Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy
trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu
trang Tin Văn.
Email
Nhìn
lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
Chân Dung Nga
Enrique
Vila-Matas
Luận
về tiểu thuyết
|
Sách Quí
Bac Gau oi, dung lien luy
nhieu voi cay viet khac. Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you and are more important.
I don't have Vietnamese unicode so it's difficult to write long.
Please keep email
personal, not for TV.
Soon,
H/A
I'm
So Sorry
NQT
Điều phải nói
"Why
only now, grown old,/And with what ink remains, do I say:/Israel's
atomic power
endangers/an already fragile world peace?" he writes, before answering
his
own question: "Because what must be said/may be too late tomorrow."
Gunter Grass
Tại làm sao
bi giờ, già quá rùi, còn tí mực còn lại, tui lại để cho tay tui dính
mùi "giang
hồ gió tanh mưa máu"?
Bởi là vì cái
phải nói thì phải nói, trước khi quá muộn, vào ngày mai.
Nghe như giọng
GCC, đếch phải Gunter Grass!
Hà, hà!
Gunter Grass
vừa đi một bài thơ, “Điều phải nói”, tố cáo Israel âm mưu làm cỏ, [wipe
out, annihilation]
Iran, gây hiểm họa cho hòa bình thế giới.
“Tớ quá già rồi, và bằng
những giọt mực chót, cảnh cáo nước Đức của tớ, coi chừng
lại dính vô tội ác [“supplier to a crime”]." (1)
Bộ Trưởng
ngoại giao Israel, đọc bài thơ, phán, thơ vãi linh hồn [“pathetic”], và
cái việc
ông ta, Grass, chuyển từ giả tưởng qua khoa học viễn tưởng, coi bộ ngửi
không được, poor
taste.
(1)
Günter Grass
pointe tout particulièrement le silence de l'Allemagne, "culpabilisée
par
son passé nazi", qui refuserait de voir le danger constitué par
l'arsenal
nucléaire israélien. Un arsenal "maintenu secret -, et sans contrôle,
puisque aucune vérification n'est permise" et qui "menace la paix
mondiale déjà si fragile", insiste l'écrivain. Il en profite pour
rappeler
que l'Allemagne s'apprête à livrer un sixième sous-marin à Israël.
Berlin et
Tel Aviv ont en effet conclu un contrat en 2005 sur la vente de
sous-marins
Dolphin, qui peuvent être équipées d'armes nucléaires. Enfin, Günter
Grass
réclame la création d'une agence" internationale pour contrôler les
armes
atomiques israéliennes, tout comme l'AIEA le fait pour les activités
nucléaires
iraniennes
Grass đặc biệt
nhấn mạnh tới sự im lặng của nước Đức, “do tội lỗi bởi quá khứ Nazi”,
thành ra
vờ, làm ra vẻ không nhìn thấy hiểm họa của võ khí nguyên tử của Israel.
Một võ
khí nguyên tử “được giữ bí mật, không kiểm cha, kiểm mẹ, vì đếch ai
được phép”…
Thơ Mỗi Ngày
Bước Ngoặt
Thế Kỷ
Đúng ra
nó
phải bảnh hơn phần còn lại, thế kỷ 20 của chúng ta
Nhưng nó chẳng
có thời giờ để chứng tỏ điều đó
Những năm của
nó thì được đếm trên nửa đầu ngón tay
bước đi của
nó, chệnh choạng
hơi thở của
nó, ngắn ngủn.
Có nhiều
chuyện, đúng ra không được xẩy ra,
xẩy ra.
Điều đúng ra
sẽ tới, đếch tới
hoặc, chưa tới
Mùa xuân đúng
ra là đã phải ở trên đường đi của nó
Và hạnh phúc
nữa chứ, trong số những cái khác.
Sợ hãi đúng
ra là phải rời bỏ rừng núi, thung lũng
Sự thực đúng
ra là phải hoàn tất, trước khi dối trá bò tới
Một số bất hạnh,
không may, vận rủi….
đúng ra là phải không được lại xẩy ra
Thí dụ như
chiến tranh, và đói khát, và thế thế.
