|
Happy Birthday to U,
Richie
5.7.08
Minh Huy Tran đoạt giải thưởng Gironde
với cuốn Trương Chi & Mỵ Nương
Ngoài ra, còn đoạt giải thưởng Prix
Riviera
Và
có thể, vài giải khác nữa, trong có Goncourt dành cho cuốn đầu tay.
La Princesse et le pêcheur
"La princesse et le
pêcheur" est un conte vietnamien dont les deux héros de ce roman très
autobiographique sont une illustration moderne.
Lan
et Nam sont tous
deux originaires du Vietnam
mais
ont deux histoires très différentes.
Lan est née en France
de
parents vietnamiens. Si ses parents ont laissé derrière eux une
histoire
douloureuse en quittant leur pays natal, ils l'ont oubliée et en ont
peu parlé
à leur fille, car tous deux ont poursuivi un seul objectif : s'intégrer
et
réussir professionnellement.
Grâce à eux, Lan bénéficie
d'une existence douillette et confortable. Pourtant c'est une
adolescente
timide et solitaire, qui vit dans ses rêves et n'a que des livres pour
amis.
Jusqu'au jour où, sur un
ferry qui l'emmène en Angleterre, elle fait la connaissance de Nam.
Lui est arrivé depuis peu en France, c'est
un boat people. Mais de sa vie au Vietnam ou de sa famille
laissée
là-bas, il parlera peu.
Les deux adolescents n'ont
rien en commun sauf ce pays, le Vietnam. Ils vont pourtant devenir
amis, une
amitié bizarrement déséquilibrée puisque la jeune fille est amoureuse
et attend
un geste tendre, alors que lui se contente de la traiter en petite
soeur.
Grâce à cette rencontre, Lan
va s'interroger sur son identité et la place qu'occupe le Vietnam
dans sa
vie.
En écho au récit principal, le
livre fait une large place aux contes traditionnels vietnamiens.
Très soutenu par les
libraires, qui le classent parmi leurs 40 livres préférés (21ème selon
une
enquête de Livres Hebdo de septembre 2007), La Princesse et le Pêcheur
fait
partie des trois premiers romans les mieux vendus de la rentrée
(d'après une
enquête de Livres Hebdo d'octobre 2007).
Outre le Prix
Gironde-Nouvelles écritures, organisé par le Conseil Général de la
Gironde et
l’hebdomadaire régional Courrier Français, il a remporté le Prix
Riviera,
organisé par la FNAC de Nice, et figure dans les sélections du Goncourt
du
Premier roman, du Prix Emmanuel Roblès et de la Bourse de la Découverte
de la
Fondation Pierre de Monaco.
Nguồn
*
“Vivre d'autres réalités”
“Sống
những thực tại khác”
Minh Huy Tran trả lời phỏng vấn
Ngoài
Haruki Murakami, những
tác giả nào ảnh hưởng đến cô?
Murakami
chiếm một chỗ quan
trọng trong quyển sách này, vì với tôi, nói đến Murakami là nói đến
tuổi trẻ,
đến cái đà không cưỡng lại được của tuổi mới lớn, khi các cô các cậu đó
nghĩ
rằng, thế giới đang mở ra trước mặt họ, và mọi chuyện đều ở trong tầm
tay. Theo
tôi, quyển “Bài Ca của sự bất khả” và “Phía nam biên giới, phía tây mặt
trời”
là hai quyển sách tiêu biểu, hai ngọn hải đăng, của tuổi trẻ. Khi 20
tuổi, tôi
thích Fitzgerald qua khía cạnh lãng mạn của ông, nhưng có ai, ở vào cái
tuổi 20
đó, mà không mê Fitzgerald! (Cười). Sau đó, tôi không nghĩ mình có
những ảnh
hưởng nào nhất định, tôi đọc nhiều nhưng tôi không có một đam mê đặc
biệt với
một tác giả nào. Đúng hơn là những câu văn hay, những hình ảnh góp nhặt
đây đó
đánh động tôi và đi theo tôi. Chẳng hạn với quyển “Cô Công Chúa và
chàng chèo
thuyền”, lúc đó trong đầu tôi đang nghĩ về một quyển tiểu thuyết ngắn
“Sự im
lặng của biển cả” của Vercors, quyển này chẳng ăn nhập gì đến quyển tôi
đang
viết. Bởi vì nó dùng ẩn dụ: bề mặt đại dương rất yên tĩnh, rất trong
suốt nhưng
dưới đáy là cuộc chém giết của những thuỷ quái... Khi viết, tôi giữ
trong tôi,
viễn ảnh này, và tôi muốn viết với một giọng văn rất trong sạch, tránh
mọi khía
cạnh bệnh lý để nói lên, một cách tốt nhất, thảm kịch, những điều xé
lòng mà
một số nhân vật phải chịu đựng.
