Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Thủ Thiêm
Thơ mỗi ngày
FOREVER
Drifting
outside in a pall of smoke,
I follow a
snail's streaked path down
the garden to the garden's stone wall.
Alone at last
I squat on my heels, see
what needs
to be done, and suddenly
affix myself to the damp stone.
I begin to
look around me slowly
and listen, employing
my entire
body as the snail
employs its body, relaxed, but alert.
Amazing! Tonight is a
milestone
in my life.
After tonight
how can I
ever go back to that
other life? I keep my eyes
on the stars,
wave to them
with my feelers. I hold on
for hours,
just resting.
Still later,
grief begins to settle
around my heart in tiny drops.
I remember my father is
dead,
and I am
going away from this
town soon. Forever.
Goodbye,
son, my father says.
Toward morning, I climb down
and wander
back into the house.
They are still waiting,
fright
splashed on their faces,
as they meet
my new eyes for the first time.
À TOUT
JAMAIS
Je sors
enveloppé d'une fumée épaisse
et je suis
la piste brillante d'un escargot
jusqu'au petit muret qui borne le jardin.
Enfin seul,
je m'accroupis sur les talons, comprends
ce qu'il
faut faire, et me colle soudain
contre la
pierre humide.
Je me mets à
regarder lentement autour de moi
et à écouter, utilisant
tout mon
corps comme l'escargot
utilise le
sien, calme, mais attentif.
Sidérant! C'est une nuit à marquer
d'une pierre
blanche. Après cette nuit
comment
pourrai-je jamais reprendre cette
autre vie? Sans quitter les étoiles
des yeux, je
leur fais signe
avec mes
cornes. Je reste là
des heures,
me reposant, simplement.
Plus tard encore, la peine se dépose
en gouttes
minuscules autour de mon cœur.
Je me souviens que mon père est mort,
et que je
vais bientôt m'en aller de
cette ville. A tout jamais.
Adieu, fils,
dit mon père.
Vers le
matin, je redescends
et je
retourne nonchalamment dans la maison.
Ils attendent encore,
le visage
barbouillé de peur,
quand leurs
yeux pour la première fois rencontrent
[mes yeux
neufs.
Raymond
Carver: Les
Feux
[Lửa]
Mãi
mãi
Chuồn ra bên ngoài, ẩn thân sau
lớp khói dầy,
Tôi đi theo vết đi sáng ngời của một ốc sên
Tới bức tường đá ở cuối vườn
Một mình, sau cùng, ngồi chồm hỗm, tôi biết,
sẽ phải làm gì, và bất giác
dán lưng vào bức tường đá ẩm,
Tôi chầm chậm nhìn quanh, lắng nghe, buông xả toàn thân,
như con ốc
sên buông xả thân hình của nó, nhưng trong thế báo động.
Quái đản thật! Đêm nay làm đêm dấu ấn
của cuộc đời của tôi. Sau đêm nay,
làm sao tôi có thể trở lại
cái đời khác kia? Không rời mắt khỏi những vì sao, tôi vẫy vẫy chúng
bằng những khoé
mắt. Tôi cứ thế
nghỉ ngơi, hàng giờ đồng hồ.
Dần dà, sau đó, nỗi đau bắt đầu đọng
thành giọt nhỏ quanh trái tim của tôi.
Tôi nhớ cha tôi đã chết,
và tôi chẳng mấy chốc sẽ rời
thành phố này. Mãi
mãi.
Giã biệt, con tôi, cha tôi nói.
Gần sáng, tôi trèo xuống,
và lang bang trở về nhà.
Họ vẫn đợi, mặt mày ai nấy đều tỏ ra sợ hãi
Khi họ nhìn thấy cặp mắt mới của tôi lần đầu tiên.
La romancière russe
interroge l'incapacité de la dissidence
soviétique à jouer un rôle dans la Russie postcommuniste. © ULF
ANDERSEN /
EPICUREANS
Russie
LUDMILA OULITSKAIA EN
DISSIDENCE
Un roman aux allures de
vieil album photo revient sur
l'histoire de la contestation soviétique, mêlant personnages réels et
imaginaires.
Quand la radio soviétique
annonce la mort de Staline, en
1953, Ilya, Mikha et Sania ont tout juste 13 ans et la vie ne les a pas
encore
éloignés. Mais, une fois leur scolarité terminée, chacun des trois amis
suivra
sa voie : Ilya sera photographe, Mikha instituteur dans une école pour
enfants
sourds et Sania musicologue. En tête des ventes à Moscou, « Le pavillon
vert »,
derrnier récit de la romancière russe Ludmila Oulitskaïa (lauréate en
janvier
dernier du prix français Simone-de-Beauvoir pour la liberté des
femmes),
s'attache au destin des chestidessiatniki,
ces intellectuels dissidents qui se sont dressés contre le système dans
les
années 1960. « L'histoire de ces trois personnages est celle de la
dernière
génération de l'intelligentsia soviétique
», rapporte l'hebdomadaire Novaïa gazeta.
