Công an Việt
Nam tỏ ra cứng rắn hơn đối với người biểu tình trong hai tuần qua.
GNV đã phán
rồi, tớ đếch phải con chiên ở địa hạt này!
Cái sự đồng
lõa giữa VC/Bắc Kít và TQ, nó khủng khiếp lắm, chỉ chúng biết với nhau
mà thôi.
Nhưng chứng cớ thì lại nhãn tiền:
Không có sự trợ giúp của TQ, làm sao cướp được
Miền Nam?
INTERNET
ET LE «
PRINTEMPS ARABE »
Internet và
"Mùa Xuân Ả Rập"
Le rôle des
médias électroniques dans les révolutions de Tunis et du Caire confirme
leur
utilité pour la démocratie. Mais le cyberpessimisme n'est pas mort.
LE LIVRE
The Net
Delusion. The Dark Side of Internet Freedom: Ảo
tưởng Net. Mặt tối của Tự do Net
(“L'illusion
Internet. la face cachée de la liberté numérique »), Public Affairs,
2010.
L'AUTEUR
D'origine
biélorusse, Evgueni Morozov vit aux États-Unis. Après avoir travaillé
pour une
ONG d'aide au développement des médias dans l'ancien bloc soviétique,
il
enseigne à l'université de Georgetown et anime l'influent blog Net
Effect,
consacré aux effets politiques d'Internet:
http://neteffect.foreignpolicy.com/
Dans son
dernier livre, Morozov réfute point par point la thèse selon laquelle
Internet
est le meilleur allié de la démocratie.
Une année
change tout sur le Net, dans le domaine technique comme dans le domaine
théorique. À preuve, le débat entre « cyberutopistes », qui pensent que
la
Toile est le meilleur allié de la démocratie, et « cyberpessimistes ».
Dans son
numéro 12 (avril 2010), Books avait
mis face à face deux des plus fameux théoriciens de l'Internet: un
optimiste à
tous crins, Clay Shirky, et le très réticent Evgueni Morozov. Pour le
premier,
qui écrit pendant les émeutes de Téhéran de 2009, Internet et les
médias électroniques
vont avoir raison de toutes les dictatures car ils diffusent
l'information
interdite et permettent d'organiser la contestation. Morozov, en
revanche,
estime que non seulement ces techniques n'ont pas sauvé le soulèvement
iranien,
mais qu'elles ont pu en précipiter la fin. Dans son dernier livre, The Net Delusion, il « développe le
meilleur et le plus complet argumentaire écrit à ce jour pour combattre
l'idée
qu'Internet est une force libératrice », rapporte Steve Coll dans la New York Review of Books.
Avec le
recul, dit Morozov, on s'aperçoit que Twitter n'a pas joué dans
l'affaire iranienne
le rôle qu'on lui avait prêté (on avait même suggéré de nobéliser
l'entreeprise
!). Il n'y avait à l'époque que 19000 comptes Twitter iraniens, mais 60
seulement localisés en Iran même, bienntôt réduits à 6. Car le régime
de
Téhéran a vite compris le danger, vite compris aussi que les techniques
électroniques peuvent être efficacement retournées à des fins de
manipulation,
de désinformaation, voire de traque policière.
Morozov énumère
ainsi les effets pervers et antidémocratiques d'un Net ouvert à tous,
et pas
seulement aux «cyberdissidents »,comme s'en sont vite avisés certains
autocrates. Hugo Chavez inonde les jeunes Vénézuéliens de tweets à sa
gloire.
Dmitri Medvedev endort le public russe avec un prétendu cybercahier de
doléances où chacun peut poster (avec prudence) ses récriminations. En
Thailande et en Chine, l'État encourage, voire rémunère, la délation
électronique, contre les sites suspects de lèse-majesté ou de
pornographie. Et
le Net, ajoute Morozov, est un formidable outil pour occuper les masses
et les
détourner de la politique : en Russie, au Vietnam et même dans la
pudibonde
Chine, on tolère, voire encourage le cybersexe pour dépolitiser les
jeunes;
pour les autres, la cyberconsommation suffit.
Cybermurs
Qui plus
est, la Toile est très vulnérable : le régime saoudien a pulvérisé le
site
d'informations critiques Tamaar, la Corée du Nord a infiltré le Web
sud-coréen.
Quand elle n'est pas victime de sa propre puissance : Google et
d'autres savent
désormais tout de chacun de nous - et cette mine d'informations ne sert
pas
uniquement des fins commerciales, comme le savent les terroristes.
