Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Cảnh đẹp VN
Thu
2011
Ðường Lippincott,
Toronto. Căn nhà bên kia đường, phía trước mặt, kế bên sân chơi của 1
ngôi
trường, là nơi tạm trú đầu tiên của vợ chồng Gấu.
Gặp lại cô
bạn ở đó. Cô tháo bao tay, bắt tay Gấu tự nhiên như người Hà Lội, nhưng
Gấu lại
nhớ đến cái lần cầm tay đầu tiên, trong 1 rạp chớp bóng Xề Gòn, khi
“sắp
sửa” đi lính,
[trình diện Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ Quang Trung], được cô thương
tình nhận
lời đi ciné…
Thế là run lên như… con thằn
lằn đứt đuôi [hình ảnh này chôm của Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, của TTT, khi
chàng
lên cơn sốt, chạy dưới mưa, vô Bưu Ðiện Ðà Lạt, đánh cái điện cầu cứu
cô học trò
Oanh, SOS, SOS!...].
Gấu Cái giận run lên…
Hà, hà!
Căn nhà thuộc 1 cơ sở từ
thiện, chuyên lo tiếp nhận người tị nạn. Có
lần, cũng
đã lâu lắm, Gấu có ghé, đứng bên ngoài nhìn vô, thấy thấp thoáng mấy
người tị nạn
vùng Ðông Âu có thể, tính vô gạ chuyện tào lao, hoặc nếu có thể đi lên
lầu, vô căn phòng ngày nào chứa vợ chồng Gấu, đúng vào 1 đêm cực lạnh,
sờ vô cái ống sưởi rất xưa, nhưng ngại sao đó, bèn bỏ đi.
Con phố nhỏ, ăn
ra, phía trước mặt người đàn bà trong hình, con phố College, một phố
chính của downtown Toronto. Có tiệm sách cũ mà Gấu vẫn thường ghé, từ
những ngày đầu tới thành phố, 1994.
Lần này, ghé,
chủ yếu là để kiếm cuốn này. Sách mới xb, chỉ ở đây mới có, của những
người cần
tiền, mua xong, đọc xong, là phát mại liền, để lấy lại vốn.
Cuốn này tác
giả của nó, cũng là 1 cư dân của Toronto.
Cuốn trước Bịnh
Nhân Anh, quá hay, không biết ở trong nước có dịch?
Cuốn này cũng thật tuyệt, theo giới điểm sách.
Và chắc là tuyệt thật.
Thực sự mà nói, Gấu không
khoái Murakami. Không hiểu sao trong nước, và luôn cả
thế giới mê ông này quá.
Một phần
không ưa, là do không khoái những màn tả sex. NTV có lần nhận xét,
không hề có
tí hôn hít gì trong truyện của ông. Gấu bèn "phản biện", có cái xen cô
học trò đang
ăn, môi bóng nhẫy, Gấu thèm quá, hỏi xin, cô láu lỉnh trả lời:
Trời đánh còn tránh
bữa ăn!
Bụi
Gấu tò mò đọc ông, chỉ vì
cái câu, mà sau này biết, em Minh Tran Huy
cũng rất
mê, và viết cuốn tiểu thuyết đầu tay để vinh danh:
Nói rộng
hơn, quyển tiểu thuyết là để vinh danh Murakami,
và nhất
là, những gì người Nhật gọi là "mono no aware", “nỗi buồn cháy da,
cháy thịt của những sự vật”; (1) đó là cảm nhận xâm chiếm tâm hồn khi
nhìn lá
thu rơi, hay khi người thân đi tới một chỗ quẹo rồi biến mất. Tôi muốn
câu chuyện
«Cô Công Chúa và chàng chèo thuyền» gợi lên một cảm nhận buồn man mác
của những
gì đã có và bây giờ không còn.
Phỏng vấn MHT
Tôi cho rằng, chúng ta sống
trong một thế giới, cái thế giới “này”
(“ce” monde), trong khi còn có những thế giới khác cận kề ngay bên cái
thế giới
“này” đó. Nếu bạn thực tình mong muốn, bạn có thể chui qua tường, nhập
vào một
vũ trụ khác. Một cách nào đó, có thể vượt cái thực, cõi thực này. Đó là
điều
tôi cố gắng làm, ở trong những cuốn sách của tôi. Đây là một quan niệm
rất Đông
phương, rất Á châu, theo như tôi hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc,
người ta coi
như có hai thế giới song song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép,
không khó
khăn là mấy, qua lại giữa hai bên. Ở Tây Phương, làm gì có một quan
niệm như
vậy, thế giới-này là thế giới-này, thế giới-kia là thế giới-kia. Sự
cách biệt
thật là quyết liệt, thật là khắt khe, tôi muốn nói giữa “này” với “kia”
đó. Bức
tường quá cao, làm sao vượt, làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á
Châu, khác
hẳn. Và “mono no aware” diễn tả, theo như tôi cảm nhận được, tình huống
này.
