*
7.1.09

Quê hương tưởng tượng
Patries imaginaires
*
Ui chao, Tết, nhớ Sài Gòn quá!

Một bức hình cũ, lồng trong một cái khung rẻ tiền treo trên tường trong phòng tôi làm việc. Bức hình, chụp năm 1946, một căn nhà khi đó tôi chưa ra đời. Căn nhà trông hơi kỳ kỳ - một căn nhà hai từng, mái ngói.
"Quá khứ là một xứ sở xa lạ,”, câu văn mở ra tác phẩm của L.H. Hartley, Thiên sứ, “ở đây người ta sống khác, làm những chuyện cũng khác”.
Nhưng bức hình bảo tôi, hãy lật ngược lại vấn đề.
Nó nhắc nhở tôi rằng, chính cái hiện tại của tôi mới là một xứ sở xa lạ, và cái quá khứ thì ở trong tôi, cho dù là một "trong tôi" đã mất, trong một thành phố đã mất, trong chập chùng sương khói của một thời gian đã mất.
[Mais la photo me dit de renverser cette idée; elle me rappelle que c’est mon présent qui est un pays étranger et que le passé est chez moi, même s’il s’agit d’un chez-moi perdu, dans une ville perdue dans les brumes du temps perdu].
Salman Rushdie
*

Nếu Gấu này có tí tự hào về xứ Đoài mây trắng lắm, là ở tí ti thơ Quang Dũng, tí thơ Huyền Chi, tí nhạc PD.

Thơ Huyền Chi [lục bát]
Lên khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ [hay rủ ?] bóng tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang
...
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường lại đi 

Lời nhạc PD:
Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bến tơi bời
Làn mây hồng pha ráng trời
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người
Thuyền ơi! viễn xứ xa xưa
Một lần qua dạt bến lau thưa
Hò ơi! giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về
Nhìn về đường cô lý
Cô lý xa xôi
Đời nhịp sầu lỡ bước
Bước hoang mang rồi ...!
Quay lại hướng làng
Đà Giang lệ ướt nồng
Mẹ già ngồi im bóng
Mái tóc tuyết sương
Mong con bạc lòng ...
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người
Mịt mờ sương khói lên hương
Lũ thùy dương rủ bóng ven sông
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ, nhổ neo lên đường.
[Nguồn net]

*
Kỷ niệm những lần nghe nhạc PD ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà của Gấu thật tuyệt vời, và sau này, mỗi lần nhớ lại, là Gấu lại càng hiểu ra câu thơ của Lý Thương Ẩn, nói về cái duyên hạnh ngộ ở trên đời, và đem áp dụng vào mấy trường hợp trên mới thật là tuyệt cú mèo:
Gặp nhau đã khó, xa nhau lại càng khó.
Trước hết, hãy nói về cái chuyện gặp nhau đã khó. Ứng dụng vô trường hợp của Gấu: Không dễ gì mà được nghe nhạc Phạm Duy ở trong tù.

Cái sự sửa soạn để được nghe, là có "ý trời" ở trong đó!
Lần nghe bản Thuyền Viễn Xứ, do một tay trại viên độc tấu Tây Ban Cầm, nó nhiêu khê lắm. Không có ông Trời sắp xếp là trớt qướt!



Rừng Tràm

Thảo Trường


Dọn

Phi lý của Camus ở đâu mà ra?