*
Tôi cho
rằng, chúng ta sống
trong một thế giới, cái thế giới “này” (“ce” monde), trong khi còn có
những thế
giới khác cận kề ngay bên cái thế giới “này” đó. Nếu bạn thực tình mong
muốn,
bạn có thể chui qua tường, nhập vào một vũ trụ khác. Một cách nào đó,
có thể
vượt cái thực, cõi thực này. Đó là điều tôi cố gắng làm, ở trong những
cuốn
sách của tôi. Đây là một quan niệm rất Đông phương, rất Á châu, theo
như tôi
hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc, người ta coi như có hai thế giới
song
song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép, không khó khăn là mấy, qua
lại giữa
hai bên. Ở Tây Phương, làm gì có một quan niệm như vậy, thế giới-này là
thế
giới-này, thế giới-kia là thế giới-kia. Sự cách biệt thật là quyết
liệt, thật
là khắt khe, tôi muốn nói giữa “này” với “kia” đó. Bức tường quá cao,
làm sao
vượt, làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á Châu, khác hẳn. Và “mono
no
aware” diễn tả, theo như tôi cảm nhận được, tình huống này. Trong Bài
ca của sự
bất khả, có sáu nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất và qua thế giới bên
kia - họ
tự tử. (1)
Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng
biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô thường, tạm bợ
mà
thôi. Đó là một hình thức của “mono no aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt
đầu
viết Bài ca của sự bất khả, tôi có ý tưởng theo đó, ba trong sáu nhân
vật sẽ
biến mất, nhưng không biết là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi chính mình,
ai
sống, ai chết.
Murakami trả lời Le Magazine
Littéraire
Minh Trần Huy phỏng vấn Murakami
*
(1)
Thanh Tâm Tuyền, chắc
chắn chẳng hề biết, và, chưa từng đọc Murakami, khi viết Một Chủ Nhật
Khác,
nhưng đã để nhân vật Kiệt của ông, đưa tiễn người tình, Hiền, tới "chỗ
đó", rồi lại trở về. Độc giả Một Chủ Nhật Khác, dù tò mò cách mấy, cũng
không hiểu được, và đều như Duy, bạn của Kiệt, đều muốn hỏi Kiệt, Hìền
đâu rồi.
*
Sau này Duy hiểu buổi tối ấy
đang hồi nguy kịch của đôi tình nhân. Họ quyết định chia tay vĩnh viễn.
Họ đã
không thể bình thường từ biệt nhau. Cũng không ai đủ can đảm rời bỏ
trước. Mọi
quyết định đều gian nan. Duy giúp họ lìa tách làm hai. Để họ một mình
với quyết
định đau đớn chưa rõ những ngày cuối của cuộc tình ấy như thế nào. Họ
có thể
liều lĩnh nhắm mắt lao tới như kẻ ngu ngốc, nhưng họ cũng có thể tháo
lui vội
vã như kẻ tội lỗi. Cả hai đường đều tồi tệ, phủ nhận những ngày họ đã
sống, phủ
nhận điều mà họ đã tin là tình yêu của họ qua bao năm tháng. Duy nghĩ
thế...
Em là
đàn bà, em hãy tưởng
tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không
bao
giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu
không
anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một
mình… Anh
chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh
hy vọng
em hiểu….