Trong Bài ca của sự bất khả,
có sáu nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất
và qua
thế giới bên kia - họ tự tử. (1)
Ba kẻ còn lại trong thế giới này, sau cùng biết, hiểu ra là, cũng nhấp
nha nhấp
nhổm (instable), vô thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một hình thức của
“mono no
aware”. Điều lạ, là, khi tôi bắt đầu viết Bài ca của sự bất khả, tôi có
ý tưởng
theo đó, ba trong sáu nhân vật sẽ biến mất, nhưng không biết là ai.
Trong khi
viết tôi tự hỏi chính mình, ai sống, ai chết.
Murakami trả lời Le Magazine Littéraire
Minh Trần Huy phỏng
vấn Murakami
*
(1) Thanh Tâm Tuyền, chắc chắn
chẳng hề biết, và, chưa từng đọc
Murakami, khi viết Một Chủ Nhật Khác,
nhưng đã để nhân vật Kiệt của
ông, đưa
tiễn người tình, Hiền, tới "chỗ đó", rồi lại trở về. Độc giả Một Chủ
Nhật Khác, dù tò mò cách mấy, cũng không hiểu được, và đều như
Duy, bạn
của
Kiệt, đều muốn hỏi Kiệt, Hìền đâu rồi.
*
Sau này Duy hiểu buổi tối ấy đang hồi nguy kịch của đôi tình nhân. Họ
quyết
định chia tay vĩnh viễn. Họ đã không thể bình thường từ biệt nhau. Cũng
không
ai đủ can đảm rời bỏ trước. Mọi quyết định đều gian nan. Duy giúp họ
lìa tách
làm hai. Để họ một mình với quyết định đau đớn chưa rõ những ngày cuối
của cuộc
tình ấy như thế nào. Họ có thể liều lĩnh nhắm mắt lao tới như kẻ ngu
ngốc,
nhưng họ cũng có thể tháo lui vội vã như kẻ tội lỗi. Cả hai đường đều
tồi tệ,
phủ nhận những ngày họ đã sống, phủ nhận điều mà họ đã tin là tình yêu
của họ
qua bao năm tháng. Duy nghĩ thế...
Em là đàn bà, em hãy tưởng
tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi
rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả
anh về cho
em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở
về, còn
nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở
về với
em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu….
Một Chủ Nhật Khác
Lạ, là, sau
khi BHD đi rồi, thì Gấu mới biết ra được, cái nỗi buồn cháy da cháy
thịt, khi mất
em.
Vào lúc mất
em, thì chỉ tính bợp cho em vài cái, rồi bỏ đi.
Cái lần gặp sau cùng ở
cổng trường
Ðại Học Khoa Học, Sài Gòn.
Gấu phát hiện
Murakami, là do đọc 1 bài viết về ông, trên tờ Người Nữu Ước, nhân lần bản tiếng
Anh Ký Sự Chim Vặn Cót ra mắt
độc giả. Khi đó, trong nước, và thế giới
chưa mê ông
như bây giờ.
Oe lúc đầu cũng chê Murakami, mãi sau này, mới chịu nổi,
khi Murakami viết về những vấn đề xã hội Nhựt thực sự đang phải đương
đầu.
The Opium Wars
Chiến tranh nha phiến
Be careful what you wish
for
Hãy cẩn thận điều anh mong ước
“Who controls the
past
controls the future. Who controls the present controls the past.”
Kẻ nào nắm quá khứ, nắm tương lai. Kẻ nào nắm hiện tại, nắm quá khứ.
George Orwell
Note: Bài điểm thú quá.
Cái hình lại càng thú!
Trân trọng
giới thiệu
Thơ Mỗi Ngày
BUTTERFLIES
Phan Hải-Đăng.