Le site culturel Openspace.ru classe
d'ailleurs le livre parmi les récits documentaires, tant les lecteurs
peuvent
reconnaître, à côté des personnaages de fiction, des figures réelles,
dont
certaines sommités de la dissidence : le physicien Andreï Sakharov, les
écrivains Alexandre Soljenitsyne et Andreï Siniavski. Novaïa
gazeta résume ainsi l'ouvrage: « Ilya et Sania choisiront
l'exil; Mikha, lui, se suicidera. Des trois hommes, deux seulement
auront des
enfants : un garçon autiste, et une fillette séparée de son père trop
jeune
pour conserver le moindre souvenir de lui. Tous trois auront des
parcours
professionnels chaotiques: quelques articles épars sur la théorie de la
musique, des revues clandestines manuscrites, des photographies qui
finiront toutes
confisquées par le KGB. »
Les dissidents du « Pavillon vert » sont dépourvus de l'aura
romantique habituelle, note pour sa part Olga Romantsova dans les
colonnnes du
quotidien Gazeta : « Oulittskaïa nous rappelle combien ce mouvement a
fédéré
des individus aux convictions différentes. Il comptait aussi bien des
défenseurs
de l'idéologie communiste, qui reprochaient au gouvernement d'avoir
terni leurs
idéaux, que des partisans de la liberté de croyance ou de
l'indépendance nationale
de leur république d'origine. Il n'est pas étonnant, dans ces
conditions, que
la dissidence, en proie aux querelles internes, ait fini par éclater. »
Quant à savoir si les maux de la Russie d'aujourd'hui
trouvent leur origine dans l'échec du mouveement, c'est une autre
histoire. «
Pourquoi cette génération de dissidents n'a-t-elle pas su former la
relève?,
s'interroge la journaaliste de Gazeta.
Pourquoi des individus d'un tout autre genre que ces libres-penseurs se
sont-ils imposés en maîtres de ce pays? L'auteur du "Pavillon vert"
s'en tient au diaagnostic de la maladie dont souffre notre société.
Elle
n'apporte ni réponses, ni remèdes. » +
"Nhà
phê bình cần tri thức và bản lĩnh. Tôi thấy mình có cả hai." Phạm Xuân
Nguyên đã nói một câu rất ngạo như thế.
Nguồn Blog
NDB
Bảnh thật.
Phán như thế mới là phán, và chẳng cần “điều tiết” làm khỉ gì nữa. NQT
Hanoi Saigon 2002
Trường
hợp TCS, nếu như điều TC nói được chứng minh, thì trong những liên
tưởng xa gần,
có thể khiến ta nghĩ đến trường hợp của nhà thơ Mỹ Ezra Pound (1885 –
1972) và
nhà văn Pháp Louis-Ferdinand Céline (1894 – 1961). Cả hai người này đều
đứng về
phe phát xít trong Thế chiến II, đều bị kết án khi chiến tranh kết
thúc. Nhưng
những sáng tác có giá trị của họ không vì thế mà bị hạ thấp, bị bỏ ra
ngoài lịch
sử văn học của dân tộc họ. Họ vẫn được đề cao và tôn trọng ở tư cách
nhà văn.
NDB.
V/v
Céline:
Ông
này thù Do Thái, đúng hơn. Thù tàn nhẫn, dã man, ma quỉ, monstrous, [chữ của Steiner].
Tờ Le
Magazine Littéraire, số đặc biệt về Céline, cho biết, khi Nazi
vô Paris, mời ông
đi dự tiệc, “chính thức”, ông từ chối. Steiner, trong bài viết Le
Grand
Macabre, cho biết, ngay từ đầu tháng Tư 1933, Céline đã tiên
đoán Hitler sẽ thống
trị [dominate] Âu Châu, “Ngày mai cả Âu Châu sẽ là phát xít, còn Céline
sẽ đi tù”.
Steiner coi trường hợp Céline là độc nhất vô nhị, không giống bất cứ
ai, không
thể so sánh với bất cứ 1 trường hợp nào trong lịch sử. Roberto Bolano
cũng nghĩ
như vậy. (1) Với Oe, nhà văn Nhật, Nobel văn chương, Céline là sư phụ
của
ông, và
nhờ đọc Céline, ông ngộ ra địa ngục Hiroshima. TV sẽ giới thiệu mấy bài
viết
quan trọng này, một của Steiner, và một của Oe.