Enfin, loin
d'être une « arme de construction massive» pour la démocratie, le Net
est aussi
le véhicule de toutes nos turpitudes, du nationalisme à la xénophobie,
du
mensonge officiel (“spinternet”) à l'activisme bidon des «
slacktivistes »
(pour lesquels l'adhésion à un cybergroupe donne l'illusion d'un
militantisme
politique sans engagement, sans risques et, généralement, sans effets).
Morozov
fustige l'illusion métaphorique qui attribue aux technologies
d'aujourd'hui les
mêmes pouvoirs démocratiques qu'à celles qui ont contribué à la chute
du communisme
- radio, télévision, photocopieurs. Mais les blogs ne sont pas des
samizdats et
les cybermurs sont beauucoup plus complexes, pervers, et difficiles à
abattre
que celui de Berlin.
Fort bien.
Mais, à peine quelques mois de passés, et voici le « printemps arabe»
qui vient
chambouler cette analyse. Tweets, blogs et autres WikiLeaks ont joué le
rôle
que l'on sait dans les soulèvements en cascade, et les dictateurs n'ont
pas pu
subvertir efficacement la communication numérique, ni même durablement
l'interrompre. Morozov a été vivement pris à partie: « Trop pesssimiste
»,
déclare Anya Schiffrin dans Prospect;
« brillant provocateur, mais complètement à côté de la plaque », éructe
Roger
Cohen dans le New York Times.
Pourtant, Morozov campe toujours sur ses positions: le Net est
intrinsèqueement
dangereux. Les « cybergrenades » sont dans toutes les mains, et pas
seuleement
dans celles des démocrates. Il a beau jeu de dire qu'il ne faut pas
être «
techno-naïf » : le télégraphe n'a pas provoqué de révolutions, le
chemin de fer
indien n'a pas entraîné, comme l'espérait Marx, la chute de l'empire;
et, sans
la radio, Hitler ne serait parvenu à rien. Si les nouvelles
technologies ont
joué un tel rôle dans le soulèvement égyptien, c'est parce que le
régime
n'était pas très au fait de leurs dangers comme de leurs mérites. +
Books Juin, 2011
Nhị
Bài viết,
theo GNV, tuyệt nhất về Romain Gary, trên TV đã từng giới thiệu, là Romain Gary: A Foreign Body in French
Literature, RG, một cơ thể lạ trong văn chương Tây, thực sự rút gọn
cuốn
sách của chính tác giả, Nancy Huston, Mộ
của Romain Gary, Tombeau de Romain Gary, 1995, qua đó tác giả coi
Gary muốn
làm một Chúa Giáng Sinh lần thứ nhì.
Và
điều mà tôi toan tính làm, là, sẽ thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề
ngoài xem
ra có vẻ quái dị khó tin, ông Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về mình,
và tạo
vóc dáng cho mình, y như là đây là Lần Tới Thứ Nhì: Romain Gary là một
tự xức dầu
thánh, tự phong chức, tự tái sinh, và, sau hết, một Chúa Cứu Thế Tự
Đóng Đinh
Chính Mình .....
Source
"Un
homme est passé"
Phim này
cũng thật là tuyệt.
"Distance is the soul of beauty”. Simone Weil.
Cái tuyệt của phim này, hay, linh hồn của cái đẹp của nó, là khoảng
cách giữa
hai lần coi. Lần đầu Gấu coi, tuyệt, nhưng khác lần coi sau này. Y
chang nghe
nhạc sến ở trong tù VC!
Hình như Gấu
đã kể về cái lần nghe bản “Xe lăn trong tim”, tức bản “Chuyến tầu hoàng
hôn”, ở
Ðỗ Hòa?
Cái
tay bảo vệ nông
trường, cũng tù, 1 anh nhóc con, chắc tù hình sự, lúc nào lúc lẩm nhẩm
bài này,
khi “chăn” đám tù, trong có Gấu
Thơ mỗi ngày
Trận bão chót
Một số người
bỏ đi
Một số khác
uống, trong im lặng
Chỉ có những
trận bão Tháng Tám gầm rú
[Mùa này gió
biển thổi điên lên lục địa]
Như một tên
điên la hét trên chiếc xe cứu thương.
Cành cây đập
vào má chúng ta.
Những chếc lá alder mùi ngủ và dầu rơm
Bạn hãy lắng
nghe, lắng nghe, lắng nghe.