Brodsky trong Bar Saigon. Những thánh ca…
Motets
from Florida
VIA DEL
TRITONE
In Rome, on
the street of that name,
I was
walking alone in the sun
In the
noonday heat, when I saw a house
With
shutters closed, the sight of which
Pained me so
much, I could have
Been born
there and left inconsolably.
The ochre
walls, the battered old door
I was
tempted to push open and didn't,
Knowing
already the coolness of the entrance,
The garden
with a palm tree beyond,
And the dark
stairs on the left.
Shutters
closed to cool shadowy rooms
With
impossibly high ceilings,
And here and
there a watery mirror
And my pale
and contorted face
To greet me
and startle me again and again.
"You
found what you were looking for,"
I expected
someone to whisper.
But there
was no one, neither there
Nor in the
street, which was deserted
In that monstrous heat that gives birth
To false
memories and tritons.
Charles Simic
VIA DEL
TRITONE
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một
mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa,
và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn
cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát,
là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc,
không người an ủi.
Tường màu gạch
son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy
cửa, nhưng không làm
Biết rõ cái
lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn vào căn nhà,
Căn vườn với
1 cây sồi quá nó,
Và những cầu
thang u tối ở phía trái.
Rèm cửa đóng
dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị
thật là cao
Và đâu đó, là
một cái gương long lanh nước
Và khuôn mặt
của tôi nhợt nhạt, méo mó
Ðón chào tôi,
và làm tôi giật mình hoài
"Mi kiếm ra cái mà mi tính
kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người nửa cá
One poem is
unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not
have
recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal
images. It begins simply:
In Rome, on
the street of that name,
I was
walking alone in the sun
In the noonday
heat, when I saw a house
With
shutters closed, the sight of which
Pained me so
much, I could have
Been born
there and left inconsolably.
Simic goes
on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm
tree, dark
stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you
were
looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous
work, has Simic expressed the pain of his exile in such a
straightforward way.
His outsider's status was always an advantage, teaching him that life
was
unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of
his
poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most
fragile
of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you
reclaim a
childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall.
His are
"false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the
place where his childhood should have been, salvage becomes less
possible. The
poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost,
/
If it was ever, however briefly, mine."
Lisa Sack: Charles
the Great: Charles Simic’s A Wedding
in Hell
Bài thơ này
thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình
ảnh siêu
thực.
Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:
Ở Rome, trên
con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một
mình trong ánh mặt trời
Nóng ban
trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm
màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một
phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể
sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc,
không người an ủi.
Sau đó, tác
giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ,
trong những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách
thẳng thừng
như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông
rằng đời
thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở
đây, nỗi
đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất.
Ông làm
sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không
như
Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do
cái nóng
khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra
tuổi thơ
xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ
trang giấy:
Hãy giúp tôi
tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã
từng là của
tôi.
Thơ
JHV
So với TTT,
thì JHV quá mờ nhạt, và có thể, anh muốn như thế. Cõi thơ của anh, phải
đến lúc
gần mất Miền Nam thì mới trình ra, giữa một dúm bạn bè và một dúm
độc giả của
Tập San Văn Chương.
Anh biết, chúng "kén" độc giả?
Anh nhận xét
về Gấu, lụy tình cảm. Anh than với NLV trong những lần nhậu giữa
hai người,
“Tội thằng Trụ, tội thằng Trụ quá”.
Bà Trẻ của Gấu cũng nhận xét y
chang, mày lụy
vì tình, nếu không, đi tu được, thành con, thành đệ tử của Phật được
Ui chao, chính tình cảm làm lụy Gấu, nhưng cũng
chính nó, lại cứu Gấu vào lúc chót đời.
Sau 1975, có
1 thời gian Gấu hay gặp JHV, khi làm 1 anh đi mua thứ nước uống có mùi
bia, ba
thứ Nắng Mới, Lúa Mới gì gì đó, nhan nhản khắp thành phố Sài Gòn, trong
khi chờ đợi đất nước xuống hố sâu thêm một mức nữa, là cái thời kỳ mở
cửa về
kinh tế, nhưng
hãy bịt miệng mà sống, mà uống Hê Nê Ken, XO…
Chả là lúc đó,
có ông cán bộ, nhà ở phía bên ngoài chung cư 29/8D, trên con đường
Nguyễn Bỉnh
Khiêm, mở một quán nhậu, cần một người đi lấy ba thứ bia dởm nói trên.