Sollers ban
cho Céline cái nick: Chuyên gia về Địa Ngục,
(1)
Tuy nhiên, văn chương đâu thuần
là một ngôi giáo
đường cho tình cảm tốt. Nó còn là nơi ẩn náu của oán thù .
Bolano: Tôi
chấp nhận điều đó.
Nhưng có những tình cảm tốt đẹp ở trong đó,
và điều này thì khỏi bàn. Borges phán, một nhà văn tốt là 1 con người
tốt, và
ông này thì chuyện gì cũng phán hết. Nhà văn tốt/con người không tốt,
là ngoại
lệ. Và tôi biết “1 trong 1” ngoại lệ như thế. Có lẽ đây là 1 thằng cha
độc nhất
vô nhị.
Ai vậy cà?
Louis-
Ferdinand Céline. Một
nhà văn tốt và 1 tên khốn kiếp. Đúng
là 1 tên vô lại, đê tiện. Quái đản nhất là những khoảnh khắc lạnh lùng
nhất của
sự vô lại, đê tiện của ông ta thì lại được bao phủ bằng hào quang của
sự phong
nhã, cao cả, một thứ phong nhã gắn liền với quyền năng của ngôn từ.
Source
V/v
Pound:
The
Paris Review, tập IV
Tập
4 này gồm nhiều nhà văn hiện đang còn sống. Có bài phỏng vấn Pound,
cũng thú,
phải ngưng nửa chừng vì tình trạng sức khỏe.
Hỏi, khi lên
đài phát thanh Ý lèm bèm trong thời gian chiến tranh, ông có nghĩ
là ông vi phạm luật Mẽo không, Pound trả lời:
-Không. Tôi
hoàn toàn ngạc nhiên. Ông biết đấy, tôi có sự hứa hẹn đó. Tôi được
tự do sử dụng cái micro hai lần một tuần. “Mi được yêu cầu không được
nói điều
gì ngược lại luơng tâm của mi, hay ngược lại bổn phận của mi, như là
một công
dân Mẽo”.
Tôi nghĩ tôi làm đúng như thế.
Ông không
biết là luật phản quốc nói về điều “đem sự trợ giúp và sự thoải mái đến
cho kẻ thù, và kẻ thù không phải là xứ sở mà chúng ta đang có chiến
tranh vói họ
ư?
-Tôi nghĩ là
tôi chiến đấu vì một điểm liên quan tới hiến pháp. Có thể đúng là
tôi khùng, nhưng rõ ràng là tôi cảm thấy mình không phạm tội
phản quốc.
Tuyệt thật. Vậy mà điên, phản quốc cái quái gì cơ chứ!
Source
Cả hai trường hợp, không liên quan tới TCS.
V/v Bài
viết của TC.
Gấu nghĩ,
ông TC này hơi bị hoang tưởng
Trước 1975,
TCS mê VC,
nhưng
nhát,
không dám lên rừng như đám HPNT, ở lại với Ngụy, nhưng trốn lính, và cả
cuộc
đời của ông, thời gian trước 30 Tháng Tư, trốn chui
trốn
nhũi, “tham vọng” của ông, là làm sao thoát chết. Sau 1975, những ngày
đầu, bị
đám bạn thân bắt viết tự kiểm, bắt đi nông trường cải tạo, sợ quá, trốn
về lại Sài Gòn, núp bóng Hồ Tôn Hiến, lấy đâu ra tham vọng chính trị?
Có thể, khi uống
rượu say, lại được thổi ghê quá, TCS cũng có lúc muốn “nhập thế”, nhưng
từ muốn
đến tham vọng, rồi từ tham vọng đến thực hiện nó, là chông gai lắm, đâu
có bảnh
như TC được, muốn là làm, thích là chiều.
Chứng cớ, già rồi mà ông còn dám lấy 1 cô trẻ măng.
Phải bảnh lắm mới dám thực hiện điều này, theo GNV.
Còn
điều này nữa: Giả như thực sự TCS có tham vọng chính trị, thì TC phải
viết ra
điều này, khi TCS còn sống, để có sự đối chất. TCS nằm xuống đã quá lâu
rồi, tại
sao bây giờ mới
khui ra?
Minh
bạch lịch sử cái quái gì ở đây?
Một
trong những điều rất cần “minh bạch lịch sử”, là cái cú 30 Tháng Tư
1975: Giải phóng hay ăn cướp?