Mùa xuân
mệt mỏi thở ở dưới nước.
Bốn giờ sáng.
Tia chớp cuối
cùng, cô độc,
vẽ loằng ngoằng.
thật lẹ, một cái gì đó lên bầu trời.
“Không”.
Hay
“Không bao giờ”.
Hay “Hãy can
đảm, lửa chưa tắt”.
RECONSTRUCTION
The
volcanoes, once so active,
are mostly
quiet now, my friend says,
no way of
telling us what they know.
And the
dinosaurs, bone by bone,
may have
been reconstructed,
but their
stories, too, largely remain
untold,
their skulls most likely full,
he says-like
prehistoric black boxes –
of
high-pitched, indecipherable screams.
All the
theories are wrong
about what
went wrong, my friend insists,
famous for
being more interesting
than right.
He says the volcanoes
helped the
dinosaurs thrive
in the
lowlands. On a tablecloth in ink
he
re-creates the scene-a topography
of little volcanic disturbances
that kept Tyrannosaurus rex
and other
big nuisances in check.
And then
there was a turning point,
he says, a
matter of vegetation
and scarcity
and greed. An old story,
he calls it,
as if simply affirming a fact-
the
dinosaurs, when it came to food,
never knew
how much was too much,
and given
the size of their brains
kept doing a
lot of almost forgivable
stupid
things. But he's heard himself,
and
seemingly amused is quick
to point out
that forgiveness
wasn't even
a concept yet, or a word,
still eons
away from
a certain
slithering and the likes of us.
-Stephen
Dunn
The New
Yorker, July 11 & 18, 2011
Ðổi mới, Tái cấu trúc
Núi lửa, có
1 thời hoạt động mạnh
Bây giờ hầu
như nguội lạnh, bạn tôi nói.
Thành thử chúng
không làm sao nói cho chúng ta biết, chúng biết gì.
Và những con
khủng long, từng cái xương, từng cái xương,
có thể được
tái cấu trúc,
nhưng những
câu chuyện của chúng, thì chưa được kể ra;
những cái sọ của chúng hầu hết thì đầy
ắp, bạn tôi nói –
như những hộp đen thời tiền sử -
với những tiếng la thét cực
cao, không làm sao giải mã được.
Mọi lý thuyết
thì đều sai lầm, bạn tôi nhấn mạnh,
chúng nổi tiếng
do rất ư thích thú, hơn là do đúng. Anh nói,
những núi lửa
giúp cho những con khủng
long phát triển ở những vùng đất thấp.
Trên một miếng vải mực, anh tái tạo
khung cảnh địa lý những nhiễu loạn của một núi lửa nhỏ,
qua đó quan sát Tyrannosaurus rex, và những phiền hà
lớn
khác.
Và rồi, xuất
hiện đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử
Anh bạn tôi
nói, đây là vấn đề vegetation, nôm na có nghĩa là, với sức người sỏi đá
cũng thành
cơm.
Và còn vấn đề
khan hiếm, háu ăn, do đói lâu quá nữa.
Ui dào, xưa
rồi Diễm ơi!
Bạn tôi nói vậy, để đơn giản vấn đề –
khủng long,
khi ăn, chúng không làm sao biết, thế nào là đủ;
và nếu căn cứ
vào cái sọ khổng lồ
làm sao mà
chúng không gây ra toàn những chuyện ngu đần mà vẫn có thể tha thứ
được.
Nhưng
anh như nghe thấy mình đang nói, và thích thú phán, rằng, sự tha thứ
thì
chưa được
coi như là 1 quan điểm,
hay, một từ, từ đời nảo đời nào,
so với đời của chúng
ta.
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi chỉ một câu hỏi
trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi
thấy hình như các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì
không
còn làm thơ được nữa? Hoặc giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không
ưng ý nên
không cho phổ biến? Nếu đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó
nằm ở
đâu? Trong khi tôi thấy các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn
sáng
tác được mà có khi còn hay hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần Dạ Từ trả lời:
Nhiều người khi lớn tuổi không
làm thơ nữa... Đây là điều thường
thấy ở bất cứ đâu. Ví dụ, thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước
tuổi 20
rồi ngưng. Riêng tại Việt Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ
vẫn tiếp
tục làm thơ dù lớn tuổi, làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường
là những
bài thơ bậc nhất, đặc biệt nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ
thấy yên
tâm:
- Ca trù/ hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời
quân
thượng thiếu” và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài
thơ có
chữ nghĩa xúc tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông
bị cộng
sản bắt đi tù và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước
khi từ
trần đã làm thơ để lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế
độ
chuyên chế của cộng sản. Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của
họ.