Con bé lớn
thì đứng bán hàng, nó cũng giống mẹ, tức Gấu Cái, nghĩa là cũng có tí
nhan sắc, thế
là cũng có khá nhiều khách lui tới, Gấu Cái lúc này do làm ăn ba thứ
giấy tờ dởm,
bị Cớm VC truy lùng, đưa vô danh sách “Most Wanted”, đâu dám về nhà.
Một trong
những cơ sở sản xuất bia cà chớn trên, gần xưởng mộc của nhà thơ JHV.
Thế là Gấu,
sau đi nộp đơn, chờ đến phiên mình, cho thằng con trai đứng vô hàng,
còn Gấu ghé thăm JHV.
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương tưởng Dương
Cầm Thu
Phố ươm nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu
Hoàng Hoa
Phố thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa Dương Cầm
Nâu
Phố khuya hát ngàn sông. Rêu nhớm rễ
Âm níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương
mù
Phố điêu khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang bóng đến
ngàn sau
Phố ngực nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần sầu. Chất
viril [chất đực], chất eros [chất
huê tình], chất sauvage [dã man, tàn bạo]... nhưng cũng thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc tình sầu.
Thơ NLV âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi Giáng, rồi tới Thanh Tâm
Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng kia không hề có].
Có lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa khoá vô cõi thơ NLV. Có NTN, lần
anh
viếng thăm Mẽo, và nhà thơ này gật gù, đúng, mỗi cõi thơ là mỗi chìa
khoá. Thơ
của tôi, chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ Đường.
Nói chung, thơ của mấy ông này, chìa khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả.
Trừ Joseph HV, cõi thơ Ky Tô,
giống của Brodsky.
Trừ TTT, cõi thơ trí tuệ, gần cõi thơ Milosz, nhưng lại thiếu cõi quê
của
Milosz.
Cõi quê như chính ông tâng bốc:
It is good to be born in a small country where nature is on a human
scale,
where various languages and religions have coexisted for centuries. I
am
thinking here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le
với con
người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang
nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Với TTT, thì đây là Đất Bắc mà
ông đã từ bỏ, và khi trở về, thì như một tên tù:
Chiều cuối năm qua
xóm
nghèo
Mưa
bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78 (Thơ
ở đâu xa)
Note: Thơ NLV âm vang thơ của
những bậc đi trước ông.
Chúng ta phải hiểu câu này, trong cái dòng của câu của Dos, như bài
điểm cuốn
Dead Souls, dưới đây:
Chúng ta đều chui ra từ Chiếc Áo Khoác của Gogol:
The famous remark often attributed to Dostoevsky that "We all emerged
from
Gogol's overcoat" (a reference to Gogol's story of 1842) remains more
accurate.
Thơ NLV quả là đã chui ra
từ cái áo khoác, là cõi thơ Miền
Nam, tụ vào mấy đấng Joseph Huỳnh Văn, Bùi Giáng, và TTT.
Tại sao trong cõi thơ đó, không có, thí dụ TTY?
Thơ TTY, là dòng thơ cảm khái, có từ ngàn đời, và đời nào cũng có. Nhà
thơ giáo
chủ Tân Hình Thức gọi, đây là thơ biên tái, biên đình.
*
Nhà thơ Milosz viết, trong bài viết ‘Về Brodsky’ trong “Bắt đầu nơi tôi
là”:
Điều sâu thẳm nhất mà ông ta [Brodsky] nói về Akhamatova, và có lẽ đây
là những
từ sâu thẳm nhất, chưa từng được nói ra, về cái gọi là tiến trình sáng
tạo
nói
chung, là, rõ ràng là bà quá đau khổ khi viết Kinh Cầu. Nỗi đau con bị
tù của
bà là thực, nhưng khi viết về nó, bà cảm thấy như giả đò, giả vờ, gượng
gạo,
[falsehood], chính là do bà phải vận nỗi đau của mình thành vần thành
điệu [she
had to shape her emotions into forms]. Và chính cái gọi là “form”, sử
dụng tình
cảm đau thương cho mục đích của riêng nó, làm tê liệt nó, như nó vẫn là
như
vậy.
Source
Akhmatova bị
ông con trai từ, vì 'phổ thơ' nỗi đau khổ của gia đình, là cũng theo
nghĩa đó.
Trong Chuyện
trò với Volkov, Brodsky phán, tụi mũi lõ Tây Phương có thể hiểu
được Dos, và chính
vì thế mà ông rất ‘phổ thông’, đại chúng ở đó. Nhưng sức mấy mà hiểu
được
Akhmatova.