Nhưng cú này vượt quá tri thức lẫn bản lĩnh của NDB.
Hà,
hà! NQT
Còn cái chuyện
ăn thịt gà ăn trộm, Gấu tin là có thực, nhưng ý nghĩa của nó, “thường
nhân” không
hiểu được.
Đọc bài viết
của TC, thì thấy, cái gọi là tham vọng chính trị của TCS chỉ là 1 huyền
thoại,
dù có thực, những toan tính này nọ. GNV này mà cũng còn có tham vọng
chính trị,
sau khi hết chiến tranh, làm 1 thằng dân quèn, thì cũng thế, với TCS,
giả như ông
nhạc sĩ được làm phó thủ tướng, dù chỉ một vài ngày, sau khi đất nước
không còn
tiếng súng: "mỗi ngày tôi chọn 1 niềm vui", niềm vui làm phó thủ tướng
cũng vui đấy
chứ.
Đúng ra, TC
phải viết bài này, từ khi TCS còn sống. Đâu có gì ghê gớm mà đau khổ ôm
lấy nó,
đến khi bạn đã chết, có khi đi đầu thai rồi cũng nên, mới bật mí. Nếu
TCS thực
sự ngây thơ, như nhạc của ông thực sự đẹp, thì ông đi đầu thai rồi, còn
nếu ông
nhận ra cái tội lớn của ông, sử dụng thứ âm nhạc đó, để làm mồi cho cái
ác VC,
thì chắc chắn là còn đang nằm trong Lò Luyện Ngục, đúng 20 năm mới được
thả ra!
Cruel Radiance
Tỏa Sáng Ðộc Ác
Nhân
Gió-O 10
năm
Phải sau
1975, thì Gấu mới biết đến Borges, vào những ngày sắp bỏ chạy, và
thoát, quê hương!
Đó là thời gian
làm anh bán báo, tại sạp báo “nhà”, ngay trước chúng cư 27 Nguyễn Bỉnh
Khiêm,
mượn tên ông cán bộ VC nhà kế bên đăng ký kinh doanh. Trong khi bán
báo, rảnh
rang, đọc báo lai rai, Gấu vớ được 1 truyện ngắn của Borges, được dịch
ra tiếng
Việt, đăng trên tờ Văn Nghệ,
chắc thế.
Câu
chuyện một tay
chủ tịch xã một buổi chiều tới gặp một nhà huyền thuật nổi tiếng, xin
ông phù
phép, ban cho cái chức chủ tịch huyện, đại khái như vậy. Hai người đang
nói
chuyện thì anh người nhà thông báo, bữa ăn chiều có món gà gô đặc sản
Nam Bộ, đã
sẵn sàng, xin cho biết, ông khách có cùng dùng bữa với chủ nhân hay là
không.
Chủ nhà xua tay, chờ chút, chờ chút…
Đúng lúc đó, thì người nhà ông chủ tịch xã
hổn hển xuất hiện, kêu chủ về gấp, ông chủ tịch huyện ngỏm rồi, mọi
người
đang nhốn nháo kiếm ông, để ngồi vô ghế chủ tịt huyện! Nhà huyền thuật
bèn mỉm cười, vậy là khỏi phù phép nhe, nhưng mà này, cái chức chủ tịch
xã ông cho tôi nhe, để tôi cho thằng cháu. Ông tân chủ tịt huyện
lắc đầu, chức đó, tôi đã ban cho thằng em trai mất rồi, sorry.
Câu chuyện này
có tí giông giống chuyện con cá vàng và ông già câu cá, của Nga, cộng
thêm chuyện
“giầu sang chưa chín một nồi kê”, của Tầu. Bởi vì cảnh trên cứ thế lập
đi lập lại,
và sau cùng, khi ra về, ông chủ tịch xã vẫn chỉ là ông chủ tịch xã. Và
nhà huyền
thuật khi đó, kêu người nhà dọn cơm, miệng lẩm bẩm, bữa nay ăn gà gô
một mình vậy!
Sau đó, Gấu
tình cờ vớ được 1 bài thơ dịch qua tiếng Tây của Borges, viết về hạnh
phúc, đọc
thú lắm, thế là bèn loay hoay dịch, chắc cũng là lần đầu bày đặt “dịch
dọt” như
bà Huệ phán, và đưa cho anh bạn nhà thơ Joseph Huỳnh Văn đọc, anh khen
rầm trời,
mày sao bảnh thế!