Một Chủ Nhật Khác
Blog NQL [trên Tin Văn]
Trang
NQL
Lèo
nhèo NQL
Trong
lời mở ra cuốn tiểu sử
Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng, ngồi uống vodka với một
tay mật
vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm vụ 'đánh
bóng'
hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki,
nhìn ra biển
đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở
ra cuộc
cách mạng Nga.
"Hình ảnh nào ư?",
ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.
Vài tuần trước đó, con tầu
phà Estonia
đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn người. "Crắc" một
cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù. Cả hai cùng đồng
ý, đó là
hình ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Nhưng hình ảnh khởi đầu?
Với Cách Mạng Nga, Gấu sẽ kể
ra sau, về hình ảnh mở đầu của nó.
Sự cứu rỗi cuối cùng
Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga
chính là cái chết của Rasputin, qua bình chọn của tay cựu mật vụ KGB.
Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng
Mùa Thu, của dân Mít, có lần Gấu đề nghị, là cái chết của Đỗ Đức Phin,
dưới tay
nhà thơ, nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao.
Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ
sau đó.
*
Đọc NQL, Gấu nhớ đến
Koestler, và “thương hiệu”, "cái giống phải đạo, political libido",
mà Patrick McGrath ban cho ông.Thay vì viết dưới sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
thì NQL
viết, dưới sự dẫn bảo của cái libido.
Như ông nói, một ngày mà
không nói tục thì nhạt miệng lắm!
Trên tờ TLS, số đề ngày 27
June, 2008, một độc giả trả lời bài viết về Koestler trên TLS, số June
6, đồng
ý với Patrick McGrath, K.quả đúng là một nhà văn không giả tưởng, số 1
của thế
kỷ 20, one of the finest non-fiction writers of the 20th century, tuy
nhiên,
ông chê, “political libido” làm méo mó hầu hết những cuốn tiểu thuyết
của K,
luôn cả đánh giá của Grath, “K bị mắc bẫy ở trong cái vai trò nhà văn
chống
Cộng”, [that K remains trapped in the limited role of the
anti-Communist
writer].
*
Biến đau thương thành hành
động!
Tuyệt!
Mỗi lần nghe mấy từ này, trong
thời kỳ chiến tranh, là Gấu sợ đến teo chim, chẳng làm sao hành động
được nữa!
*
Nhưng libido ở đây, với những
nhân vật của NQL, cộng với nỗi teo chim của Gấu ngày nào, lạ làm sao,
lại là
khí giới để chống lại quyền lực toàn trị!
Theo Mishra, những độc giả
của Kundera rất dễ nhận ra Ma Jian. Những nhân vật của ông, trong Bắc
Kinh Hôn
Thụy, (1) luôn sử dụng sexual love, như là một thuốc trị nọc độc Cộng
sản, an
antidote to totalitarian control.
(1) Hôn
Thuỵ, là chữ của Tô
Thuỳ Yên, dịch từ Coma, khi dịch Malraux. TTT
có lần dùng từ này, khi nhận được tin MT đi
thoát.
Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu
tiên nhận được thơ nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố nuôi của
Thái về
quê ngoại sống, không ở Sàigòn nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc
hôn thuỵ.
Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng
một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ
chắc không
còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời
thơ của
anh.
*
Nhưng, Kafka mới là người đầu
tiên sử dụng thứ antidote này, như Kundera chỉ cho chúng ta thấy. Giống
như
những chi tiết thơ, trong một cõi không thơ, cứ có dịp là nhân vật của
K lại vồ
ngay lấy, để chạy trốn thế giới toàn trị.
Tôi đứng trước ổ nhện như
đứng trước ngôi nhà của người tình thân thương, (Je passai devant le
bordel
comme devant la maison de la bien-aimée, nhật ký, 1910, đã bị Brod kiểm
duyệt.)
Nguyễn
Tôn Hiệt
Từ chủ nghĩa tư bản đến...
chủ nghĩa tư bản
Năm
1989, lúc khối cộng sản
Xô-viết và Đông Âu bắt đầu sụp đổ, có một câu nói “ngoài luồng” được
truyền
miệng khắp nơi. Có người cho rằng câu ấy xuất phát từ Mát-xcơ-va, kẻ
lại nói
câu ấy đến từ Hungary,
hay Ba-lan, v.v... Thậm chí, có người còn nói câu ấy là của Lech
Walesa. Việc
xác định xuất xứ của câu ấy có lẽ không quan trọng bằng nội dung của
nó.