Gấu này cứ tự hỏi. tại làm sao mà ấy ông mấy bà phê bình cứ móc NNT vào với hiện sinh, với phi lý với buồn nôn… Bảo rằng một lũ ngu, thì cũng được, nhưng sao mà nhiều thằng ngu như thế?
Hay là chính Gấu này… ngu?
May quá, có câu trả lời của Pamuk, kể kinh nghiệm đọc Camus của ông. Bài in trong Những mầu sắc khác. Cũng ngắn, Tin Văn sẽ post và dịch, để… rộng đường dư luận!
*
Tôi đọc Camus, đâu đó trước khi đọc Dos và Borges, vào lúc 18 tuổi, dưới ảnh hưởng của cha tôi, một nhà kiến trúc sư về xây cất. Vào thập niên 1950, nhà xb Gallimard cho Camus ra lò hết cuốn này tới cuốn tới, cha tôi cho mua chúng đều đặn, và được chuyển tới
Istanbul, nếu ông không ở Paris. Còn ở đó thì ông tự mình đi mua, lẽ tất nhiên! Ông đọc chúng một cách tới nơi tới chốn, và bèn lèm bèm về chúng, với thằng con. Mặc dù đôi lúc hứng lên, ông lèm bèm về cái gọi là “triết học của sự phi ní” [ấy chết xin lỗi, phi lý], bằng những từ ngữ mà tôi chẳng làm sao hiểu nổi, chỉ đến mãi sau này, thì tôi mới ngộ ra rằng thì là tại sao ông lèm bèm về Camus, về phi lý: Cái triết học phi lý đó đến với chúng ta không phải là từ những thành phố lớn của Tây Phương, cũng không phải từ những nội thất của những đền đài tưởng niệm hay những căn nhà của họ, nhưng mà từ một thế giới bên lề, có tí ti hiện đại, có tí ti Hồi giáo, có tí ti Địa Trung Hải, giống như thế giới của chúng tôi.
Cái khung cảnh mà Camus đặt để ở trong đó, khi viết Kẻ Xa Lạ, Dịch Hạch, và nhiều truyện ngắn của ông là khung cảnh của thời thơ ấu của chính ông, và tình yêu của ông, những miêu tả tỉ mỉ những con phố, những khu vườn ngập ngụa ánh mặt trời, chúng thuộc về không Đông phương mà cũng chẳng Tây phương.
Pamuk: Albert Camus
*

Gấu cũng đã viết như vậy về Camus!

Kẻ xa lạ, Camus, đến từ mặt trời Địa Trung Hải, đã thất vọng, lần đầu gặp Paris, và khám phá vẻ nham nhở, xám xịt, mưa, những người gác cổng, và những vụ tự tử vô danh trong những căn phòng khách sạn, như trong Sổ Tay của ông, vào năm 1940, khi định cư tại đây: "Đọc Paris Buổi Chiều và cảm thấy trái tim của thành phố ê hề trên những trang báo, cái tính đê tiện của một cô thợ khâu.... Nó [Paris] thì thối rữa. Sướt mướt, mỹ miều, vui lòng khách đến, chốn ẩn trú nhớm nhúa, nơi con người phải cố mà sống trong một thành phố quá tàn bạo đối với nó."
Cảm giác đầu tiên và cũng là cuối cùng: Chẳng bao giờ ông có được một từ dịu dàng với thành phố đó. Ông cảm thấy lạc lõng, xốn xang. Đây là một con người khốn khổ vì hoài nghi, vì nghĩ rằng mình vô ích, vô tích sự, và chỉ cảm thấy dịu đi một phần nào, bằng những câu vắn ngắn thật sáng sủa, chỉ để tố cáo sự bất công của cõi người.
Sự thực, ông ở đâu đó, không ở chỗ đó: Paris. Ngay cả khi đã nổi tiếng, sau khi Kẻ Xa Lạ xuất bản, vào năm 1942, chẳng có một câu nào trong Sổ Tay nói lên niềm vui của ông, mà chỉ là niềm kinh hoàng (effroi). Ông bị chấn động bởi nỗi khốn cùng, mà ông chứng kiến, khi đi đi về về trên xe lửa, từ Saint-Étienne tới Chambon-sur-Lignon, nơi ông phải tới để chữa trị chứng lao phổi.

Kẻ Xa Lạ
*

Tông tông Pháp hết lời nâng bi Camus


Những con thú ăn mồi sống

Nhà văn Bắc Mỹ Paul Theroux, tác giả The Mosquito Coast, một cuốn tiểu thuyết thú vị, và nhiều cuốn sách du lịch rất ăn khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm sách ở Anh rao bán một số tác phẩm của ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ bút của tác giả, là những dòng đề tặng Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên, ông bèn viết thư cho nhà văn Nobel, và ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ ra đầu ngõ, vén váy, đi vài đường bồm bộp [nguyên văn, thay vì đích thân trả lời, Naipaul trao trách nhiệm này cho bà vợ mới, một ký giả Pakistani, “đần độn như là nhan sắc đẹp đẽ” của bà, nhưng cho dù đần độn, mớ chữ ít ỏi của bà cũng đủ để đi vài dòng chế nhạo].
Sự trả thù của ông Theroux mới khủng khiếp làm sao: Chẳng thua gì giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh!
Llosa, tác giả bài viết The Predators mà Gấu đang đi một đường giới thiệu độc giả Tin Văn, khuyên độc giả chớ có mua cuốn sách vừa tai tiếng vừa rất ư cụp lạc, Sir Vidia’s Shadow: A Friendship  across Five Continents [Cái bóng của Naipaul: Một tình bạn xuyên qua năm lục địa]. Bởi vì vừa đọc vài dòng, là bạn không thể nào rứt ra nổi!
Theroux, đệ tử, nhỏ hơn Naipaul chừng 10 tuổi, gặp sư phụ ba chục năm trước đây tại Keynia, Đại Học Makerere, nơi cả hai cùng làm việc. Đệ tử bị sư phụ hớp hồn, cả về tài năng lẫn nhân cách, vào lúc đó, Naipaul đã nổi như cồn với những tác phẩm như A Bend in the River, hay A House for Mr. Biswas. Theroux trở thành đệ tử, tài xế, và tà lọt, và để tưởng thưởng, Naipaul thỉnh thoảng cũng đưa ra vài ngón nghề, của một thiên tài văn chương, và, lâu lâu, giống như quẳng cho một người ăn xin, vài đồng lẻ, Naipaul cũng lèm bèm cùng đệ tử, về quan niệm của ông về thế giới, về con người, về Phi Châu, về lịch sử.