- Tại hải ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi
sáu bó,
bẩy bó: Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn...
Đặc biệt
trong phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm
thơ đông
hơn là lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
Theo GNV, vị độc giả trên
hỏi thẳng nhà thơ TDT, chứ không ai khác, nhưng vì
lịch sự
nên nói lòng vòng như thế.
Bởi là vì nhà thơ của
chúng ta, sau "thuở
làm thơ yêu
em", là tịt ngòi luôn!
Thơ TDT, Gấu
hầu như chỉ nhớ, độc nhất hai cái nhớ.
Một, là hai câu, trên tờ Nghệ
Thuật, thời
gian Viên Linh phụ trách. Nhớ, có lẽ là do giai thoại gắn với nó.
Hai câu thơ
như sau, như Gấu còn nhớ được:
Ðứng trước gió,
Lúc lắc cho tình nhỏ thức
giấc.
Một độc giả
viết thư chửi tòa soạn, thơ… mất dậy. Ðây là cái cảnh nhà thơ tự sướng.
NT quá
coi thường độc giả nên mới đăng thứ thơ này.
Nên nhớ, hồi
đó, "nghiêm" lắm. Những tình cảnh NTH khốn khổ khốn nạn với Vòng Tay Học Trò, TH, Vết
Thương Dậy
Thì, TV, Mèo Ðêm, Lao Vào Lửa,
là cũng mãi sau đó.
Còn cái nhớ
kia, là bài thơ được Phạm Ðình Chương phổ nhạc, Người
đi qua đời tôi.
Cái cách trả
lời của TDT cho vị độc giả: Có thể ông biết tỏng, vị này hỏi thẳng ông,
nhưng
TDT sử dụng đòn giả đò, làm như không biết, hay đòn “gậy ông đập lưng
ông”, bạn
không nói thẳng ra thì tôi ngu gì mà trả lời thẳng, và ông đưa ra rất
nhiều trường
hợp, để chứng minh nhà thơ Mít lúc nào cũng làm thơ, nhưng thực sự mà
nói, chẳng
trường hợp nào ăn nhập đến câu trả lời, và ông cũng chẳng thèm trích
dẫn một
câu thơ, của những “đồng thi sĩ” hiện còn sống, cùng thời với ông, để
chứng
minh.
Về những bậc
tiền bối như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ… Gấu không có ý kiến. Ông
thì làm
thơ hát ả đào, ông thì làm thơ khóc bạn, những bài thơ được TDT trích
dẫn, như
thế, thì đều không liên can gì đến thơ, đến cái gọi là “yếu tính” của
thơ, hay,
“Why poetry matters”, như Tây phương thường gọi. Rimbeau làm thơ khi
trẻ, rồi
thôi, bỏ đi làm lái súng, thì kể như ông có hai cuộc đời, một đời làm
thi sĩ,
khi còn trẻ, và một đời làm lái buôn súng, khi lớn tuổi, hết còn tin
vào thơ nữa,
có thể nói như vậy.
“Nhiều người khi lớn tuổi không làm thơ
nữa... Đây là điều
thường thấy ở bất cứ đâu”, quả có thế, nhưng không đúng với những nhà
thơ thứ
thiệt. Một nhà thơ thứ thiệt là làm thơ cho tới chết thì thôi không làm
thơ.
Cái chuyện in thơ thì lại khác.
Tuy
nhiên khi TDT trích dẫn những nhà thơ VC, mà bảo rằng về già họ vẫn làm
thơ,
thì thật nhảm.
Chế
Lan Viên, Nguyễn Ðình Thi về già, không hề làm thơ. TDT không đưa ra 1
bài thơ
nào, thành ra khó nói, nhưng những bài thơ mà như Gấu này biết được
của, Chế
Lan Viên, khi về già làm, thí dụ bài ăn bánh vẽ, thì đó không phải là
thơ, mà
là sám hối, và như thế, cũng không liên quan gì đến thơ!
Ðừng
lầm thơ với cái không phải là thơ.