Câu này
có vài dị bản, nhưng
nhìn chung có cùng một ý:
- Chủ
nghĩa cộng sản là con
đường dài nhất đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản.
- Chủ
nghĩa cộng sản là con
đường dài nhất và đau đớn nhất đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư
bản.
- Chủ
nghĩa xã hội là con
đường dài nhất đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư bản.
- Chủ
nghĩa xã hội là con
đường dài nhất và đau đớn nhất đi từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa tư
bản.
talawas
*
Câu trên, của Todorov, trong Kẻ Bán Xới. Gấu
đã trích dẫn trong bài viết về Todorov.
Ralkolnikov,
trong Tội ác và Trừng phạt
(Dostoevsky), chủ trương tội ác cần thiết,
nhưng khi giết bà già cầm đồ, anh nhận ra sự thực, "tôi đang xả những
nhát búa lên chính tôi..."
Bạn của Todorov đã từng than thở với ông, ông ta thấy mình như một nhân
vật giả tưởng, trong một truyện ngắn của Maupassant: Người đàn bà mức
thu nhập khiêm tốn, mượn bà bạn giầu chuỗi hạt để đi dự đám cưới, không
may để mất. Bà ta đã vay mượn một số tiền lớn, mua một chuỗi hạt tương
tự, và sau đó kéo cày trả nợ. Khi đã xác xơ, già cằn, gặp lại bạn cũ,
bà hãnh diện kể lại câu chuyện..." Tội nghiệp bạn quá, xâu chuỗi của
tôi hồi đó là đồ dởm".
Maupassant vẫn bị
chê là viết chuyện "cường điệu", biến đời sống thành phường tuồng. Cùng
với sự sụp đổ của chủ nghĩa CS, đây là lúc "thanh toán quá khứ". Khi mà
người ta còn thấy trước mặt, một sức mạnh không làm sao tránh né, khi
đó, sự đau khổ vẫn còn có ý nghĩa. Ngày mà chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi
thảm, khi tuyên bố, chủ nghĩa CS là con đường nhức nhối (tortueuse)
dẫn từ "chủ nghĩa tư bản" đến "chủ nghĩa tư bản", khi đó, những người
dân tại những nước cựu-toàn trị chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời
này (Todorov, p.69, sđd).
Kẻ Bán Xới
Vesko,
un ami bulgare, me dit
qu'il se sent aujourd'hui comme le personnage d'une nouvelle de
Maupassant, La
Parure. Une jeune femme aux revenus modestes emprunte à une riche
connaissance
une rivière de diamants pour la porter au bal; par malheur, le collier
est
volé. La femme met un point d'honneur à rendre le bijou: elle emprunte
une
somme énorme, et rachète un collier identique. Le reste de sa vie en
est
bouuleversé : elle la passe à rembourser la dette contractée. Des
années plus
tard, alors que sa vie est déjà sur le déclin, elle rencontre son
ancienne
bienfaitrice et lui rapporte fièrement l'incident. «Ma pauvre amie,
s'exclame
celle-ci, les diamants étaient faux, le collier ne valait rien. »
Au lendemain de
l'effondrement du totalitarisme, il faut régler ses propres comptes
avec le
passé. Tant qu'on pensait avoir en face de soi une force
incontournable, les
souffrances avaient un sens. Du jour où, selon un mot d'esprit plus
tragique
qu'il n'y paraît, on déclare que le communisme est une voie
tortueuse
conduisant du capitalisme au capitalisme, les habitants des pays
ex-totalitaires ne voient: plus le sens de cette vie.
Gấu
mua cuốn Kẻ Bán
Xới, Tháng Mười 1997, tại Vancouver,
sau đó, đi liền một bài trên báo Văn
Học của NMG.
Cuốn sách của Todorov, nhà xb du Seuil, Tháng Mười 1996.
