Dammann talks to Orlando
Figes, whose fifth book, The
Whisperers: Private Life under Stalin's Russia, is a
favourite for tomorrow's Samuel Johnson prize
Những kẻ nói thầm: Đời sống riêng tư dưới
thời Xì Ta Lin có thể ẵm giải thưởng
Samuel Johnson
Trại viết Suối Hoa
Blog
NQL trên Tin Văn
Lèo
nhèo NQL
*
Lâu
ngày không đến Nhà hát
kịch Hà Nội, hôm nay đến chẳng gặp ai, chỉ gặp mỗi Tiến Hợi.
Nó hỏi có vở mới không ông,
mình nói không. Nó nói từ ngày tôi đóng vai nhà thơ trong kịch Sám hối
của ông,
quay đi quay lại cả chục năm rồi. Bao nhiêu lần ông có vở mới tôi chẳng
có vai.
Mình nói đùa ông kinh doanh
vai Bác Hồ đủ no rồi, cần gì vai khác. Nó bảo hồi này có ma nào thuê
tôi đóng
đâu. Mớí sực nhớ sau bộ phim Hà Nội mùa Đông năm 1946 của Đặng Nhật
Minh, đúng
là không ai thuê Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ nữa thật.
Chẳng phải nó không còn giống
nữa, hay thủ vai kém, mà tự nhiên thế, cả kịch lẫn phim đều vắng bóng
nhân vật
Bác Hồ.
Ngày xưa thì nó nổi như cồn
nhờ vai Bác Hồ. Nó trông ngoài giống y chang Bác Hồ tại đại hội Tua,
hoá trang
thì Bác Hồ thời nào cũng giống. Nó còn học được giọng Bác, nhiều khi
nghe y
chang, khiến nhiều người xem rất cảm động.
*
Thằng
Tùng cứt nói mày làm Bác mà đéo biết còn hỏi tụi tao.
*
Làm Gấu nhớ đến Borges.
"Ai
cũng thừa nhận kỳ lân là một linh vật mang đến điềm lành, điều này đã
được nói rõ trong mọi cuốn thơ ca, biên niên, tiểu sử có minh họa, và
nhiều bản viết khác mà uy tín của chúng không cần bàn cãi. Ngay cả trẻ
con và đàn bà nhà quê cũng biết kỳ lân tạo điềm tốt. Nhưng con vật này
lại không hề hiện diện giữa đám thú vật nuôi quanh nhà, thật khó thấy,
nó không để vướng mình vào bảng phân loại. Nó không như con ngựa, con
bò, con chó sói, hay con nai. Trong những điều kiện như thế, chúng ta
có thể đối mặt với kỳ lân, và không biết một cách chắc chắn, con gì
đây. Chúng ta biết, con vật như thế đó có tên là con ngựa, con vật có
những cái sừng như vậy là con bò. Nhưng chúng ta không biết kỳ lân như
thế nào."
Một người đàn ông
có, hoặc anh ta tin tưởng có, một người bạn nổi tiếng. Chẳng bao giờ
anh ta gặp bạn, sự thể là, cho tới nay, người bạn chưa từng giúp đỡ anh
ta, tuy bao câu chuyện đã được kể, về những nét quý phái, phong nhã số
một của người bạn, bao thư từ thực sự của người bạn chạy lòng vòng đâu
đó. Rồi có người tỏ ra nghi ngờ về những điều này, và những chuyên viên
khảo tự tuyên bố, những lá thư là bịa đặt. Người đàn ông, trong dòng
thơ chót, hỏi: "Và phải chăng, người bạn này là... Bác ?"
Tiền Thân
Kafka
*
Bài
của NQL bảnh hơn của Borges nhiều!
Chất
"hiện thực xã hội chủ nghĩa", cộng chất "thần kỳ" của Borges, cộng
chất đểu cáng của Mít....
Thí
dụ:
Nhưng
thói quen gọi tên nhân vật, buột miệng vô thức rất buồn cười. Nhiều khi
quên, anh Tạo còn kêu lên ôi chà chà xem cái thằng Bác diễn ngu chưa
kìa.
Nói
xong thì giật mình, sợ bằng chết. Đến khi say nghề quên hết, lại buột
miệng kêu lên Bác Hồ ơi, mày diễn cái đéo gì đấy.
Chết
cười.
*
Tuyệt!
*
(1).
Sự không thừa nhận những
linh vật và cái chết có tính lăng nhục, hoặc như là tai nạn, của chúng
ở nơi
tay con người, là những đề tài truyền thống của văn chương Trung Hoa.
