Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]


Chân Dung Nga

Enrique Vila-Matas

Luận về tiểu thuyết

]
















 




10.3.2012

Happy Birthday to U, Jennifer.

*


Thơ Mỗi Ngày

ANTENNAS IN THE RAIN

Cột thu thanh trong mưa

Lũ người vô gia cư, không nhà cửa xúm quanh mấy cái lò sưởi ở nhà ga xe lửa Sài Gòn vào Tháng Chạp.

Bức họa của Vermeer, người đàn bà ngồi đan thật là an toàn ở hiên nhà, đằng sau, bên trong nhà tối thui,
đằng trước, con phố và ánh sáng.

Vô phương hòa giải.

Mặt trời làm đau, đứa bé ở công viên làu nhàu.

Gấu, nói một cách trách móc: Tớ sống ở đó, bạn biết đấy, nhưng chưa bao giờ tớ phán, quá đủ rồi, Sài Gòn!

Mọi thứ trở lại. Hứng khởi [Inspiration: Phiện thú lắm] khuyết lại đầy, như vầng trăng tới tháng. Ham muốn. Dục vọng.

Hài kịch và Bi kịch; Simone Weil chỉ coi bi kịch.

Cây thuốc phiện đỏ và tuyết đen.

Nụ cuời của người đàn bà, chẳng còn trẻ nữa, đọc sách trên xe lửa đi Warsaw

Ôi, sao em chân dài, siêu sao, siêu đẳng, đến như thế?

Đền Delphi, đầy những du khách, mở cửa cho những kỳ bí.

Biển tức giận vào lúc nửa đêm: giận dữ, phải nói như vậy.

Và Bảo Tàng Lò Thiêu ở Washington - tuổi thơ của tôi, những toa tầu của tôi, gỉ sét của tôi.

Buổi chiều Tháng Năm: Những cột thu thanh trong mưa.

Khu phố Lê Lợi, Bùng Binh Chợ Bến Thành la lớn, GCC, tên chó đẻ, tên cà chớn!

Những con cá heo gần Tân Cảng: chúng mê nhất, sự chuyển động cổ xưa, như biểu tượng những nhà học giả sử dụng như là những âm tiết của thơ.

Một nhà hát quá nhỏ làm sao chiếu phim của Bergman?

Trốn chạy nhà tù này, qua nhà tù tới.

Sau thông báo"zuruckbleiben", tại một trạm xe điện ngầm ở Bá Linh, một khoảnh khắc im lặng - tiếng động của sự vắng mặt.

Chim én ở Sài Gòn, cuống lên vì mùa hè, bèn huýt sáo inh ỏi.

Một động từ, mệt lừ đừ, bèn chui trở lại cuốn từ điển vào ban đêm.

Mama luôn luôn hé nhìn trang chót của cuốn tiểu thuyết - để biết chuyện gì xẩy ra tiếp theo…

Sự thực thì là Ky Tô, Catholic, sự tìm kiếm sự thực thì là Thệ Phản, Protestant [W.H. Auden].

Một vài chuyên viên tiên đoán, vào cuối thế kỷ 21 con người sẽ đếch làm sao mà chết được nữa.

Mở ra.

Trả tiền điện thoại, khí đốt, trả sách, Gấu Cái ra lệnh.


TTT 2012

TTT
có hoa có cỏ và lệ đá
có tiếng xuân về gọi vang vang
có ai về gióng hồi chuông mới
khép lại một lần với lưu vong

Đài Sử
 

Trên Gió O có hai bài viết về TTT.

Bài của NLV, (1) nhìn ra một cõi thơ khác, của thơ TTT,  nhân đọc 1 bài thơ Đường, và nhân gặp được "đảo xa"

Như thế chúng ta có 3 cõi thơ TTT.

Liên [Đêm]
Đảo Xa
Cõi Tù.
*

Xin nói thêm về những bức thư của thi sĩ viết gửi “Mon ile” cũng như gửi “Đảo xa.” Tôi đã đọc đi đọc lại khá nhiều lần, rồi bâng khuâng tự hỏi: Vì sao thi sĩ tự ví mình như một Crusoe thất lạc nơi hoang đảo? (nhân vật bi hùng Robinson [Crusoe,] cũng là nhan đề cuốn tiểu thuyết lừng danh của nhà văn người Anh, Daniel Defoe.) 
Phải chăng, gửi “Mon ile,” gửi “Đảo xa,” là gửi cho Crusoe thất lạc?
Tức là gửi cho chính mình? Gửi cho cõi cô độc riêng tây của chính mình?
Như vậy, viết thư, như là một cách độc thoại. Một Crusoe thất lạc, tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm nhận từ rất lâu cái mệnh hệ cô độc riêng tây ấy của đời mình. Cảm nhận, nhưng không cần nói ra, không cần bày tỏ với bất cứ ai, bởi cái phong cách kiêu bạt, bởi trò chơi ẩn ngôn khinh khoái của thi sĩ?
Tự hỏi, rồi tự trả lời một cách tự tin: Đúng vậy! Những khoảng lặng ngân dài. Thi sĩ lắng nghe trong im vắng: “Chưa bao giờ anh nghe mình du dương lạ thế. Anh nghe vang hoài Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng..."  Đó cũng chính là niềm hứng khởi từ cô liêu vọng lại để thi sĩ cảm ứng với Thôi Hộ, tấu lên “Sáu biến khúc quanh một đề thơ cổ.”

“Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng” là câu chuyện tình hư hư thực thực không có kết thúc. Hãy chịu khó đọc lại hai câu thơ cuối trong biến khúc 6, cũng là 2 câu thơ cuối cùng của bài thơ:

Đừng ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng ngoái nhìn. Trăng khoả thân xanh mướt. 

Chỉ còn một mình chàng với bóng đêm huyền ảo: “Phơ phất khói sương thu.” “Trăng khỏa thân xanh mướt.” Vậy thì, bảo chàng “Đừng ngoái nhìn” là tại sao? Để làm gì? Nàng đã đi đâu về đâu chẳng biết. Nàng đã tan vào cõi không hư. Phải chăng, Chàng muốn tự an ủi mình rằng Nàng vẫn còn ở đâu đó, có thể Nàng đang ẩn hiện trong làn khói sương thu phơ phất, có thể Nàng đang ẩn hiện trong ánh trăng khỏa thân xanh mướt. Vì sợ rằng, nếu Chàng ngoái nhìn, Nàng sẽ lập tức tan biến đi? Lời khuyên kia, thật ra, cũng là từ tâm thức Chàng dấy lên, vừa đinh ninh, vừa mơ hồ. Nàng vừa là ảnh thực, vừa là ảnh ảo trong tâm thức Chàng. Đây cũng chính là sự giằng xé, niềm ray rức khôn nguôi suốt đời của thi sĩ. Mượn một câu chuyện tình để nói lên thân phận mồ côi, bơ vơ của kiếp người. Câu hỏi không lời đáp. Lời đáp nằm ngay trong câu hỏi. Thôi Hộ, sau khi than vãn bên thân xác Nàng đã chết, chỉ còn chút hơi ấm, nhưng điều kỳ diệu đã giúp Nàng hồi sinh và trùng phùng, tái hợp với Thôi Hộ trọn đời. Nhưng câu chuyện ấy cũng chỉ là một huyền thoại. Ảo!!! Orphée sau khi bị đám nữ thần lên cơn ghen tức đâm chết, mới “gặp” lại Erydice ở cõi “bên kia” và “sống” với nhau trọn đời. Cũng chỉ là thần thoại. Ảo!!! Hai câu chuyện có hậu của huyền thoại và thần thoại, chỉ để làm thỏa lòng người nghe chuyện. Trở lại “Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng,” câu chuyện tình hư hư thực thực từ đầu đến cuối, mở ra nhưng không khép lại, không có hậu. Chàng là “kẻ lạ mặt”, Nàng là một ảnh ảo, rất mơ hồ, đang quẩn quanh, đâu đó. Chàng và Nàng ẩn hiện, bay, lướt, chìm, tan trong âm vang và sắc màu miên man bất tận. Sáu biến khúc “Thế có lãng mạn quá không?” - Câu hỏi đầy cảm xúc, hứng khởi của thi sĩ. Tôi thầm nhủ: “Quá đi chứ! Và còn rất, rất siêu thực nữa.” Một cảm xúc, hứng khởi trên cả tuyệt vời. “Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng,” với một thủ pháp cấu trúc, ngôn ngữ thơ thuộc loại bậc thầy! Đúng là một “Âm Vang Khác” rất lung linh, huyền ảo, rất Thanh Tâm Tuyền. 

Thi tập “Thơ Ở Đâu Xa” (Trầm Phục Khắc xuất bản, 1990, Hoa Kỳ,) cũng là một“Âm Vang Khác” của Thanh Tâm Tuyền. Những bài thơ làm trong chốn tù ngục, đọa đày khắc nghiệt, nhưng tâm hồn, thần thái của thi sĩ vẫn ung dung, tự tại, an nhiên chịu đựng bi kịch, tai ách, tuyệt không thù hận, oán than. Thơ trong tù được nghiền ngẫm trong trí nhớ, được lưu giữ trong óc, trong tim, mà vẫn mài sắc, cô đọng ý tứ, gây nhiều cảm xúc cho người đọc. Cái tầm, cái tâm của thi sĩ thật đáng kính nễ. Cuộc đời trần thế của thi sĩ tuy đã khép lại, nhưng phẩm cách con người, tâm hồn Thanh Tâm Tuyền, thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn mãi đẹp, như chính mong ước, khát vọng của ông:

“Sẽ chết như sao rơi vào bất tận,
Sẽ mãi yêu như giọt nước hân hoan.”

Nguyễn Lương Vỵ
Calif., 03 - 04.03.2012
(Nhân kỷ niệm lần thứ 76, ngày sanh [15.03] và lần thứ 6 ngày mất [22.03] của Thanh Tâm Tuyền.)

Và bài của VCC (2):

Di cư vào Sài Gòn, năm 1955, Thanh Tâm Tuyền mới tròn 21 tuổi dõng dạc tuyên bố: “Trong cái quá trình cấu thành nhạc điệu của ‘thơ mới’ sau khi giải phóng khỏi sự câu thúc của thơ luật, người ta cũng cảm thấy sự nghèo nàn của điệu thơ lẩn quẩn trong bốn câu hay hai câu nối tiếp, nên đã dẫn đến sự sử dụng thể hỗn hợp của ca dao và thơ phá thể…Thơ phá thể chính là biểu hiện của thơ mới ở ngõ cụt, nhạc điệu của thơ phá thể là một thứ nhạc điệu nghèo nàn và giả tạo nhất… Bởi thế thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do”

Làm thế nào để nhận dạng “thơ tự do”? TTT mạnh dạn giải thích ( về mặt hình thức): …vần điệu của thơ tự do là nó không gieo vần theo lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho [hơi] thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác”.