Nhân đó, ông nói về cái sự khác biệt giữa thường nhân và nghệ sĩ, thứ
như Akhmatova, mà, “Như một thi sĩ, qua cái miệng bị tra tấn của người
đó, hàng
trăm triệu con người than khóc… bà [Akhmatova] đã ghi nhận chuyện từng
ngày của
những năm tháng khủng khiếp. Thật nguy hiểm khi viết ra bài thơ [Kinh
Cầu].
Trên 5 năm trời, bài thơ được ghi vội vào những mẩu giấy nhỏ, được ghi
vào ký ức
của những người bạn tin cẩn, rồi đốt bỏ những mẩu giấy. Trở thành mục
tiêu chiến
dịch khủng bố mang tính ý thức hệ, do Stalin đề xướng vào năm 1946, bà
bị đối xử
tàn tệ đến khi Stalin chết."
Source: Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Chúng ta có
thể suy ra trường hợp PD chỉ tới đỉnh, khi phổ nhạc thơ.
GCC gọi, đây là hiện
tượng doping.
Mấy thứ làng
nhàng kia, là nhờ gái. Cũng doping vậy, Cứ mỗi lần làm thịt một em là
có
1 tuyệt tác để đời.
GCC ngu quá, coi BHD như... thánh nữ, thành ra chẳng có tác phẩm
lớn, cho dù chính em… xúi, cái thứ tình yêu chỉ có "chiêm ngưỡng và
kính trọng"
làm H. sợ!
Hà, hà!
Ông bạn thân
từ hồi còn đi học, nick Lủng, mail, cho biết, đã đọc hết Những Ngày Ở Sài Gòn,
chỉ chịu được có mỗi 1 truyện Những
Con Dã Tràng, và phán BHD của mi cũng thứ
xoàng, tình thuở mới lớn, không có gì mà ầm ĩ!
Ui chao, GCC
cũng nhiều khi nghĩ như thế, và nghĩ quá như thế, và cũng lầm về em,
chỉ đến
khi em đi rồi, thì mới ngộ ra, không phải như vậy. Em quyết định tất
cả, nhìn ra tất
cả, luôn cả cái kết thúc thê lương, liên quan cuộc đời của cả hai.
Có 1 anh bạn,
cũng bạn văn, cũng rất thân, quen từ hồi mới bắt đầu viết, nhận xét về
BHD: Rất
trẻ con, nhưng lại quá già dặn, rất giống cái cô gái bé tí trong phim Les Dimanches de Ville
d’Avray.
Có lẽ thế thật.
Trang TV, sở
dĩ viết hoài còn hoài, là nhờ BHD. Mỗi lần Gấu đuối quá, là em xuất
hiện, thui mà,
viết tiếp đi... Cũng được đề nghị đầu thai mấy lần rùi, nhưng I'll Be
Right
Here
Waiting
For U!
Pilote de
guerre en Indochine, Pierre croit avoir tué une petite fille en
bombardant un
village. Quelques années plus tard, sur le quai de la gare de
Ville-d'Avray où
il accompagne son amie Madeleine, il rencontre Françoise, une fillette
de 12
ans, abandonnée par sa mère et que son père a placé dans une
institution
religieuse. Se faisant passer pour lui, Pierre prend l'habitude de la
sortir
tous les dimanches. Une tendre et pure amitié s'établit entre eux. Mais
les
braves gens s'inquiètent...
Trong bài viết
về Hoàng Ngọc Tuấn, Võ Chân Cửu cho biết
1 chi tiết về JHV thợ mộc:
Năm 1976, tôi dỡ nhà dẫn vợ con đi kinh tế mới. Rồi không sống nổi nên
về lại
Quy Nhơn đi làm. Năm 1981 tôi đưa vợ con về lại Sài Gòn, cất lại căn
chòi trên
nền đất nhà cũ gần ga xe lửa Gò Vấp. Những người sáng tác còn lại ở Sài
Gòn rất
thương mến nhau, trừ những người tay đeo băng đỏ,. Lúc này cứ 2-3 ngày
một lần
thì Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác… Có khi có Cung Tích Biền, họa sĩ
Khánh
Trường lại hẹn đến căn chòi của tôi, cùng mang theo đồ nấu ăn, uống
rượu “Cây
Lý”. Thấy cảnh gia đình tôi không có giường nằm, Nguyễn Lương Vỵ cho
một giường
sắt cũ, anh Joseph Huỳnh Văn làm thợ mộc, chở về tặng một chiếc
đi-văng... Từ
đó, cứ chiều tối là Tuấn đến nhà tôi tá túc trên chiếc giường sắt. Riết
rồi chiếc
giường sắt nhỏ đó như dành riêng cho Hoàng Ngọc Tuấn. Anh tha hồ nằm
nút liên tục
những điếu “thuốc củi”, nghe tiếng tàu chạy, nghĩ ngợi vu vơ. Thuốc củi là tên
gọi loại thuốc điếu do người nghèo Sài Gòn sáng chế bằng cách quấn lá
đu đủ khô
trong giấy tập, một bó 50 điếu, đem bán đầy đường. Tôi kỹ lưỡng hơn nên
chịu
khó quấn thuốc rê trong giấy pơ-luya. Chắc mầm bệnh ung thư thanh quản
khởi nguồn
từ thuốc củi ?