Bởi thế, khi
ra hải ngoại, Gấu, nhớ lần gặp gỡ cũ, bèn dịch Borges, và được
nhà dịch
thuật Hoặc Ngữ, hay Hoặc Ngu “gì gì” đó, Gấu quên mất rồi, phán, dịch
như sấm, [chữ này của SCN, ông
ta muợn, và cũng là để vinh danh bà chủ sạp cá].
Tuy nhiên, cái
duyên kỳ ngộ của Gấu với Borges, là ở chỗ khác, nơi khác, và nó liên
quan tới…
Thanh Tâm Tuyền!
Gấu mới xuống
phố, ghé tiệm sách, mua tờ Người Nữu Ước, vì đọc cái tít “Quyền lực của
những ý
tưởng đi chôm của người khác”, nhưng cái tít bên trong thì đúng là
thương hiệu
của... Gió O, là câu thơ của Mai Thảo, “Chế lấy mây và gây lấy
nắng", tức “huyền thoại
sáng tạo”, creation myth.
Gấu này thực sự tin là, không thể chế được mây, gây được nắng.
Chế lấy, đừng vay muợn của đất trời.
Nhưng “chôm”,
thì được!
Còn số báo kia, là bài viết của Zadie Smith: “Thế nào tôi viết”.
Creation
Myth
The more
successes there are,” Simonton says, “the more failures there are as
well”—meaning that the person who had far more ideas than the rest of
us will
have far more bad ideas than the rest of us, too.
Càng cao danh vọng, càng dầy gian nan. Có cứng mới đứng đầu gió.
Heidegger cũng phán như thế, về cái sự thất bại khi chơi với Nazi: Tư
tưởng lớn
lầm lạc lớn!
Ông bạn…của
GNV cũng phán như thế, để giải thích cái sự không dám viết của mình:
Tao chỉ sợ
viết ra, mà, nếu mình lầm thì nhân loại bị diệt vong!
Vấn nạn “chế
lấy mây gây lấy nắng này” làm Gấu nhớ tới một chuyện thần tiên, về 1
nàng công
chúa, một buổi chiều ngồi bên song cửa, nhìn những hạt mưa rơi, long
lanh như
những viên ngọc, bèn thỏ thẻ với Đức Vua, con muốn có 1 chuỗi ngọc bằng
những
giọt mưa kia…
Vua ra lệnh
cả nước “chế” chuỗi ngọc mưa… chỉ đến khi có thằng cha Gấu cà chớn xin
gặp cô bé
công chúa, OK, tui xâu được chuỗi ngọc, nhưng công chúa chạy ra đầu
hiên lấy mấy
hạt ngọc mưa cho tui!
Ngay trong cái
bài tạp ghi đầu tiên của Gấu ở hải ngoại, Nước Cờ Hư Trúc, là Gấu đã đặt ra vấn
nạn chôm hay không chôm rồi.
Làm gì có sáng tạo, bởi vì
sáng tạo chỉ là lập lại
cái đã được nói rồi, nhưng thay đổi đi 1 chút, cho hợp với thời của
mình. Thay
đổi cái thực đơn, cái công thức, là ra cái mới, bằng cách vay mượn
những ý tưởng
đã có. Người ta đã chẳng cho rằng, Marx lật ngược Hegel, ra chủ nghĩa
mang tên ông.
Lịch sử văn học cho thấy, mỗi lần có đại tác phẩm xuất hiện, là đám phê
bình chăm
chú đọc nó, coi nguồn của nó ở đâu, thầy của thiên tài mới xuất hiện
này là ai.
Thành thử mới có câu, làm gì có những tuyệt tác vô danh.
Tuy nhiên, Borges nhận ra, trò khám phá ra Thầy.
Chỉ đến khi
ra được hải ngoại, đọc và dịch bài viết của Borges, “Những người đi trước Kafka”,
thì Gấu mới hiểu ra được một trong ba búa Trình Giảo Kim mà ông anh nhà
thơ
truyền lại cho Gấu [mi hãy đọc, đọc, đọc… và sẽ có ngày kiếm thấy ông
Thầy của
mi], là từ Borges .
“Gậy ông đập
lưng ông”, nhân đọc được 1 câu của 1 Tây mũi lõ, Gấu đặt câu hỏi về Bếp Lửa, trong bài viết trên Văn, từ năm
1973:
Trong một vài
trường hợp, chính học trò khám phá ra thầy. Phải chăng đó cũng là
trường hợp của
“bậc thầy” Thanh Tâm Tuyền.