Cái sự không thể phòng vệ
của những kẻ không phòng vệ
Đúng ra phải được tôn trọng
Cũng thế, sự tin cậy và cái giống như sự tin cậy
Bất cứ kẻ nào
muốn vui chơi với thế giới này
thì đều đối
diện với một nhiệm vụ bất khả
Ngu đần thì
không “funny”,
Khôn ngoan thì
không “cheerful”.
Hy vọng thì
không còn là cũng cô gái trẻ
vân vân và vân
vân. Than ôi.
Chúa sau cùng
tin ở con người:
Tốt và mạnh.
Nhưng tốt và
mạnh thì vẫn là hai con người khác nhau.
Làm sao sống
- một kẻ nào đó hỏi tôi trong 1 bức thư
Một kẻ mà tôi
cũng muốn hỏi cùng một điều đó
Hỏi đi hỏi lại,
hỏi hoài hỏi mãi
Và như trên cho thấy
Có những câu
hỏi khẩn thiết hơn là những câu cà chớn, ngù ngờ.
Wistawa
Szymborka
Nguồn
Tks
NQT
Hồi đó đó,
nick của GCC là Sơ Dạ Hương, tên của một nhân vật, một nữ bá tước, trong Lâu Đài họ Hạ, truyện
Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch, trong đó chỉ mỗi 1 từ có nghĩa, Hương, từ
Lan Hương,
tức Bông Hồng Đen!
GCC còn nhớ,
lần ghé báo Nghệ Thuật, Mai
Thảo vừa cho ra lò cuốn Viên Đạn
Đồng Chữ Nổi. Bèn
ký tặng, và hỏi, cậu lấy đâu ra cái nick [bà] Sơ này?
Vậy mà gần
như không bao giờ GCC viết về MT, cho đến khi ông ngắc ngoải ở trong 1
nhà
thương Cali,
bèn vội đi một đường kỷ niệm gấp, emergency. NMG mang vô tận giường ông
nằm, đọc, ông gửi lời
cám ơn, phán, bây giờ nó viết dễ đọc, ngày trước, không làm sao đọc nổi
văn của
nó!
Sở dĩ MT không
chịu nổi TTT, một phần cũng là vì cái đám “thế hệ tiếp nối”, còn
được gọi
là nhóm” tiểu thuyết mới”, của Sài Gòn hồi đó, chỉ chịu có mỗi TTT.
Mỗi lần ông ra Quán Chùa
là cả bọn xúm lại, chuyện rôm rả.
Cứ thử tưởng
tượng cái cảnh, MT đọc bài viết của GCC, trên Văn, về TTT, và nghĩ đến
“phận mình”,
là đủ hiểu!
Hà, hà!
TTT 2012
[Trích báo Văn 1967/9] (1)
Mắt Bão
Sài gòn,
8.3.1973
Thư trước
báo cho em biết đi dậy học từ ngày 15.2, thư này báo đã bỏ dậy học
28.2. Bất định
quá. Vào lớp chán quá, mặc dầu được học trò thương. Chắc anh khó có thể
trở lại
nghề cũ. Xem bộ anh thấy mình khá hơn xưa : chẳng còn cần đến những ánh
mắt, nụ
cười ngưỡng mộ tôn kính nữa. Khỏi khoác một bộ vó chẳng ra gì. Chẳng
hiểu đúng
không? Hết là thứ "ông giáo làng" phải không em?
Còn gì nữa ?
Anh nghĩ đến Mắt Bão. Hồi đầu
anh tưởng tượng người đàn ông chết, người đàn bà
mất tích. Hôm qua anh tưởng tượng câu chuyện sẽ được kể lại sau khi
người đàn
ông chết bằng chính người đàn ông. Trước mặt mọi người, người đàn ông
chết hẳn
hòi, có đám táng linh đình, đông đủ bà con thân hữu. Nhưng đó là trò
lừa của
hai người. Sau khi người đàn ông đã chết, do người đàn bà giết, hai
người trở lại
ngôi nhà cũ bên hồ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nhìn lại
quãng đã
qua. Chương mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn đang phân vân
nên để
cho người đàn bà đến nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối quyển tiểu
thuyết là sự
chờ đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong cái khu như cù lao phía
bên kia hồ.