TTT 2011
Trang thơ Tomas Transtromer
Nobel 2011
Night
Thoughts
Ghi
chú
trong ngày
DTH par Minh Tran Huy
DTH trả lời
Minh Tran Huy trên tờ Books, Sept
2011:
Tôi tháo mẹ mấy cái bù long tượng Bác H.
Nhìn hình,
biết ngay Bắc Kít!
Hà, hà!
Câu trên, Gấu
thuổng VTH, nói về GCC, qua 1 anh bạn Bắc Kít, hồi ông mới ra hải
ngoại, ngạc nhiên
khi có người hỏi ông về dòng văn học hải ngoại:
-Có cái đó ư?
Anh bạn nhà
thơ ra đi từ Miền Bắc gửi cho VTH mấy bài viết của Gấu, đề nghị ông
đọc, ông
mail trả lời, tôi bận lắm, đâu có thì giờ.
Sau, chắc có liếc qua, và mail tiếp:
-Thằng khốn này
chắc chắn phải là Bắc Kít!
TV sẽ post và
dịch bài phỏng vấn, sau.
Cấm xb tại tại
VN, nhà ly khai DTH cho ra mắt tại Pháp cuốn mới của bà Giáo đường của con tim.
Bà trình bày, và phát triển ở trong đó, những mâu thuẫn, xung đột của
những thế
hệ tiếp nối nhau, trong một xã hội càng ngày càng tan rã, rách mướp.Và,
lại một lần nữa, bà giải thích, bằng hạnh
phúc, tâm hồn một xứ sở, chẳng bao giờ thoát ra được cơn chấn thương
của cuộc
chiến
Cuốn tiểu
thuyết mới của bà, Giáo đường của con
tim, trình ra một thiếu nữ, bỏ nhà đi
hoang, rồi buông mình làm điếm. Liệu đó
là cách bà miêu tả Việt Nam đương thời?
Giáo đường
con tim nói về 1 đề tài muôn thuở: những liên hệ gia đình, chúng
giữ 1 vị trí
quan trọng ở Á Châu. Việt Nam đã nhiều năm sống trong chiến tranh, như
bạn biết,
và sự trở lại bình thường làm bật ra những hiện tượng cũ xưa, gần như
không còn
nhớ, như những cuộc mâu thuẫn xung đột giữa những thế hệ. Rất nhiều con
cái của đám chức sắc, Trùm CS ngập vào rượu, ma tuý, bê tha, trụy lạc,
đĩ điếm. Những đứa
khác thì ăn thịt lẫn nhau, có thể nói như vậy. Ðó là thực tế, thực tại,
sự thực.
Ðặt ra 1 vấn đề như thế, nhưng tôi không muốn tác phẩm của mình như là
1 tác
phẩm báo chí, mà là tiểu thuyết. Cái đề tài sự "trở về của đứa con
hoang đàng" thì
vĩnh hằng; tôi chỉ giản dị đưa nó vô xã hội Việt Nam. Huyền thoại này
ám ảnh tôi
từ khi tôi còn là 1 đứa bé 16 tuổi, một lần nhìn thấy 1 tấm tranh Nga
xô, về đề
tài này. Tôi viết Giáo đường của con
tim là để giải phóng mình ra khỏi nỗi ám ảnh
đó. Vả chăng, cuốn sách còn là miêu tả những người đàn bà nổi loạn
chống lại sự
thống trị của ý thức hệ phụ quyền. [Nói theo kiểu của thằng cha Gấu
“nào đó”,
thì đây là cuộc nổi loạn của gái Bắc Kít chống lại thằng bố Bắc Kít].