Tại
hải ngoại. Mai Thảo, cả đời "chạy trốn thơ", như
TTT phán, cuối đời mới làm thơ, và là thứ thơ tự thán, và cũng là 1
trường
hợp đặc
biệt. Những ông khác, DTL thì “đúng là thi sĩ,” gần như chỉ có ông này
là vẫn
có những bài thơ hay, sau 1975.
Còn mấy
ông kia đóng vai thi sĩ, chứ ít làm thơ, lâu lâu, tất nhiên cũng són ra
được 1
tí thơ, nhưng đều nhảm cả.
Có thi sĩ Mít
cả một đời làm thơ, thực.
Như DTL.
Nhưng thuần
là 1 thứ, thơ tán gái. Cũng 1 ông hoàng của tình yêu, như nhà thơ đàn
anh của ông,
là Hoàng Cầm.
Cả đời mê gái,
OK.
Như GNV! (1)
Nhưng cả 1 đời
chỉ dùng vào việc làm thơ tán gái, thì uổng đời quá!
(1) Bà xã
NDT, lần đầu gặp Gấu, khi NDT đưa về nhà giới thiệu, nhà anh khi đó ở
ngay dưới
chân Ðài LL/VTD thoại/Quốc Tế, nơi Gấu làm việc, sau khi đọc Thời
Gian, truyện ngắn đầu tiên viết cho Văn, còn trong dạng bản thảo, phán,
anh
đúng là nhà văn mê gái!
Cái câu vinh
danh thơ thần sầu, là của Brodsky, và để vinh danh Akhmatova, và thời
của bà:
Ở một vài
giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới hách xì xằng, mới bảnh tỏng,
bởi vì
chỉ có nó mới dám đương đầu với thực tại, bằng cách nén nó lại, thành
một cái
gì được ôm gọn vào trong lòng bàn tay, một điều gì đó mà cái đầu chịu
thua
không làm sao cất giữ được.
Điều Brodsky
nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù
Phạm
Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn
của văn
chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến!
Ngoài kia
súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
Tuyệt, tuyệt!
Khi Gấu viết
được những dòng về những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn
của VC, trong Những ngày ở Sài Gòn,
đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết
của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de
force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.
Écho
Coetzee viết về Brodsky: Thi sĩ
đòi cho thơ cái quyền giáo dục và
cứu rỗi con người. Và nếu như thế, vị trí của ông, về vấn đề này, gần
gụi với
Cổ Athens, khi họ dậy nam sinh viên [không có nữ], thế chân vạc của âm
nhạc
[nhạc làm cho tâm hồn nhịp nhàng, hài hòa: to make the soul rythmical
and
harmonious], thơ, và thể dục.
Plato đạp đổ thế chân vạc, ba còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn
học
chính về tâm thần và tinh thần [the principal mental/spiritual
discipline].
Những quyền năng mà Brodsky phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm
nhạc
nhiều hơn, theo Coetzee. Thời gian là chốn đồng vọng, the medium, của
nhạc hơn
là của thơ: Chúng ta đọc thơ trên trang giấy in, nhanh cỡ nào tùy theo
chúng ta
thích hay không thích, trong khi chúng ta nghe nhạc, ở trong thời gian
của
riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam, đúng là cái thời để yêu, để hát, và
để chết!
Gấu này đã kể, về cái lần đầu nghe Tình Nhớ, của TCS, khi nó vừa mới ra
lò,
trong đêm khuya, khi đối diện với cái giường sắt lạnh lẽo nơi Trung Tâm
Ba
Tuyển Mộ Nhập Ngũ, và tưởng tượng ra rằng, có thể đứa em trai đã từng
nằm,
chính cái giường này, trước khi bỏ đi xa.
*
Bài viết thời để yêu, để
hát, và để chết!, không hiểu có phải vì biến cố 30
Tháng Tư mà
đứng đầu liền tù tì hai tháng, trong số những bài được đọc nhiều
nhất.
Thừa thắng xông lên, Gấu bèn viết, về một thời để yêu, để hát, và - vì
không
chết - để đi tù... VC!
NKTV
*
Bài viết của TMT thật tuyệt, làm Gấu nhớ đến Hemingway. Ông khi đó, bị
báo chí
Mẽo coi là hết thời rồi, bèn lùi lũi chuồn về một xó ở Cu Ba, đối diện
biển, và
khi trở về, là cuốn Ngư ông và Biển cả. TMT bị độc giả VOA chê
ỏng chê
eo bài viết về Quán Chùa, về những đền thiêng VNCH bị tụi VC ngu dốt
phá huỷ
hết trơn hết trọi để xây Siêu Thị, bèn diện bích, nhập thất, và khi
xuất hiện
trình làng ‘tiếng dội về những tiếng dội’:
Cánh hồng rơi xuống vực
Tiếng dội vào nơi đâu
Người về nơi thăm thẳm
Tiếng dội trong hồn nhau.