Theo Gấu, xuất
xứ và thời điểm của câu nói khá quan trọng.
Ai là tác giả câu nói, cũng
quan trọng.
Kẻ
Bán Xới là kinh nghiệm của Todorov, bỏ chạy xứ Bulgarie, và phản tỉnh,
sám hối, hoài nhớ nụ hôn đầu như ông Đào Hiếu nói, cái hệ thống toàn
trị mà ông ta lớn lên từ đó, như là khuôn vàng thước ngọc, của cái ác
[... le régime totalitaire dans lequel j'avais grandi pouvait me
servir, en toute cirsonstance, d'étalon du mal].
Gấu không hề có cái kinh nghiệm lên rừng, theo VC như HPNT, hay tà tà
đi Honda, thẩy bom vào ổ gác của cảnh sát Ngụy, như Đào Hiếu, nhưng,
hậu quả của cuộc chiến khủng khiếp quá, cũng phải đi một đường băn
khoăn, phản tỉnh, sám hối về nó.
Vậy mà ông này lương tâm "sạch" như thế?
Lạ thật!
Liệu,
ông
có bao giờ cảm thấy như ông bạn của Todorov, sau khi nướng hết cả bầu
nhiệt huyết cho một cái "hàng có gân"... dởm?
*
Hậu quả cuộc chiến khủng khiếp quá. Ba triệu người chết không nói, con
số người chết sau khi cuộc chiến không nói, [vượt biển chết, cải tạo
chết... ], nhưng điều này cần hỏi, dù không thể có câu trả lời:
Liệu đây là một cuộc chiến... dởm?
Theo nghĩa, mấy anh Yankee mũi tẹt cố tình tạo ra nó?
ĐÊM NGHE TIẾNG
CHUỘT RÚC
Ba bài thơ mới
Trang Thơ Cao Thoại Châu 1 2
Mừng gặp
bạn cũ đầu năm
Mưa bay
trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến
mưa
Có người về khép song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá
vàng.
Tôi
hỏi: “Rau tần trong thơ
Trần Huyền Trân là rau gì vậy bác?”. “Là rau muống” – bà Trân nói. “Vậy
sao
trong tập Rau tần (1986) vẽ thứ rau mà thực ra là một thứ cỏ, quê cháu
vẫn gọi
là cỏ bợ?”. Bà cười: “Tôi chẳng biết, đấy là do cách hiểu của người vẽ
bìa, chứ
với ông Trân, rau tần chính là rau muống. Tôi cũng không hiểu sao ông
ấy gọi
rau muống là rau tần”.
Nguồn TTVH: Gặp lại cô Mai của "Nửa
chừng xuân"
Cô Mai này, là người đóng vai trong một vở kịch phỏng theo tiểu thuyết
Nửa Chừng Xuân. Bài này được quá, một kỷ niệm tuyệt đẹp về nhà thơ,
nhưng cũng phải đợi sau khi nhà nước công bằng với TLVD mới cho ra lò
được, chắc thế?
The Real Kafka
F. Kafka,
Everyman
Kafka's
Jewishness was a kind of dream, whose authentic moment was located
always in the nostalgic past.
Chất Do Thái của K. giống như mộng, như mơ, khoảnh khắc chân thực của
nó luôn ngự trong quá khứ hoài nhớ.
*
Ui chao, sao giống cái chất Bắc Kít của Gấu thế!
Graduation
Tứ Tấu Khúc
Tiananmen's wake
Tiểu
thuyết của Koestler cho thời của chúng ta
Gấu
có nhớ nhà không?
Trần
Thanh Hà
Tưởng niệm
Xuân
Sách
Chân Dung Nhà
Văn
Tâm sự của Xuân Sách
Lời bàn Gấu nhà văn
Lèm
bèm về
dòng văn
học "Lạc Đường"
Trường
hợp đồng chí Đào Hiếu
Đúng là trường hợp
đồng chí Đào Hiếu thực!
Vì những chương sách đều như tiên tri ra một ông Lạc Đường!
The Sword Is Blind: Gươm mù, cũng như những trái bom Đào
Hiếu thẩy vô đồn cảnh sát Ngụy:
Chúng cũng mù!