Hồi anh viết Cát Lầy, anh đã có
ý ấy nhưng sau bỏ vì nghĩ nó tàn nhẫn, trêu cợt người ta
quá. Trong Cát Lầy, Người đàn
bà tên Thuận tự tử nằm bên trong ngôi nhà khóa
trái cửa một đêm giông mà Trí kêu gào bên ngoài trước khi ra bến xe đi
với Diệp
sáng hôm sau, thực sự không chết. Anh định kết Cát Lầy bằng đoạn Trí tìm thấy
Hiệp và Thuận ở nơi khác, lại đến thăm ngồi với hai người này một buổi
tối,
xong mới đi hẹn với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ" quá phải
không em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ
…..
Sinh Nhật
13.3.1973
Hôm nay sinh
nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái nào trước
cái nào
sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên tâm vì thư
không
thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất
lạc của thất lạc...
Chỉ biết hôm
nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe những
chuyện lẩm
cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài
Pagode,
hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn đêm nay còn mãi
mãi" mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài từ hồi
nào,
có đăng rồi mà quên .......
Thư gửi Đảo
Xa
Ghi
chú
trong ngày
Eleven
Tác giả/tác
phẩm ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt.
Như… Sến, em gặp ông già rậm râu là mê
liền, năm em 13 tuổi!
Trong nhật
ký, em coi Dos, là "Thầy", và coi Tội
Ác là 1 cuốn tiểu thuyết
suspense, trinh thám nghẹt thở.
Thomas Mann phán, Tội Ác là
một trong những cuốn
tiểu thuyết trinh thám lớn lao nhất của mọi thời.
Cuốn trứ
danh của Pat, Những kẻ lạ trên tàu, Strangers
on a Train, là từ Tội Ác
mà ra.
Em phán: "Tôi có ý nghĩ của riêng tôi về nghệ thuật, và nó như vầy:
điều mà hầu
hết mọi người coi là kỳ quặc, thiếu tính phổ cập, fantastic, lacking in
universality, thì tôi coi là cực yếu tính, the utmost essence, của sự
thực."
Tzvetan Todorov, khi viết về sự quái dị trong văn chương, đã cho thấy,
bằng cách
nào tiểu thuyết trinh thám hiện đại đã thay thế truyện ma quỉ của quá
khứ, và
những nhận định của ông áp dụng rất OK với tiểu thuyết của Pat: “căn
cước gẫy vụn,
bể nát, những biên giới giữa cá nhân và môi trường chung quanh bị phá
vỡ, sự mù
mờ, lấp lửng giữa thực tại bên ngoài và ý thức bên trong”, đó là những
yếu tố
thiết yếu làm nền cho những đề tài quái dị.
Người Mẹ
trong tác phẩm Jamaica Kincaid
Note: Đang “Top
Hit”, theo server.
Làm sao mà độc
giả TV mò ra nó, và làm cho nó thành... “Top Hit?”
Đọc lại bài
trả lời phỏng vấn của Kincaid, v/v liên hệ giữa mẹ/con gái, thí dụ như
dòng sau
đây, “Bạn
không bao giờ được ruồng rẫy con nhưng bạn phải cho con được quyền
ruồng rẫy bạn”, GCC bỗng nhớ
đến những dòng của Thảo Trần:
… rồi khi lớn
lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình và tưởng đâu chính
mình mới
là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành. (1)
Scholars of
Sodom
Roberto
Bolaño
Buenos
Aires, 1972
Many years
ago, before V.S. Naipaul—a writer whom I hold in high regard, by the
way—won
the Nobel Prize, I tried to write a story about him, with the title
“Scholars
of Sodom.”
Nhiều năm
trước đây, trước khi Naipaul đợp Nobel văn chương, tôi cố viết 1 truyện
ngắn về
ông ta, và đặt tít là “Những học giả ở Sodom”.
Notes
on a voice
Ghi chú về 1
giọng văn: Graham Greene
Typical
sentence:
"I believe in the evil of God:'
[from "The
Honorary Consul"]
Câu thú nhất:
“Tớ tin ở cái phần Quỉ, của Chúa”
Note: Báo
nhà [Canada]. GCC biết đến nó, là qua NTV.