              Nhưng chỉ với hình thức, thì người ta sẽ không nhận ra sự có mặt tất yếu của thơ tự do thời kỳ mới của nghệ thuật. Chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, TTT đã viện dẫn đến lập luận của triết gia Nietzsche để nói về sự cần thiết của dòng thơ ông đeo đuổi: “Khi nghiên cứu về bi kịch của Hy Lạp, Nietzsche đã phân biệt hai khuynh hướng đối chọi nhau trong nghệ thuật. Với quan niệm nghệ thuật Apollon, nghệ thuật phải đạt được những hình thức toàn vẹn, minh bạch vững vàng, một nghệ thuật của mơ mộng, một cái Đẹp kết lại được ở hình thức có mẫu mực: nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bình yên nhìn ngắm và chấp nhận đời sống. TTT đồng cảm với Nietzsche để cổ vũ cho hướng thứ hai: quan niệm nghệ thuật Dionysos: “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận. Cái khuynh hướng thứ hai này thường bị hất hủi coi thường, nhất là trong cái xã hội ngưng đọngmấy nghìn năm, ở  đây người ta giương mắt thản nhiên nhìn ngắm những đau khổ.”

            TTT xác nhận: “Chính từ sự phân biệt của Nietzsche, tôi dùng làm khởi điểm để mở cho người đọc không thấy được sự cách biệt giữa thơ hôm nay với họ mà họ phải vượt qua, không phải là sự cách biệt tầm thường ngoài hình thức mà là chia cách từ căn bản của nghệ thuật, của thơ”.
*

Theo như "truyền thuyết" trong chốn giang hồ, thì nhân vật Hiền, là từ "đảo xa" mà ra.

Nhưng nếu đúng như thế, thì Hiền tuyệt hơn nhiều so với ngoài đời.
Hiền tuyệt tích giang hồ, sau khi được Kiệt đưa tới chỗ đó, và trở về với Thùy, bà vợ thật quá nghiêm, không làm chịu nổi 1 ông chồng có tới hai cuộc đời: một đời thật, và một cõi riêng.

Thùy ngồi ngả trong ghế. Ở đi văng xa, Kiệt đang xỏ giầy. Nàng nhếch mép khinh bạc. Kiệt trừng trừng, hung hãn, xong cúi buộc giây giầy. Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách thức. Hắn thở phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động khuôn mặt ngẩn ngơ.

Phút ấy Thùy tỉnh ngộ dưới mắt Kiệt nàng không là gì. Hắn cười trong cõi riêng. Từ bao giờ hắn vẫn sống trong cõi riêng, với nàng bên cạnh. Phát giác đột ngột làm nàng tủi hận nhưng giúp nàng cứng cỏi thêm trong thái độ lựa chọn. Hắn coi thường nàng trong bao lâu nay nàng không hay và hắn phải chịu sự khinh miệt rẻ rúng của nàng từ nay.
Source

Nhưng Kiệt không thể nào ngờ được, sau khi chàng đi xa, thì Hiền từ “đảo xa”, lại trở về đời, và tung hê thư tình của chàng lên net!

Loạt bài của VCC có nhiều ý lạ, những sự kiện chưa được biết tới, nhưng lỗi chính tả nhiều quá.
Ngõ cụ thay vì ngõ cụt, thí dụ.
Chính những cái lỗi này làm hỏng loạt bài, vì nó làm người đọc suy ra, sự cẩu thả của người viết, và cùng lúc, nó ảnh hưởng những "ý lạ" của tác giả loạt bài: Cũng cẩu thả như những cái lỗi đầy rẫy trong bài viết.

Đã lâu rồi, một vị độc giả, và cũng còn là 1 tác giả, thường nhận bài viết của GCC, qua email, cùng với nhều người viết khác, thường là ở trong nước, qua cái gọi là mailing list, đã nhận xét về GCC, qua hai bản text, và text revised liên tiếp nhau: chỉ khác nhau, chỉ có 1 dấu phảy!

Một khi mà bạn post 1 bản văn đầy lỗi chính tả như thế, bản thân bạn đã coi thường nó! NQT


*

*

Book Description
Publication Date: November 20, 1989
Mary is a gripping tale of youth, first love, and nostalgia--Nabokov's first novel.  In a Berlin rooming house filled with an assortment of seriocomic Russian émigrés, Lev Ganin, a vigorous young officer poised between his past and his future, relives his first love affair.  His memories of Mary are suffused with the freshness of youth and the idyllic ambience of pre-revolutionary Russia.  In stark contrast is the decidedly unappealing boarder living in the room next to Ganin's, who, he discovers, is Mary's husband, temporarily separated from her by the Revolution but expecting her imminent arrival from Russia.