To Build is to Perish: Xây Dựng là Tiêu Táng Thòng!
Là biến thành Ruồi!
Journey into Defeat: Hành trình vào Thất bại.
Let Purity be Treason. Hãy để cho Trong sạch là Phản quốc.
*
Tình cờ vớ được nó, trong một tiệm sách cũ.
Cứ như buồn ngủ gặp chiếu manh! NQT
*
Tôi
chỉ là một con gà nuốt
dây thun. Suy cho cùng thì trí thức Việt Nam không thiếu những con
gà nuốt
(hoặc bị bắt nuốt) dây thun. Các anh ở miền Bắc thì cọng thun của các
anh là
chủ nghĩa Marx–Lenin, chúng tôi ở miền Nam, cọng thun của chúng
tôi là
“giải phóng dân tộc”. Tôi biết có một số ít người Việt ở hải ngoại, cho
đến
giờ, lòng vẫn còn trĩu nặng hận thù, và đó chính là “cọng thun” mà họ
đã nuốt
phải.
Đào
Hiếu [talawas]
*
Không
biết ông ĐH có ý "viser' Gấu này không, vì "hình như" hải ngoại chỉ có
Gấu lèo nhèo về cuốn sách của ông!
Nhưng cái nhận định của ông, nếu thế, về Gấu, 'nặng chĩu thù hận' và
coi đó là do sợi thung Gấu nuốt, thì sai.
Giải thích cuộc chiến, Nam Bắc... như trên sao giản dị quá thể.
Cũng như 'nặng chĩu thù hận'.
Cứ nói khác ông Đào Hiếu, và những VC nằm vùng như ông, và đám Yankee
mũi tẹt, nhà nước VC, là 'nặng chĩu thù hận'?
Nhân đọc bút ký
chính trị của Nguyễn Khải
Nếu đúng như
Nguyên
Ngọc nhận
xét, Nguyễn Khải là tay bảnh nhất trong đám, thì thảm quá. Ông này chưa
hề bao
giờ nói ra được một lời về cái ác tuyệt đối của VC: Lò Cải Tạo.
Bút ký chính trị,
được viết
năm 2006, tức là lúc chót đời, vẫn chỉ là một cú tự sướng, trước khi đi!
*
Tôi là một đứa trẻ
khi bước
vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đã biết níu chặt lấy thời
thế mà leo
dần lên. Tôi nói thế chả phải vì cái thói cơ hội, thời này có mấy ai
thích nói
mình thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm
hẳn vào
lòng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người thì sao?
Nguồn
Câu
văn này, thoạt đầu Gấu
không hiểu nổi, tại sao vào lúc chót đời, viết di chúc chính trị, văn
chương mà
còn vặc các bạn văn cay đắng như thế, nhưng sau nhận ra, vẫn là cuộc
chiến giữa
Cha và Con, Con và Con Ghẻ, suốt đời làm khổ Nguyễn Khải.
Với Bố ruột, vì dòng con thứ,
nên bị rẻ rúng, nay chọn Đảng thay Bố, cũng chẳng khá hơn!
*
Nói về Khải nhát, Trên net, có bài về ông, của một anh bạn thuở thiếu
thời ở Hà Nội, có đưa ra nhận xét về ông, và gia đình, hình như ở phố
Chợ Hôm. Tuy nhiên, nhút nhát, hơi chút thì kiếm một góc để ngồi khóc,
ai bằng me-xừ Shararov, như Rushdie nhận xét, khi đọc cuốn tiểu sử của
ông. Nhưng khi cần, ông vứt mẹ ba thứ hèn nhát, yếu đuối, và dõng dạc
noí không với chế độ toàn trị, một mình một ngựa làm kẻ chống đối chế
độ.
Thành thử, khó nói lắm.