Số đặc biệt
về vùng Balkan.
Trong bài viết
của “Guest Editor”, Biên Tập Khách Mời, Amila Buturovic: Về Mất Mát có
thực Hồi
Phục chưa chắc đã có thực, Of
Certain Losses and Uncertain Recoveries, có trích
dẫn câu thần sầu của Szymborska, làm đề từ:
“Each of us
wished to have a homeland free of neighbors and to live his entire life
in the
intervals between wars”
Mỗi tên Mít
chỉ mong một quê nhà đếch có hàng xóm láng tỏi Mít, và sống trọn đời
mình, ở
khoảng giữa những cuộc chiến.
Ui chao, đúng
là cuộc đời của Gấu, [lại
liên tưởng!]: Cả 1 cuộc đời ở giữa hai cuộc chiến, và đếch có hàng xóm
Bắc Kít!
Hà, hà!
Remembering
Sarajevo
by
Aleksandar Hemon
Mapping a
geography of the soul.
I wanted
from Chicago what I had got from Sarajevo: a geography of the soul
Bài viết này
tuyệt quá.
Cũng 1 thứ đi và về chẳng cùng 1 nghĩa như nhau, và làm GCC nhớ lần trở về nơi 1 thời vang bóng, tức lần
trở về Đất Bắc, sau hơn nửa thế kỷ
xa cách,
chủ yếu, là để tìm gặp 1 thằng Gấu, khác, có thể vẫn còn ở lại Đất Bắc,
đếch bỏ
đi Nam.
Bạn có nhớ một
Orhan khác, trong Istanbul? (1)
Để tìm lại Tuổi Thiên Đường
Để biết ông
cụ Gấu mất đúng vào ngày nào [vì ở trong Nam, gia đình Gấu cúng ông cụ
vào cái
ngày 30 Tết, tức là ngày ông cụ rời gia đình, để bị anh học trò làm
thịt].
Để đến
chỗ ông cụ bị làm thịt, thắp 1 nén nhang. GCC hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ, và
lại bỏ đi, đếch về nữa, vì sợ bị đá đít như Thầy Cuốc, hoặc quá nữa,
bị VC làm
thịt như ông bố của mình đã từng bị!
TV sẽ lai
lai ba sợi dịch dọt sau.
Lần trở
về Hà Nội, thằng bé ngày xưa và là tui
ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không phải tuổi thiên tài
như me-xừ
Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao phen dọ dẫm về nó.
Trong một lần
dọ dẫm, tôi đã kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn
được ra
Hà Nội học, nhờ có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa
Đông
Dương.
Tôi viết,
làm me Tây, vì thực sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi
Nhật chiếm
Đông Dương, họ phải chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô
tôi nói,
cái ông Tây trẻ ở cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà,
nhưng
tình nghĩa những ngày hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn
hơn bà tệ
lắm cũng hơn chục tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm
giá
thú, để hoàn tất thủ tục nhập nước Pháp.
Cái villa mà
hai ông Tây ở đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu
khi
nghe tôi hỏi thăm về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên
khác, và
rồi ông ghé sát tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.
Ngày xưa, đứng
trên đường Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một
viện bảo
sanh, bên trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma
ám, cứ
ngày xây, đêm đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai
bên, tôi
đều gây chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia
đình
nghèo, là một chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự
trước,
và khi xẩy chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.
Còn
bên trái, là vào những ngày Hà Nội nhốn
nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ Hallais, ban ngày
biến
thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe tiếng người la,
Cướp,
Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc khuất khuất ở sân
trước, để
săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.
Đi
đêm mãi có ngày gặp ma. Một bữa trộm vào
nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi thường leo vô, mỗi
lần trốn
nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ mượn đường, để
viếng nhà bảo
sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la, tôi giật mình chồm dậy,
thấy mấy
tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi theo, chúng làm rớt một
chiếc bàn ủi,
như để chia phần cho tôi.
Đúng
là để gieo họa, bởi vì sáng hôm sau, mấy
bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé bằng những cặp mắt
nghi kỵ.
Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu thì ít, nhưng hàng xóm
thì nhiều.
Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như cũng học trường Nguyễn
Trãi với
tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận nhà xin lỗi.
Bài
học đầu tiên trong đời, do bà cô dậy, chớ
ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã không học được, bởi
vì, mãi
sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu ngốc kể trên.
Chuyện này,
tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay xin trích đăng ở
đây, để độc
giả cười thêm một trận.
****
"Ôi,
ôm Em trong tay mà đã nhớ Em ngày sắp
tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền). Hãy cho tôi thăm lại con phố Bonnard (?),
nơi
có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ ngác rụt rè làm quen, tự
mình
khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu bé ngày xưa, một
người đàn
ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài học Công Dân, chú
bé chạy
vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn bạt tai, cùng những
lời sỉ vả,
người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì tới mày, hả thằng con nít? Đồ
Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học đầu tiên khi tìm cách làm quen
thành
phố, được thời gian gọt rũa trở thành một nốt ruồi son đáng yêu biết là
chừng
nào, trên khuôn mặt "cô bé". Trên khuôn mặt Sài Gòn.
NQT
Chú thích.
(1): Bót Lê Văn Ken, như bạn Thảo Trường còn nhớ, và cho biết. Tks. NQT
Storm Over
Young Goethe
April 26,
2012
J. M.
Coetzee
Liệu có thể
coi, đây cũng là 1 trường hợp “dịch loạn”?
Passion vs Tenderness
Sorrows vs
Sufferings vs Passions [du jeune Werther]…
We are in
the sphere of the tender passions, and the word at issue is eine
Leidenschaft. Leidenschaft is, in
every sense of the word, “passion”; but what is “passion”? Why does
Malthus
mute “passion” to “tenderness” (or why does his French intermediary
mute it to
tendresse)?
HTL vs CVD
Của Thầy Cuốc,
trên VOA Blog
Roland
Barthes, một người được xem là cấu trúc luận ở cuối thập niên 1950 và
đầu thập
niên 1960 và là hậu cấu trúc luận từ cuối thập niên 60 về sau, xem
mọi văn bản
đều chỉ là một không gian trong đó có vô số các văn bản đan xen nhau,
hoà trộn
với nhau, và không có yếu tố nào là thực sự độc sáng cả. (4)
NHQ Blog VOA
Tò mò GCC thử
coi tiểu chú số 4 là cái gì:
(4) Roland
Barthes, "The Death of the Author", tài liệu đã dẫn, tr. 166-172.
Câu tiếng
Anh (được dịch từ tiếng Tẩy) như sau, nhưng Thầy Cuốc đếch dám
trưng ra:
We know now that a text
consists not of a line of words, releasing a single "theological"
meaning (the "message" of the Author-God), but of a multi-dimensional
space in which are married and contested several writings, none of
which is original:
the text is a fabric of quotations, resulting from a thousand sources
of
culture.
GCC dịch:
Chúng ta bây giờ biết một bản
văn thì không phải là một đường chữ, đưa ra một
nghĩa “thần học” đơn (“thông điệp”của đấng Tác giả-Thượng đế), nhưng mà
là
một không gian đa chiều, ở trong đó một số bản viết phối với nhau, và
kèn cựa
lẫn nhau, chẳng bản viết nào còn zin: bản văn là một miếng, mảnh [giống
như
mảnh vải] những trích dẫn, kết quả của cả ngàn nguồn văn hoá.
Còn
đây là của TV [Tiền Vệ,
không phải Tin Văn nhe, hà, hà!]
Nhân chuyện nói không với
cuộc chiến, và nhân đọc thơ Brodsky (1940-1996), do Hoàng Ngọc Biên
dịch, đăng
trên Tiền Vệ, Gấu tôi xin ghi ra đây.
Odysseus nói với Telemachus
Telemachus con yêu
của ta,
Cuộc chiến thành Troy
giờ đây đã kết thúc;
ta không còn nhớ ai đã thắng trận.
Người Hy lạp, hẳn
thế, bởi cho đến nay chỉ có họ mới có thể
đánh gục được nhiều
người đến vậy khi xa quê hương mình.