Book Review
Putting my obsession for Nabokov and for first novels in general aside, reading this was still pure bliss. Sometimes narrative breaks for the author to sneak in some philosophical musing about memory, but somehow it fits. Immature writer syndrome, I suppose, which i've caught in my own work.
It is a book about first love, and losing her, and then finding her again, but engaged to another man, who's not half the man you are. Nabokov questions how much you're in love with only the memory, and whether finding the flesh and blood girl again will ever fill the hole that your memory and desire have dug.
[Source: net]

Bỗng nhớ cô Hiền, trong Một Chủ Nhật Khác. NQT

Đọc những lời giới thiệu, điểm cuốn Mary, đối chiếu với Một Chủ Nhật Khác, Gấu sợ rằng, khi dịch cuốn này, Mary, Tình Một Thuở, TTT cũng muốn tìm lại cô Hiền ở trong MCNK, Tình Ðầu, Tình Một Thuở, Tình Thơ Dại….

Kim Dung có 1 nhân vật cực đẹp, xuất hiện để rồi đời đời biến mất, là Khúc Phi Yến, trong Tiếu Ngạo Giang Hồ.

Ðộc giả TTT, đọc MCNK, thì đều như Duy, đều tính hỏi Kiệt: Hiền đâu rồi?
*

Em nên hiểu, em ráng hiểu một chút… Anh có tội một cách vô tội, em vô tội một cách có tội… Lần này quả thật là người tình cũ… Em là đàn bà, em hãy tưởng tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu….

Duy muốn hỏi Kiệt: Hiền đâu? Hiền ra sao?

Source

Hiền đâu?

Hiền đang tung hê thư tình gửi cho "đảo xa" lên net!


*

PRÉFACE
POUR LA NOUVELLE ÉDITION ANGLAISE
(Mars 1995)

Qu 'une vie d 'homme puisse se jouer de facon décisive en l'espace de quelques jours, voilà un mythe auquel je ne croyais pas dans ma jeunesse. Mais à présent, quand je repense à l'expérience que j'ai vécue il y a trente-deux ans, entre le début et le plus fort de l'été, je suis bien obligé de reconnaitre que ce genre de choses est tout à fait possible. De le reconnaitre avec un sentiment de terreur sacrée.
Cette année-là, j'avais vingt-huit ans, et en tant que jeune romancier je peux dire que j'étais en train, à la suite du succès de mes débuts, d 'édifier ma carrière. En tant qu 'essayiste également : je jouais le role de porte-parole de la jeune génération - celle qui, confrontée à la défaite au moment de l'adolescence, avait vécu sa jeunesse à l'époque où la démocratie était en plein essor au Japon. Et pourtant, en tant qu 'écrivain, je me sentais déja dans l'impasse.

Ghi chú về Hiroshima

Tựa cho bản tiếng Anh mới, Tháng Ba, 1995

Kenzaburô Ôé

Rằng, đời người có dịp thoải mái tới đỉnh, trong khoảng vài ngày là một huyền thoại mà tôi chẳng hề tin khi còn trẻ. Nhưng bây giờ, sống lại cái kinh nghiệm đã từng trải qua vào đầu một mùa hè cực hè, thì tôi đành phải thú nhận một chuyện như thế là hoàn toàn có thể xẩy ra. Và cảm nhận nó với tất cả niềm kinh hoàng thần thánh, thiêng liêng.
Năm đó, tôi 28 tuổi. và, như là một nhà văn, thì tôi đang xây dựng sự nghiệp của mình tiếp theo một cú khởi đầu rất ư là thành công của những tác phẩm đầu tay. Như là một tiểu luận gia nữa chứ: tôi đóng vai phát ngôn viên của thế hệ trẻ - một thế hệ, đối mặt với sự thất trận ê chề vào lúc niên thiếu, đã sống cái tuổi trẻ của họ vào lúc dân chủ đang nở rộ ở Nhựt bổn.
Tuy nhiên như là nhà văn, tôi ngửi ra tuyệt lộ của mình, rằng tôi đang ở trong một ngõ cụt.


Giấc Ngủ

*

Lỡ... đụng vô em rồi, đành phải bệ về!

Một em chừng ba chục. Có chồng, có một đứa con. Buổi sáng, em đi shopping, đi chợ, đi búa, và lo bữa ăn. Xế chiều em đi bơi. Em sống đời của em như một người máy.
Nhưng đêm xuống, khi mọi người ngủ, em tự làm cho em 1 ly cô nhắc, ăn tí sô cô la, và đọc đi đọc lại “Nàng Kha Lệ Ninh”.
Đêm, em tái khám phá lạc thú.
Mười bẩy đêm không ngủ…

*


Xử VC

*

gau

The New York Times
April 19, 2011, 5:00 am

The Pulitzer Eddie Adams Didn’t Want
By DONALD R. WINSLOW

Eddie Adams và bức ảnh đoạt giải Pulitzer mà ông đã không mong muốn

Tình cờ thấy bài trên, đã được Blog Ba Sàm dịch.
Post lại ở đây, và nhớ ra là bài viết của Faas cũng chỉ được dịch có một nửa!

