|
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ,
Graham Greene
viết:
"Có vài nhà
văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống ai, nhưng đều
có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng tuổi thơ.
Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường hợp
Dickens, còn với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà
bà cô Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều
chẳng bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của họ, đều
như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh đó.
Thường thì
cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng ta đã có tí
ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào những năm
tháng còn thơ dại như trên."
Giả như phải
tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn
những cay đắng ngày nào, thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra
cũng đặng.
Hai cái tuổi
thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào nhau, đâu
lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn
thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm
ra được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả
một lô những ông bạn quí hoá."
*
Hai
ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất thình lình, đúng vào lúc
chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao, là cách họ phản ứng,
sau khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy. Kipling, sự độc
ác. Dickens phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên,
easy and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu
biết của nó. Kipling chế tạo ra cỗ máy đi du lịch, dã ngoại, rất ư là
hợp thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu
Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm nên vợ nhà văn nhớn.
La
pauvreté, les privations et la misère sont l'école du bon
soldat. Napoléon Bonaparte
Extrait d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Gấu
Mừng
gặp bạn cũ đầu năm
CHUYỆN
VUI HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
HPNT
&NTT, quán cóc Huế, 1986
NGUYỄN
TRỌNG TẠO: Người nhiều giai thoại cũng có nghĩa là người nổi tiếng.
Không nổi tiếng thì ai chú ý mà thành giai thoại. Cho nên, khi người ta
thêu dệt những giai thoại về mình dù xấu hay tốt, hay hay dở thì cũng
là chuyện đáng vui. Hồi tôi phụ trách chuyên mục “Hộp thư Văn Nghệ” của
báo Tiền Phong, mỗi tuần một Hộp, mà 2 năm cũng được hơn trăm Hộp. Biết
thì thưa thốt, không biết thì hỏi, thì tìm tư liệu để trả lời bạn đọc.
Với phương châm ấy, hóa ra nhiều chuyện vui đáo để. Bây giờ xem lại kể
cũng khá thú vị. Xin mời bạn xem mấy Hộp về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
Tôi sợ sự tình không đơn
giản như vậy, ấy là nói về những giai thoại liên quan tới những con
người nổi tiếng, nhất là HPNT.
*
Anna Akhmatova
Khi một người chết,
Những bức chân dung của người đó thay đổi
Mắt của người đó nhìn khác đi
Cười khác đi
Tôi nhận ra điều này
Khi đi đám một nhà thơ trở về
Và từ đó.
Tôi kiểm tra cái tầm thấu thị của tôi nhiều lần.
Volkov khi viết về
Brodsky, đã nhớ lại bài thơ của Anna Akhmatova, mà, thoạt đầu, ông
không hiểu, cho tới khi Brodsky mất đi, thì ông mới ngộ ra.
Ấy là vì, theo ông, những bức chân dung nhà thơ không thay đổi, sau khi
mất đi: Mọi giai thoại về ông - đều là những điều đúng, đẹp, tốt, và
đều
đáng vui cả - chúng nhập vào chân dung của nhà thơ, trở thành một với
nhà thơ.
Trường hợp HPNT, ông chưa mất, mà những giai thoại về ông đã làm nhòe
hình ảnh người hùng Mậu Thân rồi. Thí dụ, hình ảnh hai ông tiên ngồi
uống rượu rắn nơi quán cóc kia mà chẳng làm cho hình ảnh một ông Tường,
ở ngoài đời
cũng như ở trong tiểu thuyết, trở thành... hề?
Gấu còn đọc được, hình như trên Hợp Lưu thì phải, khi ông ngã bịnh, một
nữ độc giả, học trò, người yêu cũ.... ở hải ngoại gửi thuốc men, tiền
bạc giúp ông, kèm câu hỏi vấn an: Vưỡn vác thánh giá, hỉ?
Nhè thầy tu hỏi lược, nhè một tay vô thần hỏi thăm vác thánh giá cực
hay vui thì... vui thật!
*
Và từ đó, Gấu kiểm tra cái nhìn của Gấu nhiều lần, về những bức
chân dung ngày nào của các đấng bạn quí của Gấu, sau khi Gấu từ trại tù
VC trở về!
Ực đi
và ói hết ra những lời trắc ẩn
Nghiệp chướng trùng trùng
Xứ sở sặc mùi gió rắn
Mẹ ơi con lạy Mẹ đừng buồn
Hãy ráo hoảnh mắt nhìn phường tuồng giả trá
Chúng nó chẳng yêu Mẹ đâu!!!