Về tiếng Mẹ
Liệu mỗi chúng ta đều có tiếng Mẹ? Liệu tôi có một tiếng Mẹ?
Cho tới gần đây, tôi chấp nhận mà chẳng hề tra hỏi, kể từ khi tiếng Anh là thứ tiếng mà tôi xoay sở bảnh nhất, I command best, và nếu như thế, nó phải là tiếng Mẹ của tôi. Nhưng có lẽ không phải vậy. Có lẽ - liệu có thể như vậy ư? - tôi đếch có tiếng Mẹ!
Bởi vì, nhiều lúc, trong khi tôi nghe tiếng Anh xổ ra khỏi miệng tôi, tôi thấy xốn xang, như thể thứ tiếng mà tôi đang nghe đó, đếch phải thứ tiếng tôi gọi là chính tôi, the one I hear is not the one I call myself.  Như thể một người nào khác (nhưng ai?) bị bắt chước, bị dẫn dắt, bị nhại. Larvarus prodeo. (1)
Viết vậy mà đỡ xốn xang hơn, so với nói. Ngồi im lặng tại đây, chuyển động tay, kêu gọi những từ tiếng Anh, thay từ này, từ nọ, chuyển thành  đoạn, thành câu, tôi cảm thấy dễ dàng, thoải mái. Một cảnh trở lại với tôi, lần đi thăm một cửa hàng tại Moscow: một người đàn bà đang ngồi tại một bàn tính, đầu bất động, mắt bất động, chỉ có mấy ngón tay là thoăn thoắt bay nhẩy.
Coetzee: Nhật ký một năm xấu [Diary of a Bad Year]

(1)
Larvarus prodeo:
Tôi tiến lên và lấy tay chỉ cái mặt nạ mà tôi đang đeo, tôi đeo một cái mặt nạ cho đam mê của tôi [Roland Barthes: A Lover's Discourse]

About Larvatus Prodeo

The title of the blog is inspired by Rene Descartes:

Maritain explains: “In the juvenilia of Descartes we find the phrase Larvatus prodeo. ‘Like an actor wearing a mask, I come forward, masked, on the stage of the world.’ […] It will be for the masked philosopher to unmask the sciences and to make their continuity and their unity appear with their beauty” (The Dream of Descartes, 41, 92 n.25). The phrase also refers to the precautions Descartes took not to offend the authorities with his new philosophical systems.
*
Trở lại với Rushdie và bài viết Quê hương tưởng tượng của ông. Trong bài tiểu luận này, ông đưa ra nhận xét thật là táo bạo: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta. Conquérir la langue anglaise c’est peut-être achever le processus de notre libération. [Bản dịch tiếng Pháp].
Để ‘hiểu’ câu này, có lẽ chúng ta phải trở lại với những nhận xét, những luận cứ trước đó của ông.


yet from those flames
No light but rather darkness visible."
[Tuy nhiên từ những ngọn lửa đó, không phải ánh sáng, mà là bóng đen, hiển hiện]

Milton, Paradis perdu (I, 62)
Catherine Pappo-Musard dịch, ghi chú và viết tựa Trái Tim Của Bóng Đen, bản song ngữ.
L'expérience congolaise a fait de lui un homme pour qui désormais les ténèbres sont toujours visibles: les ténèbres, c'est-à-dire le passé dans le présent, le primitif dans le civilisé, le mensonge dans la vérité, la corruption dans l'idéal, et la mort dans la vie.
Kinh nghiệm Congo biến ông thành một người bóng đen luôn hiển hiện: Bóng đen, đó là quá khứ trong hiện tại, sơ khai man rợ trong văn minh có học, dối trá trong sự thực, hư ruỗng trong lý tưởng, cái chết trong sự sống.
Giữa lòng đen

Xa Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một điều, giả như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó sẽ như thế nào.
Du danger de la prophétie
Thế giới khốn khổ vì lời tiên tri của tay này.
Mít, vì Bác:
"Từ trận thắng hôm nay, ta xây lại bằng mười!"