GCC đang tính chơi cú chót, thật là bảnh, trước khi đi xa, - cái gì gì, "Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời", [bắt chước ông số 2], thuổng cái tít của Mai Thảo: Dịch những bài viết, truyện ngắn có liên quan tới cuộc chiến Mít, dưới mắt của Gấu Nhà Văn, còn là thằng thợ máy Bưu Điện, ngồi ở “Mắt Bão”, tức ngọn đỉnh trời, đỉnh cồn, tầng lầu chót, building số 5 Phan Đình Phùng, kế ngay bên Đài Phát Thanh Sài Gòn, vừa đọc sách, vừa viết văn, vừa gửi hình cho hãng tin Mẽo, UPI, đi toàn thế giới.
Bạn nào rảnh, giỏi tiếng Anh, làm ơn ới 1 tiếng qua email, nhe!
Trân trọng
NQT 

Cái hình GCC ngồi gửi hình cho UPI, tay trái chưa cử động OK, vì mìn VC mà chẳng bảnh sao?

*

Shell-shocked US marine, Hue, Vietnam, February 1968.
Photograph: Don McCullin

Don McCullin's most celebrated image is his portrait of a dazed American soldier, entitled Shellshocked US Marine, Hue, Vietnam. It was taken during the battle for the city of Hue in 1968 and, in its stillness and quiet intensity, says as much about the effects of war on the individual psyche as many of McCullin's more graphic depictions of conflict and carnage. The eyes that stare out beneath the grimy helmet are not staring at the camera lens, but beyond it, into nowhere.
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere. It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."

Lính Mẽo kinh hồn bạt vía vì pháo VC.
Hai con mắt thất thần, nhìn xuyên qua ống kính, tới hư vô!
Bức hình trở thành “thương hiệu” của McCullin. Nhưng khi nhắc tới, ông nhăn mặt: Nó làm tôi đau đầu. Bởi vì nó xuất hiện ở khắp mọi nơi. Chẳng khác chi bức hình xử VC của Eddie Adams.

Những dòng chữ viết tay trong nhật ký cho thấy Eddie đã thừa nhận ông rất muốn được giải Pulitzer cho bức ảnh ông chụp đệ nhất phu nhân Jacqueline Kennedy đang giơ tay đón lấy lá cờ Mỹ được gấp lại mà người ta trao cho bà tại lễ tang Tổng thống John F. Kennedy vào tháng 11 năm 1963.
Source
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere. It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."
Source
Hình Eddie Adams chụp tướng Loan khử VC, và hình MC Culllin chụp anh GI chết sững vì pháo VC, hai cái hình bổ túc cho nhau.
Cả hai nói lên nhận xét của Rushdie:
There is something predatory about all photography. The portrait is the portraitist's food. In a real-life incident I fictionalized in Midnight's Children, my grandmother once brained an acquaintance with his own camera for daring to point it at her, because she believed that if he could capture some part of her essence in his box, then she would necessarily be deprived of it. What the photographer gained, the subject lost; cameras, like fear, ate the soul.
Source
Có cái gọi là ăn thịt sống, làm thịt sống, ăn tươi nuốt sống con mồi, trong chụp hình. Bức hình là thức ăn của người chụp hình. Bà tôi đã có lần cầm cái máy chụp hình của chính nạn nhân, để đập bể đầu anh này, một gã quen biết, vì dám đưa cái máy về phía bà, bởi vì bà tin rằng, nếu anh ta có thể xén một phần nào của cái tinh túy ở nơi bà, và đưa vô cái hộp đen, thì bà sẽ mất đi cái phần đó. Cái mà bức hình có, thì người bị chụp, mất; máy chụp hình, giống như sự sợ hãi, "ăn" linh hồn.


Ghi chú trong ngày


Lolita vs BHD

Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ.

NQT: Lần Cuối Sài Gòn

Không phải bị đau đầu, mà là đau dây thần kinh vùng xương sườn (intercostal neuralgia: liên quan đến một thứ hay được gọi là "ribs" :d), hồi đó là cuối 1939, đầu 1940, khi Nabokov còn ở Paris.

Blog NL

Cái sự lầm lẫn, “cái nhói ở nơi con chim”, ở "hai hòn bi", thành “cơn đau đầu” của GCC, mãi sau này thì Gấu hiểu ra, nó liên quan tới một nhận định của Todorov về hồi nhớ, GCC đọc qua Cynthia Ozick khi bà viết về Anne Frank, đại khái như vầy:
Con người chỉ nhớ, sao có lợi cho hiện tại. Sao cho tiếp tục sống [sót], một cách thoải mái.

Làm sao mà nhớ đến BHD mà lại cảm thấy đau nhói ở nơi con chim cho được?
Thành thử, ngay khi đọc bài viết, là GCC dã đọc sai, đọc lầm 1 cách cố tình rồi!
Đó cũng là lý do, tại làm sao GCC, tuy mang theo Lolita khi bỏ chạy Sài Gòn, nhưng lại không thể nào đồng nhất BHD -như là hình ảnh của 1 miền đất đã từng bỏ chạy, cái nhà tù giam giữ thời thơ ấu - với 1 em Lolita mà tiền thân của em, là cái em xém bị HH làm thịt ở bãi biển, dưới sự chứng kiến của cặp mắt kiếng màu của 1 du khách bỏ quên trên cát, và cuộc làm thịt không thành, vì 1 con người tiền sử từ dưới biển xuất hiện, với bộ râu rậm như của Dos!