Chúng nó xướng danh chủ nghĩa
Chúng nó xướng danh chân lý
Chỉ mình con điên bí tỉ
Mần thơ xướng quỷ rú ma
Mẹ ơi con lạy Mẹ đừng buồn
Hãy đưa võng gọi mưa nguồn chớp biển
Độc ẩm cuối năm
Nhân đang lèm bèm về HPNT, một độc giả gửi
cho một bài viết của ông vác thánh giá, viết về một ông vác hai cây
đàn, kèm ghi chú, không làm sao đọc được nửa bài viết, vì cứ nghĩ đến
vụ Mậu Thân Huế.
Gấu đọc, và thực sự mà nói, không thể tưởng tượng được, sự sa sút của
HPNT, nhất là ở cái đoạn kết bài viết, ông để ông nhạc sĩ vác hai cây
đàn nói về bà mẹ Gio Linh:
-Mẹ đẹp như một vị Thánh.
*
Tôi tin rằng, ông ghi lại đúng như sự thực, như đã xẩy ra, lúc đó.
Thế mới đau. Thế mới sa sút.
Một tay viết nhà nghề, sẽ "hy sinh" sự thực!
Tôi lấy một thí dụ, do Vũ Thư Hiên kể, để minh chứng, có những khi,
nghệ sĩ phải biết tôn trọng người đọc, và thiến mẹ sự thực.
Ông họ Vũ tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, kể, có lần phải vác camera đi bên
Bác Hồ, trong một chuyến đi thăm nhân dân.
Bác Hồ lúc đó mới tậu được một đôi dép mới. Khi đi qua một vũng nước
bùn, Bác bèn cởi dép, ôm khư khư vào ngực, vén quần bước qua chỗ lội.
Thế là họ Vũ bèn ngưng quay. Bác quay qua tính chửi, nhưng, vì thông
minh thiên tài, nên hiểu liền, và gật gù cám ơn họ Vũ.
*
Nhưng, suy đi nghĩ lại, mạt cưa mướp đắng gặp nhau, khác chăng? (1)
Một độc giả Tin Văn mail cho biết, đây chỉ là sự khác biệt giữa hai ấn
bản, version, "cut", và "uncut" [để nguyên, không thiến]
*
Vậy mà đã có thời, Gấu nghĩ HPNT đã sống sót cuộc chiến, theo nghĩa,
tiếp tục viết, và viết những bài ra hồn, thí dụ bài Vườn thú tuổi thơ!
Phạm
Duy qua Hoàng Phủ Ngọc Tường
PV: Với nhà văn
Nguyễn
Đình Thi anh là một người con, một người bạn, một đồng nghiệp, có khi
lại là nhà phê bình, vậy theo anh trong sự nghiệp của Nguyễn Đình Thi
cái gì thành công nhất?
Nguyễn Đình Chính: Cái này có nhiều người cũng đánh
giá. Theo tôi đó là
Thơ của anh còn nhiều điều mà chúng ta chưa khám phá ra hết. Thơ của
Nguyễn Đình Thi có sự nhuần nhuyễn của triết học phương Đông và phương
Tây. Nguyễn Đình Thi có học vấn cao. Điều đó thể hiện trong sáng tác
thơ của Nguyễn Đình Thi (nhất là những bài thơ sau này vừa phương Đông
vừa phương Tây). Tôi cho rằng nên nghiên cứu sâu về cái đó, khả năng
các nhà phê bình của mình chưa khám phá được cái đó. Đó là thành tựu.
Còn hai bản nhạc chỉ là vui. Lý luận phê bình thì cũ, nó cũng là lí
luận của phương Tây từ thế kỉ 19.
Con người có định mệnh (đã được lập trình sẵn). Anh có
sống kiếp sau
anh sẽ vẫn mắc phải sai lầm như thế, chứ anh đừng tưởng rút kinh
nghiệm. Không bao giờ có việc rút kinh nghiệm trong cuộc sống, cái bản
chất anh như vậy, bố mẹ anh đẻ ra dòng máu nó di truyền như vậy. Nếu
lặp lại một kiếp khác thì như anh nói thì tất cả nó vẫn diễn ra đúng
như thế. Người ta đều rất tự nguyện làm theo ý người ta như thế. Vừa
rồi có dư luận, Nguyễn Khải nói Nguyễn Đình Thi nếu không làm quan có
lẽ sẽ viết hay hơn, nhiều hơn. Tôi nói ông Khải nhầm. Mỗi người có một
cái tạng. Thực ra cái đáng tiếc nhất của Nguyễn Đình Thi là anh đã mất
quá nhiều thời gian vào viết tiểu thuyết. Con người của Nguyễn Đình Thi
không phải là con nguời của tiểu thuyết. Văn xuôi Nguyễn Đình Thi đi
đến “Vỡ bờ” là cố gắng hết sức rồi
Nguồn
Gấu đã từng giơ cả hai tay lên trời than, ông con
không hiểu ông bố.