TTT một lần ngồi
Quán Chùa với thằng em đưa ra nhận xét, những nhà văn Mít thường chết
non, viết
xong cái tuổi trẻ của mình là ngỏm. Trong nhận xét đó, có cái ý, không
kiếm ra
Thầy của mình, do thiếu đọc, thiếu sống, không đủ kiên nhẫn tìm ra ông
Thầy.
Nhưng trên hết,
chính là cái tính phách lối dởm, tao mà cần phải đọc ai, tao viết cho
thiên hạ đọc,
khiến văn chương Mít không thể nào khá được.
Thiên tài
NTHL theo Gấu cũng thuộc loại này, nếu đúng như những lời khen của bà
Huệ, nhà
thơ thiên tài móc tim ra viết, không thèm chôm của Tầu, như Nguyễn Du,
hay của
tụi mũi lõ, như Phạm Công Thiện.
Notes About Brodsky
ON PASTERNAK
SOBERLY
UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt
Đông phương
Có một nghịch lý
về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những vị sư phụ
của thơ
ca và giả tưởng Nga, thuộc về thế giới, như trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của
những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn,
chúng vẫn
cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn
sàng
bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại
nói chung,
nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch
sử, chỉ có
văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo được với văn học Nga, nếu nói về tính
phổ
quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải người Nga, khi đọc Pushkin,
Gogol,
Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên
ngoại
đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc
nói
chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích
hợp phổ
thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc
sảo
nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang
tính quốc
hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra
đi. Tất
nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến
những
gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương,
của
giới quê mùa cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa
được
những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol,
một Anna
Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một
con nhím
xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những
tác phẩm cổ
điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó,
những bản
văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh
quê ta" sẽ
ra sao nếu thiếu Cha và Con,
hay Chiến tranh và Hòa bình,
hay Anh em
nhà
Karamazov, hay Ba chị em).
Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng
như vậy, rằng
Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn thì đã làm méo mó, sai
lạc điều
mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là do khoảng cách
về ngôn
ngữ.
Có một cái
gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết
không chịu
bỏ nước ra đi.
Khi dịch câu
trên, Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT,
và câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa đường bỏ về, bị
tay dẫn
đường “xém” làm thịt!
Nhớ luôn cả
cái tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc phỏng vấn, “off-record”, lần
Gầu trở
lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi
vượt biên, mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ,
nhất, là, Quê Người của Tô Hoài.
Steiner có hai bài viết trên tờ
The New Yorker,
[sau in lại trong
Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De
Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những nhà văn Nga khác: Dưới
cái
nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết, những đòi hỏi của
Solz, ở những người Nga đọc lén
lút ông [bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì
thật là
dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người
đọc Tây
Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant
suffering, của
họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành ông. Và như thế, ông là một
tác giả
hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể
xác của
con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.
Every time a
human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific
black
hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to
depersonalize
inhumanness, to blanket the irreparable fact of individual agony with
anonymous
categories of statistical analysis, historical theory, or sociological
model-building. Consciously or not, anyone who offers a diagnostic
explanation,
however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion,
the
irremediable concreteness of the death by torture of this man or that
woman, of
the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the
holiness of
the minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names
cascade
from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we
must
commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant
requiem
of nomination.
Mỗi một sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn
có tính
cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá
nhân, bằng
đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử,
hay xây dựng
mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải
thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi
nữa,
cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể
không
thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái
chết vì
đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh
bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy
ra với
Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác dưới ngòi
viết của ông.
Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn,
chúng ta phải
nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng,
từng tên
một, hàng triệu tên.
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
Yevgeny Kupchenko
Cư dân lâu đời nhất của Trại Tù
Norilsk, Yevgeny
Kupchenko bị bắt năm 1936 và bị buộc tội làm do thám cho Nhật. Vào lúc
đó, ông
là một nông dân mù chữ. Ông là 1 trong những nhóm đầu tiên ngược dòng
Yenisei River
tới Norilsk. Vào giữa thập niên 1930, Liên Xô vẫn còn huênh hoang bá
láp về
triết lý cách mạng cải tạo, phục hồi nhân phẩm, thông qua lao động và
niềm vui
được là những“công nhân” thực thụ.
Học Tập Cải tạo? Ai? Tù nhân.
Học bằng dùi cui, không phải bằng
chữ. Tại sao nói với tù nhân, nói để làm gì cơ chứ, và nói cái gì? Bạn
nghĩ
chúng sẽ nói: “Chúng ông sẽ dạy cho chúng mày trở thành những người CS
tốt?”