*
Tôi được dậy dỗ từ
những trường Xô viết; ở đó, những nghiên cứu xã hội và giáo trình lịch
sử Đảng Cộng Sản Xô Viết, là bắt buộc. Sau đó, tại trường y, tôi nghiên
cứu triết học (lẽ dĩ nhiên, chủ nghĩa Mácxít-Lêninít), và kinh tế chính
trị. Tôi chẳng tự hỏi chính mình, rằng có tí sự thực nào ở trong đó
không. Khi qua được kỳ thi, nếu thiếu nó, tôi chẳng thể nào có bằng và
trở thành bác sĩ, tôi quên tất cả những gì đã học.
Phải mất nhiều năm tôi mới hiểu, do không chịu nghiên cứu những môn học
vượt quá mức yêu cầu, tôi đã bỏ qua một phần quan trọng, và có lẽ, phần
cơ bản, về nhân văn, và trở thành một con người không có một cái nhìn
hiểu biết [mang tính tri thức], về thế giới.
Tôi đang nói về chính mình, bởi vì làm gì có một trường hợp ngoại lệ
cho tôi ở đây. Hầu hết những người thuộc thế hệ cha mẹ của tôi, và của
tôi, đã có chung một kinh nghiệm tương tự. Chúng tôi sống và trưởng
thành trong một bầu không khí của một sự sợ hãi toàn diện, vậy mà
thường xuyên không nhận ra. Lớp học tôi có 23 đứa, 11 đứa có cha mẹ bị
bắt. "Khủng bố là yếu tính thực sự của cái kiểu chính quyền này",
Hannah Arendt viết như vậy, trong "Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn
trị".
Cái chết của Stalin và sự sụp đổ của chủ nghĩa toàn trị chẳng làm cho
nỗi sợ này biến mất. Nó như trở thành một phần trong cấu tạo cơ thể của
chúng tôi và cứ thế truyền từ đời này qua đời khác. Đó là lý do tại sao
không hề có một phong trào sinh viên học sinh nào ở Liên bang Xô viết.
Nói chung, xã hội chúng tôi là một xã hội không có những niềm tin tưởng
thực sự, cốt lõi. Tôi không
nói tới một ý thức hệ quốc gia – bây giờ chúng tôi không có, và chúng
tôi chẳng cần có! – nhưng mà là sự thiếu vắng một nguyên tắc đạo đức,
sự thiếu vắng khả năng phân biệt sự thực so với những điều dối trá, cái
tốt so với cái xấu.
Và chỉ có một ít người, như Sharakov, có thể phát triển một hình ảnh
mang tính nhân bản, gói trọn cả vũ trụ con người ở trong đó, về một thế
giới vứt bỏ hoàn toàn những lời dối trá.
Tàn
Dư Của Chủ Nghĩa Toàn Trị
Chính là sự thiếu vắng một nguyên tắc đạo đức, đã biến đám VC thành bọ,
thành ruồi!
Người Hùng: Hồ sơ KGB của Andrei
Sharakov.
Cái vụ việc
'biên tập' và
cho xuất bản nhật ký Trâm Thạc của đàn em Việt Nam, đàn anh Liên Xô
cũng có làm, nhưng ở một tầm mức cao hơn nhiều. Anne Applebaum [thuộc
ban chủ biên của tờ Washington
Post, tác phẩm của
bà, Gulag: Một lịch sử,
đã đoạt giải 2004 Pulitzer, non-fiction], khi điểm cuốn Hồ sơ KGB của Andrei Sharakov,
[nhà xb Yale University Press] trên tờ Điểm Sách Nữu Ước số đề ngày 20
Tháng Mười, 2005, cho rằng, kể từ khi trở thành tổng thống,
Putin đã cố gắng 'biên tập' hồi ức của nhân dân Nga, về thời kỳ Xô
Viết, làm sao cho hướng thượng [positive], hoài nhớ [nostalgic], hơn,
so với người trước ông. Mục đích của ông, theo Applebaum, là làm sao
cho những người Nga lại hãnh diện về họ, lại tìm ra những vị anh hùng
của họ, để mà thờ phuợng, để mà 'vơ vào' [chữ của Vương viên ngoại].
Tuy nhiên, một việc làm như thế, tỏ ra rất là nguy hiểm....
Bếp Lửa
trong văn chương.
1 2 3 4
Chuyện
dài
anh Sáu Dân
|