Nabokov quả đúng là 1 nhà văn, một đại văn hào, nhưng nhà văn nhớn này có 1 khiếm khuyết trầm trọng, là không hề biết đến nỗi đau của đồng loại. Ông cũng là 1 thứ nhà văn "dễ dãi và sung sướng", như nhà thơ NS của Mít chúng ta. Nghe nói NS thù VC vì VC làm thịt mất ngôi trường vĩ đại của ông ở Sài Gòn, y hệt Nabokov than thở bao nhiêu của cải gia đình đành bỏ lại cho VC Nga.
Nabokov than, nếu không có cuộc cách mạng vô sản của đám VC Nga, thì ông vẫn ở Nga, vẫn mê săn bắt bướm, và chẳng bao giờ viết văn hết.
Lời than thở này đúng là phút nói thật của ông
Chính là do khiếm khuyết này mà ông không làm sao đọc nổi Tội Ác và Trừng Phạt của  Dos, Don Quixote của Cervantes. Ông còn không biết đến cái phần u tối ở nơi con người, thành ra không làm sao chịu nổi cái xen tả cuộc gặp gỡ giữa 1 con điếm, 1 anh sinh viên nghèo mơ giết người để cải tạo xã hội, và Thánh Kinh ở trong Tội Ác.
Cái cô Thanh trong Bếp Lửa của TTT có thể ảnh hưởng từ Sonia của Dos.

TV post ở đây, đoạn Nabokov lèm bèm về Tội Ác và Hình Phạt trong Littérarures/2 của ông.

Tội Ác và Hình Phạt
Crime et Chatiment

(1866)

C'est à cause de ce suspense, de ces sous-entendus, que les écoliers et les écolières russes lisaient avec avidité Dostoievski, au même titre que Fenimore Cooper, Victor Hugo, Dickens et Tourgueniev. Je devais avoir douze ans lorsque j'ai lu Crime et Chatiment pour la première fois, il y a quarante-cinq ans. Je trouvai ce livre remarquablement puissant et captivant. Je le relus lorsque j'avais dix-neuf ans et que la Russie était plongée dans l'horreur de la guerre civile. II me parut alors interminable, terriblement sentimental et mal écrit, Je le relus à vingt-huit ans, parce que j'analysais Dostoievski dans un de mes ouvrages. Je le relus encore quand j'inscrivis Dostoievski au programme de mes cours universitaires. Mais ce n'est que tout récemment que j'ai compris ce qui clochait véritablement dans ce livre.

Do cái tính giật gân nghẹt thở, và những hiểu ngầm, nghe một nửa nói một nửa, ngụ ý, mà những cô cậu học sinh Nga đọc ngấu nghiến Dos, cũng 1 điệu như với những tác giả như Fenimore Cooper, Victor Hugo, Dickens và Tourgueniev. Tôi lúc đó ắt hẳn 12 tuổi, khi đọc Tội Ác lần đầu, cách đây 45 năm, và cảm thấy cuốn sách mãnh liệt, cuốn hút. Tôi đọc lại nó, vào lúc 19 tuổi, khi nước Nga ngập chìm trong ghê rợn của cuộc nội chiến. Khi đó, tôi thấy cuốn sách dài lê thê, vãi linh hồn, vãi cả nước mắt, nước mũi, và nước gì gì đó, và viết dở như hạch. Tôi đọc lại nó vào lúc 28 tuổi, bởi vì tôi nghiên cứu Dos trong 1 trong những tác phẩm của tôi. Tôi đọc lại nữa khi đưa Dos vô chương trình của những cours giảng dậy của tôi ở đại học. Nhưng, chỉ mới đây tôi thì tôi mới sửng sốt đến ngớ người, khi nhìn ra bộ mặt thật của nó: Có 1 cái gì đó thật là cà chớn [khập khễnh, què quặt], ở trong cuốn sách.

Với Nabokov, hình bóng của cô bé Lolita lần đầu tiên xuất hiện, như thế, là khi ông cũng đã có tuổi, và nó làm nhức dây thần kinh vùng sương sườn, khác hẳn GCC, khi gặp BHD, và miền đất đã mất, lost domain, xuất hiện.

Nhưng phải đến khi trở lại Đất Bắc, khi nghe kể về cái chết thê lương của Cô Hồng Con, cô con gái 1 địa chủ, bị cả một vùng đất bỏ chết đói, thì GCC mới cảm nhận ra được rằng, trong BHD còn có bóng dáng của Cô Hồng Con này. Cô Hồng Con là tiền thân của BHD.

Còn cái vụ nhức nhối con chim, như của Nabokov, GCC cũng đã kinh qua, khi về già, rất nhiều lần, khi chợt nhớ lại, một lần nào đó, để xổng con mồi….

Hà, hà!


DẠY ĐỜI TÍ ĐÊ

Trên Tiền vệ có một loạt bài vạch ra những lỗi dịch thuật tiếng Pháp của Cao Việt Dũng. Beo đánh giá đây là loạt bài hết sức tốt, thậm chí có thể coi như cour miễn phí, về tiếng và về văn hóa Pháp, cho những người học tiếng Pháp.
Mở ngoặc, Beo đọc được sách Pháp ngữ nguyên bản chứ không cảm tính khi đứng về phía ông Hà Thúc Lang.
Beo Blog

Bà Beo Béo này nhiều chuyện, nhưng hình như không nắm được câu chuyện.
Lại còn thòng thêm cái mở ngoặc nữa chứ, trong khi bên trên, bà viết tiếng Tây, “cour” miễn phí.
Hay là bà nhầm “cour” với cua… Beo, cua gái? [Fair la cour]

Hà, hà!