Xin coi
chương chót cuốn sách của Jung, Tâm lý học và Thuật luyện kim,
Psychologie und
Alchemie (Zurich,
1944), trong có hai minh họa ngồ ngộ.
Borges
trích dẫn.
Đọc
NQL viết về Bác, Gấu lại
nhớ ông bạn thi sĩ mới gặp lại ở nơi xứ người. Ông cho biết hiện nay,
“đề tài” Bác đi vào
văn học dân gian và không còn là một cấm kỵ. Sau
những "D.M. thằng BH", "Con ở [Ô sin] Miền Nam ra thăm Lăng Bác", “Ôi
chà chà coi cái thằng Bác diễn ngu chưa kìa”,
có vẻ như đây là cái “chết tự nhiên”của "kỳ lân" chăng?
Hồi ở nông trường
lao động cải
tạo Đỗ Hải, Nhà Bè, Gấu sống sót bằng cách kể chuyện tiếu lâm. Danh nổi
như cồn.
Hễ trại viên nào có thăm nuôi, là buổi tối hôm đó, Gấu được mời làm
khách danh dự.
Gấu
có nhớ nhà không?
Đài gương soi đến dấu bèo... mè nheo!
Ẩn
dụ thơ “Đài gương soi đến
dấu bèo” - không phải của Gấu, tất nhiên - lần đầu Gấu thật ‘cay đắng
dã man’ được
thưởng thức, là trong một lá thư tỏ tình, của một cô gái mà Gấu tưởng
là cô ‘thuơn’
Gấu, nhưng hóa ra ‘thươn’ đệ tử của Gấu!
Gấu đã nói sơ qua về vụ này
một lần rồi. Nay nhắc lại, một phần để đáp lại tí ‘tri tình’ của một
độc giả
Tin Văn, khi đọc câu chuyện tình mắc cỡ của Gấu, bèn ‘mail’, khen, ui
chao ẩn
dụ thơ mới đẹp làm sao, lần đầu tiên tui được nghe, và cuộc tình của
ông Gấu
mới tội làm sao!
*
Thời gian trường Bưu Điện
đang xây cất đó, Gấu làm việc bên này, nhìn qua, thấy trong đám thợ hồ
có một
em xinh thật là xinh. Thế là cứ rảnh việc một tí, là thò đầu ra cửa sổ
để ngắm
em. Rảnh hơn thì ra hẳn bên ngoài, ngó cho đã con mắt.
Thế rồi, một bữa, được em ngó
lại. Ôi chao, hạnh phúc nào bằng.
Cho đến một ngày đẹp trời, em
vẫy tay cho phép gặp.
Gặp, em thẹn thùng đưa cho
một lá thư mầu xanh, thẹn thùng nói, xin nhờ anh làm con chim xanh,
[mấy từ con
chim xanh này là của em, không phải của Gấu], đưa lá thư xanh này
cho cái anh
nho nhỏ đẹp trai, hay đứng kế anh, giùm em.
Trong thư, có câu, “đài gương
soi đến dấu bèo này chăng”?
Đài gương, là ông nhóc đệ tử
Gấu. Dấu bèo là thánh nữ của Gấu.
Ông già làm chung, ông Lân,
còn phạng thêm cho một câu, nó là thợ hồ, làm sao dám ngó lên tới đài
gương, là
ông cán sự Bưu Điện!
Gấu,
nhà văn
*
Nhưng thú vị nhất, là cái lần talawas bị tường lửa, và bà chủ quán lên
BBC than phiền, cái vụ Gấu này nhanh hẩu đoảng, ăn mừng chiến thắng:
Tôi đâu có muốn được điểm của hải ngoại!
Và Gấu lại phải lên tiếng thanh minh, hải ngoại đâu cần điểm, mà cần
một "nửa linh hồn" của nó, bị thất lạc, từ thuở Tây mủi lõ đánh chiếm
Nam Kỳ!
*
“Còn những
người, trong những ngày qua, có lời chúc mừng talawas đã đạt được cái
thành tích là trở thành món hàng cấm và vì thế có hương vị ngọt ngào
hơn, thậm chí cả những người cho rằng talawas cố tình bị tường lửa để
kiếm điểm tại nước ngoài, những người ấy sẽ thấy mình đã kết luận vô
lối và vội vàng như thế nào. Nếu phải thành một huyền thoại thì đó là
bất hạnh lớn cho chúng tôi”.
Phạm Thị Hoài, trả lời BBC, đăng lại trên talawas.