Những thằng
đàn ông Việt Nam lâu nay xử sự như là người-khỉ: những tên già thì có
quyền làm
chuyện dâm ô với những phụ nữ tuổi chỉ đáng con, đáng cháu của chúng.
Và điều này
không gây sốc cho bất cứ ai. Chuyện thường ngày ở huyện VC là như thế.
Và đàn bà
không có quyền lên tiếng...
Những độc giả Việt Nam bảo thủ thường chỉ trích tôi,
họ cho rằng tôi đã dành 1 chỗ rộng lớn cho sex, cũng như chuyện riêng
tư, chuyện
phòng the, và như thế là vô đạo đức, mất phẩm hạnh. Những lời chỉ trích
như thế
thoát thai từ 1 thứ tâm lý Á Châu, về sự sử dụng 1 thứ ngôn ngữ “lưỡi
gỗ”, phổ
biến từ lâu ở vùng đất này. Theo tôi, đây là giả đạo đức, và hèn nhát.
Tôi giữ
vững lập trường của mình, viết những gì, như là chúng xẩy ra.
Viết
thêm về… ăn cướp.
Trên
Blog THT có giới thiệu cuốn trên, và có lời “cảnh báo”, ai muốn
trích lại
những entries thì phải nói qua với “khổ chủ”.
Cho đến nay, trang TV có mặt trên net trên 10 niên, và
chưa từng
được một ai trích dẫn mà hỏi xin phép “khổ chủ” cả.
Cuốn
trên, Miền Nam trước 1975, Lý Quốc Sỉnh đã dịch, là, “Những cuộc phiêu
lưu trên
lưng ngỗng”.
Ðây
là 1 cuốn mà Gấu hơi bị ấn tượng suốt 1 thời mới lớn.
Trong
có mấy xen nhớ đến già. Thí dụ, cái xen Nils cố cứu con đại bàng, hay
chim ưng
Góc Gô [?] gì đó, bị con người săn bắt được, nhốt trong Sở Thú, cho con
nít
coi, hình như vậy. Và anh đại bàng, thay vì bay trên trời cao, vượt
đỉnh trời
này tới đỉnh trời khác, khi bị nhốt, cũng vẫn bay, nhưng ở trong những
giấc đại
mộng, và khi Nils cố cắt lưới, cho anh đại bàng ra được bên ngoài với
tự do,
thì anh thoạt đầu lắc đầu... Anh Góc Gô đó, là Gấu, cho đến khi ra được
hải ngoại.
Xen thứ nhì
là Nils lạc vào 1 thành phố ở dưới biển, đi lang thang shopping, và
khi thấy 1 món đồ kỷ niệm đẹp quá, tính mua, thì gần như tất cả cư dân
của nó mở
mắt lớn ra nhìn, nhưng sau cùng Nils lắc đầu, vì quên bóp ở nhà!
Hoá
ra đây là 1 thành phố bị Chúa nguyền, vì tha hoá, và chỉ 1 khi có 1
người nào bỏ
tiền ra mua, chỉ 1 món đồ, do cư dân của nó lao động làm ra, thì lời
nguyền của
Chúa mới được gỡ bỏ.
Cả hai xen
trên, theo Gấu, đều như nhắm vào cái xứ Bắc Kít, và những
con người
của nó, không phải đám thứ dân, hay những kẻ nghèo khổ mà là tầng lớp
tinh anh, gần như ai cũng có tí mùi chiến lợi phẩm....
Ðể
bóp ở nhà mà bắt người khác phải xin phép!
30.4.2010
Si tu lis les premières pages
du Manifeste communiste, c'est le
plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những trang đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì
đó là những trang vinh
danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannah Arendt
Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay
VC thổi nào là
những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa
xứng với
nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi
đời này,
là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!
“Nó” liên quan đến cái cực tốt,
và cái cực xấu của cái gọi là Bắc
Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ
nó có
giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra… Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp
thế giới,
biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là
họa
Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!
Giống dân nào, được nhân loại
nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó:
Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!
Biến cả thế
giới thành bãi đánh hàng; “bầy chim bỏ xứ” đếch ai chứa, Mẽo chứa, đến
lúc VC giơ
bịch tiền đô ra nhử là bỏ về, không 1 tiếng cám ơn; mở blog thì dùng
server chùa,
ngay đến cái Nobel thì cũng được mũi lõ nuôi nấng dậy dỗ mà có được,
vậy mà phải
xin phép khổ chủ đấy nhé!