[HNB dịch]
Bản tiếng Anh [Collected
Poems in English]
My
dear Telemachus,
The Trojan war
is over now; I don't recall who won it.
The Greeks, no doubt, for only they would leave
so many dead so far from their own homeland.
Câu
trên, ông bố nói với
thằng con, ta đếch thèm nhớ, ai thắng trận.
Câu dưới, ông bố quả quyết, chắc chắn mấy thằng... VC, ấy chết xin lỗi,
mấy
thằng Hy Lạp, bởi vì chỉ chúng nó mới dám đi xa quê hương của chính
chúng nó.
Nhưng Brodsky viết, họ "để lại nhiều xác chết", chứ không phải "đánh
gục nhiều người".
Nhà thơ không hề phân biệt, giữa rất nhiều xác chết đó, cái nào được
coi là...
liệt sĩ, cái bị coi là... nguỵ.
Những
sai sót
dịch thuật, ở trên, của Thầy Cuốc, hay của Thầy Mít Butor -
cũng một trong những ông bạn mà GCC đinh ninh bạn quí của mình, từ
những ngày
ngồi Quán Chùa – GCC, khi đọc câu tiếng Việt, là đã ngửi ra có vấn đề.
Câu của
Thầy Cuốc, là do từ ‘độc sáng”.
Ai đã từng
đọc Roland Barthes, là biết ngay, ông ta không hề sử dụng những từ như
thế, ấy
là bởi vì tham vọng của ông, nếu có thể nói như vậy, là muốn trở về cái
thời kỳ
không độ của văn chương, của cách viết, tức là xóa sạch tu từ pháp, và
cùng với
nó là thứ văn chương đọc thì nghe kêu xoang xoảng, nhưng thực chất là
lập đi lập
lại, nói quẩn, ‘thùng rỗng kêu to’, như Mít nói. Đây là văn chương
của...
Mai Thảo,
mà người ta khen là hào hoa, tài hoa, đào hoa... mỗi ngón tay là một
tháp bút, tháp chữ…
Chính vì thế
mà Barthes mới khen Camus, và thứ văn chương trắng, trung tính của ông.
GCC dâu
có khốn nạn, thù Thầy Cuốc đến nỗi bới lông tìm vết như… Hà Súc Sinh
thù CVD!
Cũng thế, là
câu thơ dịch của Thầy Mít Butor. Đọc là chối tai liền. Làm gì có 1 ông
thi sĩ Brodsky
“máu” đến như thế!
V/v một người
có lương tri.
Khi GCC dùng
từ này, là nghĩ đến bộ Liêu Trai của Bồ Tùng Linh, và cái truyện ngắn
mở ra thế
giới hồ ma của ông:
Đây là câu
chuyện 1 anh học trò, đang sống nhăn mà được mời xuống âm ti thi thành
hoàng,
và đậu, chỉ nhờ 1 câu trong bài văn:
"Hữu
tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng,
Vô tâm vi
ác, tuy ác bất phạt"
Làm việc thiện
mà có chủ ý thì không được thưởng,
Làm việc ác
mà không có chủ ý thì không bị phạt
Ông “Hà hà”
này làm cái "việc thiện", chỉ ra những cái lỗi dịch thuật của CVD,
tâm địa đâu có tốt lành gì đâu.
Đúng ra chẳng
những không được thưởng mà còn phải đè ông ta phết cho chừng 100 roi
mới phải.
Vậy mà bà
Beo còn xin được đứng về phía ông Hà hà!
Một khi mà về
phe với ông ta, là về phe với cái ác.
Hà, hà!
Don Draper
of Existentialism
Đối diện lịch
sử, Facing History
Adam Gopnik
viết về Camus, trên The New Yorker,
April, 9, 2012
Tin động trời:
Sartre tính nhờ... Văn Cao làm thịt Camus!
Nhưng Văn Cao lúc đó, đói
lả, được Vũ Quí cho ăn bát cơm, lấy sức đi
làm thịt
tên Việt Gian Đỗ Đức Phin!
Hà, hà!