Trên tờ Gió
Đông ngày nào - mà đa số cộng tác viên là những cây viết ra đi từ miền
bắc - người chủ trương, Lê Trọng Phương, trong một bài viết, đã mượn
một ẩn dụ của Borges, khi nói về một bức bản đồ Việt Nam, tỉ lệ xích là
1/1, bị rách nát, mà những người Việt hải ngoại cố mang ra ngoài này để
khâu vá lại, cho nó được như xưa.
Một tấm bản đồ "văn học" như thế, chỉ có một nửa, nếu thiếu những người
như Lê Trọng Phương, những diễn đàn như talawas.
Trong tinh thần đó, Tin Văn viết, "... và như vậy văn học hải ngoại sẽ
không còn ở trong tình trạng chông chênh, thiếu tới một nửa 'cuộc đời,
linh hồn'... của nó."
Talawas bị
tường lửa
*
Bài post lên, NTV đọc, phôn khen: Hình ảnh một "nửa linh hồn", mày
dùng, đắt lắm !
Gấu, vừa mừng lại vừa lo, hỏi:
-Nhưng liệu bà chủ quán có biết, có 'đài gương soi đến dấu bèo'... ?
NTV:
-Làm sao không biết !
Chúc
mừng 5 năm talawas
*
Ivan Bunin's first encounter
with Anton Chekhov was unpromising. In 1891, when he was a callow
twenty-old,
he wrote to Chekhov, ten years his senior: "Beginning writers have the
habit of plaguing editors, poets, and writers . . . with requests to
read their
work .... I am one of these people". Chekhov responded, "I am a poor
critic who always makes mistakes, especially when it comes to beginning
writers". Bunin never sent the stories.
About Chekhov
Bunin, nhà văn Nobel Nga, kể, lần đầu gặp gỡ
nhà văn đàn anh Chekhov,
“không hứa
hẹn gì hết” [unpromising]. Đó là năm 1891, khi Bunin, 21 tuổi, một anh
chàng tập
tễnh viết văn, viết cho Chekhov, lớn hơn ông 10 tuổi:
“Những thằng tập tễnh viết thường
có thói quen xin được những đấng đàn anh chỉ giáo… tôi là một thằng cha
như vậy.”
Chekhov trả lời:
Tôi là một nhà phê bình dở,
nhất là khi phải đọc mấy tay tập tạnh.
Bunin bèn đếch thèm gửi những sáng tác đầu tay của mình.
Thú vị hơn nữa, sau hai người là bạn, sau Bunin được Nobel, sau Chekhov
mất, dặn cô em, phải Bunin mới là người xứng đáng viết tiểu sử của ta!
*
Ui chao Sến Cô Nương, quả là cao giá!
Ba thằng đem đơn tới xin bàn tay, hai thằng bị vứt vô thùng rác.
Thằng
thứ ba bị đem lên BBC, mét cả thế giới!
*
Mở ngoặc nói chuyện dịch thuật.
Ông anh dậy thằng em, cứ dịch
tưới, sai thì sửa.
Trong bài viết "Hãy Bước
Qua Lằn Ranh Này", Rushdie trích "Ghi chú về
dịch thuật" của Nabokov, qua đó, nhà văn Nga
này cho
rằng, có "ba bậc quỉ ma" [three grades of evil], trong thế giới lạ kỳ
dịch thuật.
Bậc thứ nhất, không đến nỗi tà ma cho lắm, là do thiếu hiểu biết, hiểu
sai. Cái
này tha thứ được, vì làm người là phải có lỗi lầm.
Bậc thứ nhì dẫn tới Địa Ngục, "The next step to Hell", là thiến vô
tư, thoải mái những chữ, những đoạn mà dịch giả không hiểu nghĩa, hay
cảm thấy,
chúng có vẻ mù mờ, tối tăm, hay thô bỉ, dơ dáy, tục tĩu đối với những
độc giả
mà người dịch mường tượng ra ở trong đầu.
Bậc thứ ba, tội ác tệ hại nhất trong dịch thuật, là dịch giả muốn "làm
tốt", sửa đổi, improve, nguyên tác, "đánh bóng, minh họa" nó,
sao cho tác phẩm đi đúng luồng, phục vụ yêu cầu của nhân dân [to
conform to the
notions and prejudices of a given public: phù hợp với quan niệm và định
kiến
của một tầng lớp công chúng nhất định.
*
Tuy nhiên, Gấu nhận ra, còn một
cái sai nữa. Sai do chữ tác đánh chữ tộ, và tác tộ như thế, là do liên
tưởng mà
ra.
Gấu bị vụ này rất nhiều lần.
Thí dụ câu sau đây, của Brodsky:
Lưu vong dậy cho chúng ta sự tủi nhục.