Chẳng bao giờ chúng, những tên quản giáo nói với chúng tôi. Chẳng có ma
nào nói
với chúng tôi. Có một ban “giáo dục văn hóa” ở trại tù, ở đó, họ trao
cho chúng
tôi những lá thư của chúng tôi. Tôi phải đưa tất cả thư từ cho “ban”
này để
chúng đọc, và nếu chúng thích, thì chúng sẽ cho phép gửi đi. Nhưng ý nghĩ, chúng cố cải tạo chúng tôi –
làm điều gì
cho chúng tôi vui lên, khuyến khích chúng tôi với những lời giải thích,
xứ sở của
chúng ta mới thực tình cần đến kim loại làm sao, và như thế, như thế -
làm gì có
chuyện đó. Chúng tôi là những kẻ nô lệ. Thú vật. Trâu bò. Nông dân
Ukraine đã từng
làm trâu bò như vậy để cầy ruộng. Và làm trâu bò thì trở thành trâu bò,
những
con người trong tình trạng như vậy trở thành câm nín, và cúi đầu. Chúng
tôi không
hề thốt ra lời, ra tiếng. Chúa gìn giữ chúng tôi khỏi bất cứ một cuộc
trò chuyện
nào về nhà cầm quyển, hay là về chính trị. Nơi nào cũng có chỉ điểm,
ăng ten,
ngay cả trong trại tù. và bạn sẽ bị còng đầu lôi tới an ninh, công an,
và chẳng
ai nhìn thấy bạn trở lại lán tù nữa. Không chỉ trong những năm tù, mà
ngay cả
khi đã được ra khỏi trại tù, trở về làng, tôi không nói một lời. Về
những gì đã
xẩy ra. Không một lời. Ngay cả với vợ. Bây giờ thì có vẻ có nhiều
chuyện để nói
ra – Brezhnev là một người xấu, và
đại loại,
nhưng vào thời gian đó, không. Nếu một tờ báo có hình Stalin được thấy
dục bỏ đâu
đó, hay nằm phất phơ, lớ ngớ ở dưới mặt đất, thì một người nào đó sẽ
được tìm
ra, để trừng phạt. Trước khi ra tòa án nhân dân, thì bạn đã bị đánh đập
tàn nhẫn,
và sau đó là 10 năm tù.
Jadwiga Malewicz
Khi còn là một đứa nhỏ mười mấy
tuổi, Jadwiga
Malewicsz chứng kiến quân đội Xô-viết xâm lăng Ba-lan; rồi tới Đức
Quốc-xã. Qua
lớp cỏ dầy, cô cũng đã nhìn cảnh tàn sát tập thể người Do-thái địa
phương. Khi
Hồng quân trở lại vào năm 1945, cô bị bắt vì "phản bội đất mẹ". Mười
năm tại Norilsk.
Tôi lấy người cai tù. Một người
cai tù có gốc. Tôi thực không biết
chuyện đó xẩy ra như thế nào. Anh ta luôn nhìn tôi. Đăm đăm nhìn. Trong
lúc đưa
chúng tôi đi lao động, anh ta nói: "Đội Trưởng, tôi sẽ lấy cô". Tôi
trả lời: "Vô lý, quản giáo. Anh không thể làm điều đó". "Để rồi
coi". Bạn tưởng tượng nổi không? Anh ta cai tôi hai năm trời. Và tôi
không
hề đáp lại. Tôi thực không thích bạn. Anh ta đợi tôi thêm ba năm. Tôi
vẫn quay
lưng. Rồi cái ngày ấy tới. Lao động về, tôi nhìn thấy giấy ra trại trên
chiếc
gối. Đau đớn làm sao. Tôi nghĩ: Đi đâu bây giờ? Họ đưa bạn tờ giấy, dẫn
bạn ra
ngoài, và bạn chẳng có một căn phòng, chẳng có gì hết. Muốn đi đâu thì
đi, nếu
có thể. Chuyện như vậy đó, bạn biết không. Nếu tôi có một nơi để mà
đi... nhưng
làm sao tôi rời đi. Tôi ngồi trên giường, gỡ băng "Đội Trưởng" đưa
cho người khác. Tôi bảo cô ta đừng nói cho anh cai tù mê tôi, tôi được
thả.
Nhưng tới cổng, anh đợi tôi ở đó. Tôi ôm cái bị nhỏ, món quà mừng ngày
được
tha. Gia tài chút xíu. Anh trờ tới: "Đội Trưởng, để tôi mang giùm."