Do Hội Sách Nhựt tại
Paris
Nỗi Buồn Hoa
Phượng
Nhà thơ TTT
có lần ngồi Quán Chùa, nhân lèm bèm về nhạc sến, đúng hơn, nhạc có lời,
ông
phán, GCC nhớ đại khái, ở trong chúng, có cái gọi là nhịp của thời gian.
Bạn nghe 1 bản
nhạc sến, là nhớ lại 1 cái thời nào đó liên quan đến nó.
Bản Tình Nhớ với Gấu là thời gian đi trình
diện nhập
ngũ tại Quang Trung, viết rồi.
Ngày mai đi
nhận xác chồng, là thời gian ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà, đang
loay hoay viết.
La plus
belle pour aller danser, là thời gian thằng em nghêu ngao, chờ
đi xa.
Với Nỗi Buồn
Hoa Phượng, của vị nhạc sĩ vừa mới ra đi, với GCC, cái thời của
nó, là thời
gian học Đệ Tứ, trường Thành Công, ở khu Hoà Hưng, của thầy Chu Tử, tức
Chu Văn Bình, bạn của
ông anh rể của GCC, là nhà văn Nguyễn Hoạt, và còn là nhà báo với cái
nick Hiếu
Chân.
Chu Tử là hiệu trưởng, và là giáo sư dạy Pháp Văn, lớp của GCC.
Trường có
thể chỉ là cái vỏ để ông làm chính trị. Vốn thành lập trường có thể là
của Cao Đài.
Ông bị Diệm bắt, và sau 1 thời gian giam giữ lâu quá, không có cớ để
bắt, thành
ra cũng không có cớ để tha, chúng ghép ông vào 1 băng ăn trộm xe hơi,
để chụp
hình đăng báo, cùng đồng bọn, và sau đó, thả.
GCC có nhìn thấy tấm hình đó, trên 1 nhật báo ở Sài Gòn.
Thả, ông làm báo tiếp, tờ Sóng Thần,
viết văn, và nổi tiếng với tác phẩm Yêu.
Lần đầu tiên
GCC biết đến cái gọi là “lưu bút ngày xanh” là ở trường Thành Công.
Hết
năm học, một em, còn nhớ, người Nam, đưa cho GCC 1 cuốn sổ nho nhỏ, GGC
nhớ là,
đẹp lắm, và nói, anh viết vài dòng lưu bút cho em!
Ui chao, thế
là Gấu bèn viết. Không còn nhớ viết cái
gì, nhưng chắc là cũng vãi linh hồn lắm!
Trong thời
gian học trường Thành Công, GCC gặp lại cô gái ở Hà Nội, con 1 người
bạn của bà
cô, Cô Dung, của Gấu. Nhà cũng ở khu đường gần hồ Hallais, cô Gấu hay
tới xoa
mà chược, và Gấu tới, để lấy tiền đi mua bánh mì baguette, ở lò bánh
mì
Michaux, ở đường Trường Thi, gần Bờ Hồ.
Nhờ vậy, mà
được nhìn thấy cô gái.
Gặp lại ở
Thành Công.
Cô học ở 1 lớp
ở bên dưới. Gấu học 1 lớp ở trên lầu. Gấu mò ra đúng chỗ cô ngồi, và 1
bữa, để
cái thư của Gấu ở nơi ngăn bàn học.
Cũng chẳng
nhớ 1 tí gì, về nội dung bức thư tình.
Cô gái đem
thư trình ông giám hiệu.
Thời gian đó, Chu Tử đã bị bắt. GCC học trường Thành
Công, tuy là trường tư, nhưng không phải đóng học phí, hay chỉ phải
đóng 1 nửa,
lâu quá chẳng nhớ, nhờ cái thư của ông anh rể đưa cho Thầy Chu Tử.
Tay giám hiệu
trừng trị GCC bằng cách quyết định, mi từ nay phải đóng học phí.
Học không lo, lo tán gái!
GCC trở
lại, không phải trường Thành Công, mà là trường Thánh Mẫu, đối diện với
trường
Thành Công, mãi sau đó, khi đã đậu Tú Tài I, vô Chu Văn An, quen
bạn C, em
nhà thơ TTT, và nhờ vậy, quen biết Bà T, bạn của bà cụ C.