Cái chuyện dịch sai được người đọc chỉ ra những chỗ sai, là 1 điều vạn hạnh, cho dù bất cứ lý do, trường hợp nào.
Ở đây, người sửa sai tính nắn gân dịch giả, vì có hẳn cả 1 chiến dịch, mỗi lần CVD ra cuốn dịch nào, là bèn được chiếu cố.

Cũng tốt thôi.

Nhưng vì người sửa sai chẳng có tí tốt bụng, chẳng để tên thực [khi thì HTS, khi thì HTL…] thành thử, cứ đi một đường cám ơn, và, sẽ sửa những chỗ dịch sai, lần xb tới.

Chấm hết.

NQT

Chính những dòng khen tặng nức nở HTL, hoá ra làm hại ông này/bà này: “loạt bài hết sức tốt, thậm chí có thể coi như cour miễn phí, về tiếng và về văn hóa Pháp, cho những người học tiếng Pháp”.

Nếu như vậy, thì  HTL, là một độc giả rành tiếng Pháp chỉ cho dịch giả CVD một số sai sót trong khi dịch, hay là 1 nhà phê bình điểm nguyên tác của 1 anh Tẩy mà GCC không làm sao ưa nổi, hay là một vì giáo sư mở “cour” dậy tiếng Tây miễn phí online?

Đọc những gì HTL phán loạn cào cào về anh Tây tác giả mới tức cười. Viết 1 bài viết nhỏ, chỉ ra những chỗ dịch sai cũng không nên thân, chỉ vì do đố kỵ, muốn hạ nhục người khác, có khi còn muốn làm bể nồi cơm nhà người ta, vậy mà cũng có kẻ khen nức nở, mà còn phân bua, tôi cũng biết tiếng Tây, không phải vì cảm tính…

Kể cũng rách việc, nhưng lâu lâu cũng vác ngà voi, chơi!

NQT
 


Ẩn dụ, âm Hán-Việt, xuất phát từ chữ Hán: 隐 喻. Ẩn là bí mật, là giấu giếm. Dụ là tương tự, ví von. Còn được gọi là ám dụ . Cũng như ẩn, ám là giấu giếm, bí ẩn. Nói ẩn dụ hay ám dụ, nghe bí hiểm. Thực ra, ẩn dụ đơn giản chỉ có nghĩa là so sánh ngầm.
THT: Da Màu

Theo như thường dùng trong tiếng Việt, thì ẩn dụ là muốn nói đến từ metaphor.
Còn ám dụ, allegory.
Hai từ này, ở bên tiếng Anh, khác nhau.
Câu phán, "thực ra ẩn dụ chỉ có nghĩa là so sánh ngầm", theo GCC, nhảm.
Bởi vì ẩn dụ, như được biết, phải được coi như là một phép tu từ
.
Và như thế, thì đâu chỉ ẩn dụ là… so sánh ngầm. Tất cả mọi hình tượng tu từ thì đều là so sánh ngầm hết!

*
*
*

Note:

GCC sẽ viết tiếp về đề tài này, theo hướng sau đây:
Ẩn dụ như là 1 hình tượng tu từ
Ẩn dụ không phải là ám dụ.
Ẩn dụ vs Ảnh tượng.

Cùng lúc viết về Thơ, Bếp Lửa, Một Chủ Nhật Khác...  và TTT .

Ẩn dụ không phải là so sánh ngầm. Cái định nghĩa, ẩn dụ là 1 từ hoa nhờ đó lý trí áp dụng để chỉ vật này, cho vật khác, do 1 tính chất chung làm chúng sát gần nhau, theo GCC, đúng hơn.

Hơn nữa, ẩn dụ còn liên quan rất  nhiều tới liên tưởng. Nhìn cái này nhớ cái kia, thì đâu có phải là so sánh ngầm?
Nhất Linh tả cả 1 buổi trưa hè, Dũng nhìn qua hàng xóm, thấy 1 cánh áo trắng bay phấp phới trong nắng, thoạt đầu ngỡ ngàng tự hỏi, áo ai nhỉ, và bèn nhớ ra là áo của Loan, và bèn còn nhớ ra là Loan đi học Hà Nội, nghỉ hè, về quê, và còn ngộ ra là mình yêu Loan, cả 1 dẫy hình ảnh, ẩn dụ, ám dụ… như thế, đâu phải để…. so sánh ngầm?

Thực sự mà nói, THT không biết viết tiểu luận, một phần do cái sự ham đọc, ham trích dẫn… mà ra. Phô hàng ra nhiều quá, người đọc không làm sao chọn được hàng xịn. Một bài viết dài thòng, cuối cùng, nhảm.
Chỉ cần 1 hình ảnh thôi, 1 vision, cho 1 bài viết, là đủ.

Cả 1 chuỗi hình ảnh mà NL miêu tả trên, chỉ để tụ vào 1 hình ảnh: cánh áo trắng bay phất phơ gió, trong 1 buổi trưa hè xứ Bắc Kít, là một ẩn dụ, để "nói lên" cái giây phút mặc khải “anh yêu em”, của Dũng.

Someone loved me.
Someone was you!

Hà, hà!