TMT
Hai câu thơ đầu, chắc là từ ý
sau đây:
Writing a book of poetry is like dropping a rose petal
down the Grand
Canyon and waiting for an echo.
Viết một cuốn thơ thì cũng giống như thả một cánh hồng xuống Grand
Canyon, rồi
đợi tiếng dội của nó.
DON MARQUIS
Cụm từ ‘tiếng dội về những
tiếng dội”, Gấu thuổng của Akhmatova.
Bà trước tác một chùm thơ, đặt tên chung là “Bài hát về những bài hát”,
"Song about Songs" phải nói là thần sầu, trên TV đã post một số bài.
Nay nhân viết về Hoàng Cầm, tưởng cũng là một cách tưởng niệm ông, khi
ông
hoàng của thơ và của tình yêu, để cứu thơ và tình yêu, đành phải đầu
hàng Cái
Ác Bắc Kít, TV sẽ post toàn bộ, và cố gắng dịch.
Ý tưởng viết về nhạc sến của
Gấu, là do đọc Akhmatova mà có, có
thể nói như vậy.
Đúng ra là từ ý của Brodsky, trong bài giới thiệu tập thơ của Bà, mà
khúc trên
trích dẫn từ đó.
At certain
periods of history it is only poetry that is capable of dealing with
reality by
condensing it into something graspable, something that otherwise
couldn't be
retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen
name of
Akhmatova - which explain her popularity and which, more importantly
enable her
to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know.
She
was, essentially, a poet of humanities: cherished, strained, severed.
She
showed these solutions first through the prism of the individual heart
then
through the prism of history, such as it was. This is about as much as
one gets
in the way of optics any way.
Ở một vài
giai đoạn lịch sử chỉ có thơ là có thể trị được thực
tại bằng cách nén nó lại thành 1 cái gì có thể
nắm bắt được, một điều
gì mà cái đầu chịu thua không thể gìn giữ. Theo nghĩa đó, cả quốc gia
nâng niu
bút hiệu Akhmatova - điều này giải thích tính phổ thông, đại chúng của bà, và, quan trọng hơn, khiến bà có thể
nói,
nhân danh đất nước, vì đất nước, cũng như nói với đất nước, điều mà nó
không biết.
Cơ bản mà nói, bà là một nhà thơ nhân văn: được yêu thương, bị căng
thẳng,
bị chia lìa, [đấng con trai độc nhất không thèm nhìn mẹ]. Bà đưa ra
những giải
pháp này, đầu tiên là qua thấu kính của trái tim cá nhân và rồi sau đó,
qua thấu
kính của lịch sử. Ðó là tất cả những gì mà một con người có thể có
được, theo đường
hướng quang học.
Trong bài viết về Mai Thảo,
nhân biết được cái nick Nhị, nhớ tới 1
trong những tùy bút hách nhất của ông, Tiếng Còi Trên Sông Hồng, và
nhân đang đọc
Fowles, nhà văn Hồng Mao, Gấu bèn chôm 1 đoạn trong một bài viết của
ông.
Go on, run away, but you'd be
far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior
esse
domi.)
Trong Tựa đề cho những
bài thơ, Foreword to the Poems,
John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do
bản chất
của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật;
nhà văn
chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con
người
chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia
muốn,
hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con
đường
ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư
không
thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là
đối với
nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai,
bạn đang
cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể
là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật
khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra
khỏi một
bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở
nhà vẫn
an toàn hơn.
Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh,
trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.
Theo nghĩa trên thì làm thơ
chính là ở nhà, không đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt.
Một
bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang
cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể
là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật
khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra
khỏi một
bài thơ.
Tuyệt.
Sở
dĩ cõi thơ Mít mít đặc, chính là vì nhà thơ Mít mất mẹ mất cái tôi rồi.
Giả
đò có cái tôi, thành ra làm thơ nhạt thếch là vậy.
Bạn thử sống
thật, sống hết mình coi có làm thơ ào ào không?
Thủ Thiêm
Vợ Hổ