Mới đây, tình cờ đọc lại, ông
viết lưu vong dậy cho chúng ta sự khiêm tốn.
Hóa ra là, với Brodsky, là bài
học khiêm tốn.
Nhưng với Gấu là bài học tủi nhục.
Humility lầm thành humiliation!
Vừa nhìn từ humility, là đã nghĩ
ra bao nhiêu sự nhục nhã, khi ở trại cấm Thái Lan, ròng rã bốn năm trời
rồi!
Chưa kể những ngày nhục nhã bại
trận.
*
Có vẻ như những nhà văn ra đi
từ Miền Bắc chỉ cần bài học khiêm tốn.
Đâu có thất trận mà nhục nhã?
Nhà văn Vũ Thư Hiên, chẳng hạn,
khi được phỏng vấn, nghĩ gì về văn học hải ngoại, ông hất hàm hỏi lại,
có cái thứ
gọi là văn học hải ngoại ư?
*
Khi
tôi viết thư yêu cầu Phạm Thị Hoài cho biết lý do từ chối không đăng
bài của tôi thì nhà văn này cho biết bài của tôi “thiếu chất lượng và
thiếu những tiêu chuẩn tối thiểu.” Trước đây thì không. Diễn đàn
Talawas đã đăng nhiều bài viết của tôi.
NVL [DVC online]
Câu
này, tưởng đơn giản, nhưng do Gấu đọc không ra, và khi đọc ra, thì
biết, không phải của NVL, mà là của trưởng môn phái Nga Mi.
[Tiện
đây, xin lỗi, lần mới gặp, đã "nặng lời gọi đùa đại ma đầu". Đúng ra
là phải gọi là Diệt Tuyệt Sư Thái. NQT]
Câu của NVL, do có người gà, không nói chuyện bài vở.
Lần đầu đọc, Gấu ngạc nhiên, tự hỏi, tại sao NVL lại nói chuyện trước
đó, talawas vẫn đăng bài của ông?
Trước đó, những bài viết của ông OK, bây giờ không OK, là chuyện
thường. Tại sao lại viết như vậy?
Hoá ra không phải.
Gấu ngu quá, không đọc ra cái độc của Nghé Ọ!
Lèm
bèm về
dòng văn
học "Lạc Đường"
Điều quái dị nhất,
khi đọc mấy
ông VC nằm vùng cuối đời viết “hồi ký”, thí dụ như Lạc Đường, là lương
tâm của
mấy ông rất thanh thản. Một thằng Ngụy như Gấu, chưa hề bắn một phát
đạn nào [có
đi lính đâu mà bắn!], vậy mà cũng không có được sự bằng an, mà chỉ thấy
“chết
trong tâm hồn”:
Liệu cái con bọ, con ruồi đó, có phần đóng góp của ta chăng?
*
Lịch
sử có cách đi của nó.
Cho đến bây giờ, nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với
nước nhà,
nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp
một cách
oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá.
Nguồn
Từ
hồi Gia Long cõng rắn!
Ông này quá dốt về lịch sử Mít, được Đảng viết!
Hay là biết, nhưng sợ đến teo chim?
Nhân đọc bút ký
chính trị của Nguyễn Khải
Nỗi buồn Istanbul
Những mẩu đoạn trong một số
tranh của Melling làm tôi sững sờ. Họa sĩ nhìn và trình bầy những đồi
Istanbul,
từ đó bầy ra những đường, phố, nhà cửa, khu thị, phong cảnh ấu thời và
cuộc
hiện diện của tôi ở trên cõi đời này, khi đó, nó mới trinh nguyên làm
sao, như
thể chưa từng có người ở, chưa từng có một kiến trúc, một xây dựng, trừ
một toà
building đứng sừng sững ở trên đỉnh. Nhìn vào những góc cạnh của những
bức
tranh, với chiếc lúp ở nơi tay, những nơi chốn sau có tên như Yidiz,
Macka, hay
Tesvikye, khi chúng chưa có người mà chỉ có cây: những hàng dương, tiêu
huyền,
những vườn rau, tôi thử tưởng tượng, những người dân Istanbul cùng thời
với
Melling sẽ nghĩ ra sao, khi họ biết những thế hệ sau này đã làm gì với
thiên
đàng của họ, và tôi cảm thấy mình cũng đau đớn như họ, khi nhìn những
khu vườn
hoang tàn, những bức tường đổ nát, những mái vòm, những gì còn lại của
những
tòa biệt thự bị lửa thiêu huỷ. Khám phá ra, những nơi chốn mà chúng ta
có, từ
khi mới ra đời, được coi là trung tâm điểm thế giới của riêng chúng ta,
điểm
phát xuất của mọi tri thức; khám phá ra, một trăm năm trước khi tôi ra
đời,
những nơi chốn đó không hề hiện hữu, những khám phá như thế tạo kinh
ngạc, gây
sốc, không thể nào chịu nổi, chẳng khác gì một hồn ma nhìn lại cuộc đời
mà nó
bỏ lại phiá sau. Đó là cái rùng mình kinh ngạc khi đối mặt với thời
gian, và
ngộ ra điều người xưa gọi là tuồng ảo hoá đã bầy ra đấy.