Nhưng phải đến chót đời thì GCC mới hiểu ra được, trong ‘ẩn dụ’, trong “liên tưởng” - lấy cái này, để chỉ cái kia; cái này làm nhớ tới cái kia - còn có cái gọi là ‘nhân quả” của Phật Giáo: cái này, là nhân, cái kia, là quả, hay, ngược lại.

Gấu phát giác ra, cái gọi là lý thuyết nhân quả, trong ẩn dụ, trong liên tưởng, khi đi tù VC.



Cali Tháng Tám 201

Đám cưới Gấu, Gấu tự biên tự diễn. GCC mua 1 cái hụi, đem tiền xuống nhà gái, lo đám cưới, chẳng thèm nhờ cậy ai. Gia đình họ hàng
chẳng ai bằng lòng. Cả họ không bằng lòng. Rồi cả họ vô nhà đẻ, coi, thằng bé có giống thằng Gấu không.
Gấu Cái đau lòng lắm, nhưng sau này, mỗi lần nhớ lại, thì một lần gật gù, đúng rồi, không thằng nào làm được chuyện như mày làm hồi đó.
Mày lấy tao, bị tất cả bạn bè, họ hàng từ bỏ. Vậy mà vẫn khăng khăng... chọn tao, trong khi thừa sức lấy “con nhà lành, con nhà giàu, con nhà tử tế….”.
Lần về lại Sài Gòn, lần đầu, 2001, gặp lại bà cụ C, cụ còn nói, thằng Tg nó bỏ, nếu không, đâu có đến lượt mày!
Gấu Cái thì cũng nói như thế.
Phải chi mi bỏ ta hồi đó, thiếu gì thằng cưới ta!
Hà, hà!
Đó cũng là sự thực. Ở nhà quê,  làm gì có nhiều cô đậu Tú Tài 2 như Gấu Cái!
Thiệp cưới, là Gấu Cái “năn nỉ”, ta cần cho chúng bạn. Gấu chẳng báo cho ai Gấu lấy vợ, nhưng cả Sài Gòn biết. Ông Thư Trung, tức TPG còn đi 1 đường Tin văn vắn trên Văn, chắc để “thông báo” cho đám nữ độc giả chăng? Nhưng rõ ràng là ông này chẳng có thiện ý, nhưng Gấu Cái lại thật là hài lòng về mẩu tin. Chỉ để khoe, [hay rửa mặt] với bằng hữu, họ hàng, cái này thì để hỏi lại.

Hà, hà!

Hồi GCC lấy vợ, thì bà cụ còn cái nhà ở trên Phú Nhuận. Hai vợ chồng với thằng cu Tuấn ở căn nhà nhà nước cấp ở cư xá Bưu Điện số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn, gần Sở Thú.
Đám bạn bè vẫn thường xuyên kéo tới đánh phé, như khi chưa lấy vợ.
Một bữa, một đấng bạn quí, thua sạch túi, bèn hỏi mượn chủ nhà là Gấu Cái, để đánh tiếp.
Bả từ chối. Thế là anh ta đi vòng vòng quanh phòng, nhìn thằng bé đang nằm ngủ trong nôi kế đó, nói:
-Nè Gấu, sao thằng bé chẳng giống mày tí nào!
Cái ông bạn quí này, sau xin GCC tiền cọc mua căn nhà ở cư xá báo chí trên Thủ Đức.
Gấu Cái kể cho bà cụ nghe. Cụ nói, sao không tống cổ nó ra khỏi nhà!

V/v nhà thơ & đầu nậu sách, và cuốn "Khiêu Vũ Với Tử Thần".

Ông này mướn GCC dịch. Đưa trước 1 tí tiền, Dịch xong, ông chê dịch dở.
GCC cũng bỏ qua, không bỏ qua thì làm gì nhau?

Thế rồi một bữa đẹp trời, Gấu nhìn lên sạp báo của mình, mình đang đứng bán ở trước cổng cư xá số 29 NBK Sài Gòn nhà mình, thì thấy cuốn sách của mình dịch, trong số những cuốn Gấu Cái mới mang về.
Thế là bèn chỉ cho bả thấy.
Thế là bà bèn tức tốc xuống nhà xb Văn Học, nơi anh đầu nậu kiêm thi sĩ làm việc, dưới quyền nhà văn VC Hoàng Lại Giang.
Bả cũng lịch sự mời ông đầu nậu ra quán nước phân bày.

Vừa nghe anh ta nói, “cái thằng Gấu ghiền xì ke…” là Gấu Cái  bèn phát điên lên, đang cầm ly nước trà nóng quạt hết vô mặt anh ta, mày là thằng nào mà dám gọi chồng tao là thằng xì ke? Mày mướn chồng tao dịch sách cho mày, mày chê không in, sao bây giờ cuốn sách nằm chình ình trên các sạp sách báo?

Hóa ra là anh ta không in, nhưng bạn anh ta lại thấy dịch được quá, đem in, cả hai đều đếch thèm biết đến thằng dịch, là Gấu Xì Ke!
Ông bạn của anh đầu nậu, nghe chuyện, hoảng quá, bèn lập tức tới nhà đưa tiền cho Gấu Cái, xin lỗi rối rít.
Chuyện tới tai HLG, ông cho mời Gấu Cái tới, và trước mặt ông, ông bắt tên người làm, tên Ngụy, đầu nậu kiêm nhà thơ, phải xin lỗi.

Hà, hà!