"Tôi đâu còn là đội trưởng nữa", nhưng tôi đưa anh cái bị, và bạn
biết đấy, ngu đần như con cừu, tôi đi theo anh. Anh đã xoay xở được một
căn
phòng. Khi tới, úi trời, tôi thấy người quản giáo. Ông mướn phòng chung
sống
với người đàn bà quản trại tôi. Bà ta nói: "Lúc nào cũng nghe anh khoe,
anh chài được cô gái xinh đẹp, bây giờ cô ta đây này!" Họ bắt đầu uống.
Những ngày đó, ngoài uống ra đâu còn gì. Họ uống. Tôi không làm sao
uống nổi:
họ đưa tôi nhấp thử một hụm và tôi gần nghẹt thở. Họ cười nhạo tôi.
Người đàn
ông "của tôi" kiếm chỗ nằm, và người đàn bà nói: Còn cô này nữa, ngồi
đây làm gì? "Bà nói chi?"
Tôi ngồi bàn suốt đêm. Nhưng, là anh ta. Biết làm sao khác? Tôi
cũng quen dần. Tôi chịu đựng cắn rứt, dằn vặt ròng rã ba mươi năm. Cuối
cùng ly
dị. Anh tìm về làng cũ ở vùng Trung Nga, và chết ở đó. Anh uống tới
chết. Còn
trơ tôi ở đây.
Kỷ Niệm
Raymond
Carver
Enright
on Carver
Raymond Carver's 'Fat' is
simple but deadly, says Anne Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó là truyện ngắn Fat, của RC
“Fat"
is a great example of how little a short story has to do in order to
work – the
entry wound is so small, you could say, and the result so deadly. Like
many of
Raymond Carver's stories, this one seems very simple. An unnamed
waitress tells
her friend, Rita, about serving a very fat customer. She likes the guy,
despite
his girth. She likes serving him. Their relationship, though ordinary,
and
brief, and formal, is quite tender – and, like a love story, it happens
in the
face of opposition from the rest of the world. The small love the
waitress
feels – this moment of empathy she has for the fat man – becomes
briefly
amazing later that evening, when she is in bed with her boyfriend,
Rudy, and
the waitress is left with an uneasy, hopeful intimation of change.
I ask often
ask students to read "Fat" because it also seems to talk about what a
story is. A story is something told – as the waitress tells her friend
Rita about
the fat man – it is something that really needs to be said. But though
we feel
its force and resonance, it is often hard to say what a story means.
The most
we can say, perhaps, is that a short story is about a moment in life;
and that,
after this moment, we realize something has changed.
Carver coi câu của Pound như là
1 thứ kinh nhật tụng:
“Thơ, ít ra thì cũng phải cố viết cho thật bảnh như là văn xuôi”!
Chiều tối
Tôi câu
cá 1
mình
vào buổi chiều
tối mùa thu tiều tụy đó,
Màn đêm cứ
thế mò ra.
Cảm thấy,
mất mát ơi
là mất mát
và rồi,
vui ơi là
vui,
khi tóm được
một chú cá hồi bạc,
mời chú lên
thuyền
nhúng 1 cái
lưới bên dưới chú.
Trái tim bí
mật!
Khi tôi nhìn
xuống làn nước xao động,
nhìn lên đường viền đen đen của
rặng núi
phiá sau
thành phố,
chẳng thấy gợi
lên một điều gì,
và rồi
tôi mới đau
đớn làm sao,
giả như sự
chờ mong dài này,
lại trở lại
một lần nữa,
trước khi
tôi chết.
Xa cách mọi
chuyện
Xa cả chính
tôi
Khi gặp BHD,
Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở
trong
dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của
Em, là vậy.
Ngoài ra,
còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng
cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa
ngoái lại,
lắc đầu:
Mi đâu có
thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở
nào, và Hà
Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp
nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ Bắc Kít
trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một
em Bắc
Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD
của mi ở
trong em đó!
Cuộc tình
chót đời, vào lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng
ra 1 em
Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và,
tại sao
không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng đàn
bà, nhất
là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu
bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó, và ta nói,
ta yêu
Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt,
tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau
muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em
tin thiệt!
Gấu nhận được
cái mail sau cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm,
đâu có thì giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc
chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng
viết vài dòng…
Ui chao GNV
lại nhớ đến nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu
có tí dư,
thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take
Care. Plse Take Care.
NQT
James Joyce
có lần nói, tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và họ nói
đi nói
lại hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã
từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện Mậu Thân,
đứa
em trai
tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy nhiên,
quái đản nhất, là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để lập
chuyện
tình BHD!
Khủng khiếp
quá.
Đúng là sự trả thù ngọt
ngào, bi thương, và cũng dã man, tàn nhẫn,
của xứ
Bắc Kít!
|
|