Huntington a eu tort de défendre une vision fondée sur les grandes peurs de l'Occident

Về nguy hiểm của cái sự tiên tri, bói mua rùa.

Huntington đã lầm khi đưa ra, chống đỡ, và bảo vệ nó: Một viễn ảnh dựa trên những nỗi lo sợ lớn lao của Tây phương về một Đông phương Hồi giáo

Tuy không muốn bói mu rùa, nhưng cái chết của me-xừ Samuel Huntington, cha đẻ lý thuyết “cuộc va chạm giữa những nền văn minh”, clash of civilisations, vào ngày 24 Tháng Chạp vừa rồi, quả đã vượt khung “xe cán chó hay chó cán xe”: Giáo sư Harvard trong 52 năm, Huntington là một hiện tượng lạ thường cuối thế kỷ, một trong nhà chính trị học mà lý thuyết của ông đã đưa đến hai cuộc chiến, một cuộc đại suy thoái, và chưa biết hậu quả của nó sẽ còn khủng khiếp tới mức nào.

Thoạt kỳ thuỷ, chỉ là một bài báo trên tờ Foreign Affairs, tháng Tám 1993, sau kéo dài thành một cuốn sách, và đùng một cái xẩy ra cú 11 Tháng 9, và thế là cuốn sách lên hương, chẳng khác gì Hitler mượn chủ thuyết siêu nhân của Nietzsche, mấy tay tân bảo thủ Mẽo bèn muợn ngay lý thuyết của Huntington để biện minh cho thái độ của họ, và sau cùng là những hành động của Bạch Cung, những năm tiếp theo.

Cái sự ông ra đi trùng hợp với sự cáo chung của triều đại Bush phải chăng là một tiếng thở phào cho nhân loại? Sau điều đó, vậy là bởi điều đó?

Vậy là bởi điều đó? Điều gì?

Cái sự lên hương, nổi đình nổi đám của lý thuyết của ông, “sự va chạm giữa các nền văn minh”, không chỉ đi vào ngôn ngữ chính trị thường ngày, và còn gây lo ngại cho tất cả những ai không ngửi nổi nó. Vào ngày 27 Tháng Tám, 2008, tổng thống Pháp, trong bài diễn văn trước các nhà đại sứ, đã tuyên bố, chúng ta lầm, vì ‘coi thường’ cái sự có thể xẩy ra một cuộc đụng đầu giữa Hồi giáo và Tây phương. Đó chỉ là một thí dụ. Tuy nhiên, chủ tâm của Huntington, khi phịa ra lý thuyết trên, là để phạng lại một đệ tử của ông, và ông này có một lý thuyết cũng rất ư là bảnh, và cũng thật nổi cộm, đó là Francis Fukuyama, tác giả cuốn Sự cáo chung của lịch sử và người cuối cùng.

Fukuyama cho rằng, sau khi chủ nghĩa CS ngỏm củ tỏi, sự tiến hóa của tất cả nhân loại về kinh tế thị trường, và dân chủ, là “tất yếu” [‘inexorable’]. Và sư phụ phản ứng lại: “Yếu tính của văn hóa Tây phương, là luật pháp, không phải bánh mì McDo. Cái sự đám không phải là Tây phương kia mê gậm McDo thì không có nghĩa là chúng cũng mê luật pháp”.

Liệu sư phụ lầm chăng?

Tay bỉnh bút của tờ L’Express, CHRISTIAN MAKARIAN, trong số báo 9.1. 2009  tự hỏi.