Coi blog của
tụi mũi lõ, có thằng nào khốn nạn như thế không? Chúng chỉ yêu cầu, nếu
lấy,
thì nhớ ghi nguồn.
Tờ NYRB, trước, cho đọc hết tờ báo giấy, sau bị giới báo giấy cằn nhằn,
mới
thôi.
Chúng muốn nói, thằng nào có tiền, mua, OK, thằng nào muốn đọc free,
tha hồ.
Cái cuộc chiến
vừa qua, ngay đám Bắc Kít, thì cũng chưa có một tên nào nhìn ra cái đẹp
thần sầu
của nó. Cái đẹp thần sầu này là kết tinh của tất cả những gì làm nên
con người
Mít, và khiến cho giống dân này còn trường tồn cho đến ngày này, trong
khi nhiều
giống dân bảnh hơn nó, tạo ra những nền văn minh hiển hách hơn nhiều so
với cái
thứ văn minh sông Hồng, đỉnh cao của nó là cái Nobel Toán, vậy mà cũng
chìm vào
quên lãng.
Chính cái
làm cho nó không bị tiêu diệt, đến đúng ngày 30 Tháng Tư, trở thành cái
tiêu diệt
nó, hai mặt của một đồng tiền, là vậy.
Moi, je
traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry
viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le
châtiment.
Gấu cũng có
thể nói như thế [Bảnh thật!]: Tớ mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít,
đâu phải
chúng!
Gấu đọc ba
cái “nhìn lại cuộc chiến” của chúng là thấy tởm, là vậy!
"HE
GRABBED THE BOY AND TOSSED HIM ... INTO THE AIR."
THE
WONDERFUL ADVENTURES OF NILS
… there was
a city on this shore, called Vineta. It was so rich and so fortunate,
that no
city has ever been more glorious; but its inhabitants, unluckily, gave
themselves up to arrogance and love of display. As a punishment, says
Bataki,
the city of Vineta was overtaken by a flood, and sank into the sea. But
these
inhabitants cannot die, nor is their city destroyed. And one night in
every
hundred years, it rises in all its splendour up from the sea, and
remains on
the surface just one hour."
"Yes,
it must be so," said Thumbietot, "for this I have seen."
"But
when the hour is up, it sinks again into the sea, if, during that time,
no
merchant in Vineta has sold anything to a single living creature. If
you,
Thumbietot, had only had ever so tiny a coin to pay the merchants,
Vineta might
have remained up here on the shore; and its people could have lived and
died
like other human beings."
"Herr
Ermenrich," said the boy, "now I understand why you came and fetched
me in the middle of the night. It was because you believed that I
should be
able to save the old city. I am so sorry it didn't turn out as you
wished, Herr
Ermenrich."
He covered
his face with his hands and wept. It wasn't easy to say which one
looked the
more disconsolate – the boy, or Herr Ermenrich.
Source
GCC lướt
internet, mò ra cái xen nói trên. Hoá ra là anh cu Nils có “mission”
cứu thành
phố Hà Lội, bị Chúa nguyền phải sa xuống “đáy địa ngục” [chữ này của Tạ
Tỵ],
nhưng "vấp ngã" [chữ này của cớm & biên khảo gia & nhà thơ],
chán thế!
Oe, lần đi
Stockholm lãnh Nobel, cứ nghĩ mình đang ở trên lưng một chú ngỗng, như
Nils.
Người được
trao cho sứ mạng, cứu, không chỉ 1 thành phố Hà Lội, hay Xề Gòn, mà cả
1 dân tộc,
đất nước Mít, là ông có cái "bỉu bói" Nobel.
Chỉ ông ta, "đỉnh của đỉnh" của văn
minh Sông Hồng, mới làm được điều này.
Nhưng không hiểu sao, Bắc Bộ Phủ biết được,
ra đòn trước, bằng cách lấy cái nhà ra nhử, thế là ô hô ai tai.
Trả lời Minh
Tran Huy, DTH cho biết, bà cũng được Nguyễn Văn Linh đưa cái nhà ra
“dzụ”,
nhưng bà lắc đầu.
Cuốn tiểu
thuyết đầu tay chưa có của GCC
Ghi
chú
trong ngày
Ngàn Lẻ Một Ðêm
|
|