Cái cô gái trong Những
con dã tràng, là
con gái của bà T.
Cô học trường Thánh Mẫu.
GCC rất nhiều
lần tới trường Thánh Mẫu, để chờ, nhìn thấy cô, tan học, lên chiếc
xích lô,
về nhà, còn GCC lẽo đẽo đi bộ, cũng về nhà, nhà mình.
Mai đi đến trường đón em tiếp!
GCC đã viết
về cảnh này trong Một
Người Anh
Witness
Lolita
vs BHD
Cuốn sách gối
đầu giường bịnh [nhân], những ngày nằm nhà thương Grall [nhà thương Đồn
Đất]
Sài Gòn, sau khi ăn hai trái mìn Claymore của VC tại nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh.
Bất giác lại
nhớ bạn quí TPG. Nhìn thấy GCC kẹp kẹp cuốn Lịch Sử và ý Thức Giai Cấp
của G.
Lukacs, bạn quí bèn hất hàm,“cậu” nhát ma hả?
Hà, hà!
Lạ, đọc bây
giờ, vẫn mê như thường. Và không hiểu tại sao mấy triết gia Mít không
dịch?
Bởi vì vẫn còn
nguyên vấn đề, như Henri Lefebvre viết, trong lời Tựa:
Cuốn sách bé
nhỏ này trình ra một thời kỳ trong cuộc chiến kịch liệt ở bên trong, và
cả ở bên
ngoài, chủ nghĩa Mác. Cuộc chiến này chưa chấm dứt. Nó tiếp tục, dữ
dằn. Chủ
nghĩa giáo điều thì mạnh, nó đặt để sức mạnh, sức mạnh của chính quyền,
của Nhà
Nước, và những định chế của nó. Hơn nữa,
nó có những lợi thế; nó đơn giản, dễ giảng dạy, và đấy chính là mục
tiêu của nó;
với những đảng viên, nó đem đến một tình cảm tự tin, yên tâm, và an
toàn.
GCC học tiếng
Tây, không phải để đi Tây trốn cuộc chiến như cái đám Miền Nam bỏ chạy
bợ đít
hay không bợ đít VC.
GCC cũng đã
nói đôi lần rồi, sau khi đậu Tú Tài Hai, rồi khi làm part-time cho
RCA/Manila,
cho UPI, cũng vẫn có cơ hội trốn, chuồn, nhưng GCC vờ, vờ luôn cả học
bổng đi Mẽo tu nghiệp của Bưu
Điện [cái này thì là sợ mất mẹ cái job làm UPI]
Cái vụ GCC học
tiếng Tây, thực sự mà nói, chỉ là để làm sao viết được 1 cái thư cám ơn
ông Tây,
chồng 1 me Tây, tức bà cô, Cô Dung, của GCC.
Sở dĩ cái đám
giỏi tiếng Tây Miền Nam, chẳng
viết được cái gì cho nên thân, về già GCC mới ngộ ra, ấy là vì chúng
học, tiếng
Mít, tiếng Tẩy, hay bất cứ tiếng gì, đọc bất cứ cái chó gì, chỉ là để
trốn
lính!
Nên nhớ Miền
Nam có chế độ đãi ngộ đám trí thức, có bằng cấp, cho đi du học, và
nếu có đi
lính, thì cho làm sĩ quan.
Đám trí thức lợi dụng cái đặc quyền này để trốn
lính, cách
này hoặc cách khác.
Trong cũng
có GGC nữa, chán thế!
Có thể GCC đỡ
khốn nạn hơn 1 tí, là bởi vì cố đọc, những cuốn như trên, để hiểu cho
ra, tại
làm sao lại như thế. Tại sao cuộc chiến đó.
Bi giờ vưỡn
còn đọc, còn hỏi.
Mấy đấng "bạn
quí" của GGC đọc, chủ yếu để trốn lính, để trộ thiên hạ, để đóng vai
nhà văn,
nhà thơ!
Thời gian
đó, với vốn liếng tiếng Tây ăn đong, mà đọc những cuốn như trên, thì
quả là để
nhát ma thật.
Hà, hà!
|
|