Đó là lần, ông nhận định về khả năng triết của bố,
chê, cũng đại khái
như trên, chưa đưa ra một
tư tưởng mới mẻ nào. Trong khi ông bố, với riêng Gấu, đúng là một bậc
thầy về Mác Xít, với cuốn Triết Học Nhập Môn: Chẳng thua gì cuốn hách
xì xằng nhất
một trong những lý thuyết gia tổ sư của chủ nghĩa Marx, Henri Lefèbvre:
Duy vật biện chứng
Không có Nguyễn Đình
Thi là Gấu không làm sao bước qua
được cánh cửa Triết
học, mà chẳng cần phải làm một nhà khoa bảng!
Nghĩa là đếch cần cái mảnh bằng Cử Nhân Triết của Đại
học Văn Khoa Xề
Goòng, vẫn đọc triết như điên, khiến mấy anh khoa bảng phát điên lên!
*
Nguyễn Đình
Thi, qua
ông con của ông, có một sự khiêm nhường quá mức: Bởi vì, chỉ với cuốn Triết Học Nhập Môn của ông thôi,
cũng đủ để coi ông, là một “triết gia” Mác xít theo nghĩa, một người quá thấu đáo
duy vật biện chứng pháp, và duy vật lịch sử, và đã diễn giải nó, bằng một
tinh thần Đông Phương, qua ý niệm tĩnh động, một thứ ‘dịch cân kinh”, [đọc ‘trại’, đọc lệch, từ
ngữ Kinh Dịch], của riêng NĐT, nhằm
giải thích tiến trình lịch sử của con người. Chính từ ý niệm này, ông
là một người Mác xít, tin tưởng
vào chủ nghĩa đó, và tin tưởng chủ nghĩa Mác xít sẽ làm được điều phi thường: xóa sạch vong thân, “làm ra”
[create], con người hoàn toàn, l’homme total, theo quan niệm của Marx Trong mớ sách Miiền Nam bị
phần thư, và đang được thu vén tro than, và giải mã, bắt buộc phải có cuốn Triết Học Nhập Môn của ông.
Cuốn này, đối với riêng Gấu tui, nó còn có
giá trị của một thứ thuốc giảm đau, do hai trái mìn claymore của mấy ông biệt động thành ban
cho, trong vụ nổ Mỹ Cảnh. Gấu đã kể ra vụ này, lai rai vài lần rồi, trong những bài tạp ghi. Nếu
Henri Lefèbvre
được coi là một ông tổ sư của môn
phái Mác Xít, thì NĐT thật xứng đáng được coi là một Mác Học, như
Lefèbvre, có phần
thực tập kèm theo, không chỉ lý thuyết xuông.
Gấu, trong những ngày nằm
bệnh viện Grall, sau vụ nổ, đã say sưa đọc,
cùng lúc, ba tác giả, Kim Dung, Henri Lefèbvre, và Nguyễn Đình Thi, để cho quên cái đau,
và để chờ tới giờ BHĐ đến thăm, và, khi em xuất hiện, là quẳng cả ba
ông, giả đò nhăn nhó, đi bên em giữa những luống hoa trong khuôn viên
nhà thương.
Cái ông bác sĩ Daney, người
sau đó thực hiện ca mổ, đã hơi sững người,
khi nhìn thấy cuốn của Henri Lefèbvre.
Ông cầm lên, đọc vài hàng rồi bỏ xuống, ngó thằng Gấu, tò mò thì nhiều,
và tự hỏi, tại sao.
Tại sao đọc nó? Vào
lúc này? Chắc vậy.
Nhật Ký Tin Văn
Tưởng niệm Nguyễn Đình Thi
Cái vụ ông con khen thơ
của ông bố, sợ thuổng Gấu trong bài tưởng niệm
NĐT, chăng?
Hơn nữa, những đề xuất
về thơ của ông bố, của ông con, hay những kỳ
vọng của ông về thơ của NĐT, đã được Thanh Tâm Tuyền "kế thừa"
rồi.
Nhận định về thơ NĐT,
của ông con [có sự nhuần
nhuyễn... ] đúng ra là nên áp dụng cho triết của NĐT, như Gấu đã hiểu
được, và viết về cuốn Triết học nhập môn của NĐT, cuốn sách vỡ lòng
của sinh viên ban Triết Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Thơ của NĐT đã mở ra
dòng thơ tự do mà sau này, khi vô Nam, TTT đã làm
rạng rỡ nó.
Ở đây, còn một vấn nạn:
Liệu, TTT vô
Nam, một phần, là do ấp ủ hoài vọng, khai phái dòng thơ tự do, một khi
ông biết rõ, "thổ ngơi" Miền
Bắc không chịu nổi thứ thơ này?
Chứng cớ: NĐT đã bị
đánh tơi bời, và đành
phải từ bỏ thơ của mình?
Ngoài
thơ, còn văn: Bếp
Lửa. Liệu ông ở lại đất Bắc, vẫn có Bếp Lửa?
|