Cũng sững sờ, bàng hoàng như
vậy, là cảm giác của tôi, khi đọc một số trang, trong cuốn “Du lịch
Đông phương”,
phần viết về Istanbul, của Gérard de Nerval.
Nhà thơ Pháp tới Istanbul vào
năm 1843, một nửa thế kỷ sau khi Melling vẽ những bức họa của ông, và
trong
cuốn sách của mình, ông nhớ lại cuộc tản bộ từ tu viện Mevlevi Dervish
Lodge ở
khu Galata, (năm chục năm sau đổi tên là Tunel), tới khu vực mà bây giờ
chúng
tôi gọi là Taksim – cũng cùng một cuộc tản bộ như vậy, một trăm mười
lăm năm
sau, tôi đã làm, khi đó chỉ là một đứa bé nắm tay mẹ. Với chúng tôi,
khu này
bây giờ được gọi là Beyoglu, vào năm 1843, Con Phố Lớn Péra (sau đổi là
Istilal, sau khi thành lập nền Cộng Hoà), ở ngay trung tâm của nó, xưa
thế nào
bây giờ vẫn như vậy. Nerval miêu tả đại lộ, từ tu viện Mevlevi trổ ra,
giống
như Paris: những tiệm quần áo thời trang, những tiệm giặt ủi, tiệm nữ
trang,
kim hoàn, những khung cửa kính bầy biện hàng hoá sáng choang, những cửa
hàng
bánh kẹo, những khách sạn Anh và Pháp, những quán cà phê, những tòa đại
sứ.
Nhưng, quá nơi chốn mà nhà thơ Pháp gọi là Bệnh Viện Pháp (bây giờ là
Trung Tâm
Văn Hoá Pháp), thành phố chấm dứt một cách thật là ngỡ ngàng, đáng sợ,
theo
tôi. Bởi vì nơi chốn hiện là Quảng trường Taskim, trung tâm cuộc đời
của tôi,
và là quảng trường lớn nhất ở khu này của thành phố, lòng vòng quanh nó
là nơi
tôi sống suốt cả cuộc đời của mình, thì được miêu tả như là một không
gian rộng
lớn, nơi tụ tập của những chiếc xe ngựa, những người bán thịt viên, bán
dưa
hấu, và bán cá. Ông còn nói tới, một nghĩa địa nằm đâu đó, ở trong cánh
đồng
chạy quá khu giang hồ tứ chiếng trên; một trăm năm sau, tất cả đều
không còn.
Nhưng có một câu văn của
Nerval mà tôi không bao giờ quên nổi, khi ông tả nơi mà trọn đời, tôi
chỉ biết
như một dải đất gồm những tòa buildings cũ, “một cánh đồng bát ngát rợp
bóng
thông, và sung.”
Nerval đến Istanbul
khi ông ba mươi lăm tuổi. Hai năm
trước đó, ông trải qua những sa sút tinh thần đầu tiên khiến ông treo
cổ tự tử
muời hai năm sau đó, sau khi trải qua một số nhà an dưỡng dành cho
những bệnh
nhân tâm thần. Sáu tháng trước đó, trước chuyến đi, nữ nghệ sĩ Jenny
Colon, mối
tình lớn một chiều của ông, mất. Cuộc “Du lịch Đông phương” đưa ông từ
Alexandria và Cairo tới Cyprus, Rhodes, Izmir và Istanbul, nó mang đậm
dấu ấn
của cuộc tình, và những nỗi buồn nó gây nên, cùng những giấc mơ hương
xa cỏ lạ
Đông phương mà những Chateaubriand, Lamartine, và Hugo đã nhanh chóng
đưa chúng
vào, và trở thành truyền thống lớn lao của văn chương nước này. Như
những nhà
văn trước ông, ông ao ước miêu tả Đông phương, và, kể từ khi Nerval
được đồng
nhất với nỗi buồn ở trong văn chương Tây, nỗi buồn đó, ông tìm thấy ở Istanbul.
|