Và ông tự trả lời. Lầm quá đi chứ. Ông ta lầm, khi chống đối, bảo vệ một viễn ảnh mang tính mâu thuẫn chủ yếu dựa trên những nỗi lo sợ lớn lao của Tây phương. Và ông dẫn Edward Said, một trí thức lỗi lạc Mẽo, gốc Palestine. Ông này phán: “Liệu người ta có thể chia thực tại nhân sinh [….] về văn hóa, lịch sử, truyền thống, xã hội, và ngay cả sắc dân, hoàn toàn khác nhau giữa chúng, và tiếp tục sống, cũng đành chấp nhận một cách rất ư là con người, những hậu quả của sự chia cắt, phân biệt này?”
*

Questionnaire de Proust : Kenzaburô Ôé
Lần khóc mới nhất?
Đó là khi nghe Edward Said chết, tôi khóc suốt cả đêm.
*

Said gặp Sartre
Said trả lời phỏng vấn
Khi Conrad viết "Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness", ông tin rằng - và điều này hiển nhiên sai, nhưng không thể chê trách ông được, bởi vì do lệch lạc thời gian (the bias of time) - không một người Phi-châu nào có thể đọc nó; rằng ông viết cho những người Anh. Sự kiện là, những người Phi Châu bây giờ đã đọc "Giữa Lòng Đen", và họ nhìn nó khác hẳn những người da trắng đồng thời với Conrad, vào thập niên 1900, và cái đọc của họ trở thành một yếu tố của cuốn tiểu thuyết. Như vậy là cuốn sách mở ra theo một đường hướng mà ngay cả những tác giả của nó như Jane Austen, Dickens hay Conrad, dù nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được. Điều này thật đáng đón nhận bởi vì nó chỉ ra cho bạn thấy một mặt mới của tác phẩm, và nó khiến cho bạn nhìn sự vật trước đó bạn không thể nào nhìn thấy.
Wachtel: Đó là lý do tại sao Conrad là một tác giả ruột của ông?
Said: Có một điều gì rất "cùng một lứa bên trời lận đận" (tương đồng, affinity) giữa ông ta và tôi. Bởi vì ông người Ba-lan, rời quê hương chừng 16 tuổi, sống một thời gian ở Thụy-sĩ, Pháp; học tiếng Pháp, và vào tuổi hai mươi, bắt đầu viết và học tiếng Anh, sống ở Anh, trở thành thành viên của Thương Thuyền Anh (British Merchant Navy), đi biển đâu chừng 15 năm, rồi định cư ở Anh. Khi là nhà văn, ông chừng 40 tuổi. Ông luôn là người Ba-lan, ở bên ngoài cái gọi là vòng tròn Anh, theo một nghĩa nào đó, nhưng ông lại viết ra những cuốn tiểu thuyết Anh tuyệt vời. Ông có một thứ tâm thức lưu vong kỳ cục. Ông luôn ở bên ngoài bất cứ một hoàn cảnh nào mà ông viết về nó, và tôi chia sẻ tâm trạng này với ông. Cách ông nhìn sự vật hoàn toàn không giống bất cứ một người nào trong thời kỳ đó. Ông rất thân thiện với những người như Henry James và John Galsworthy, họ cũng là những nhà văn tuyệt vời nhưng không cho bạn cảm quan kỳ cục, muôn mặt của đổi dời và trên tất cả, chủ nghĩa ngần ngại, hồ nghi, đặc biệt là hồ nghi về căn cước và về hiện hữu ổn định (settled existence) như Conrad. Conrad là một trong số ít tiểu thuyết gia viết bằng tiếng Anh, theo cách của bậc thầy (tuy trong vài trường hợp có thể phản bác), về những nơi chốn như Indonesia, Malaysia, Thailand, Phi Châu, và Nam Mỹ. Ông ta thực sự là một người theo chủ nghĩa quốc tế (internationalist), của thời kỳ đế quốc.
Ông là một khuôn mặt phức tạp, và tôi không có ý giả dụ, tôi quan tâm tới ông là do ông chia sẻ cùng một cái nền khá giống nhau. Hoàn toàn không phải như vậy. Ông là một tiểu thuyết gia vĩ đại, và có một điều chi thật phức tạp, thật xum xuê mầu mỡ, và cũng thật giầu có về ông khiến tôi phải trở đi trở lại. Không một người nào nhìn sự vật hoàn toàn giống như cách ông nhìn. Còn một tương đồng nữa là, ông viết tiếng Anh như một người nào đó không phải là người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ (native-born speaker). Tôi kinh ngạc hoài về điều này. Có vẻ như ông không thèm để ý tới cú pháp (syntax). Cách nhấn tính từ cũng thật kỳ quặc. Cách viết theo bản năng ở một số điều như vậy thật là quá thích thú đối với tôi.


Có mấy Trần Đăng Khoa? (1)
Theo TTD, có hai
(1) Tít này, Gấu thuổng. NQT

Tôi đã từng nhiều lần không tin cái anh bạn đang ngồi nói chuyện với mình đây lại là do chú bé làm thơ Trần Đăng Khoa lớn lên mà thành. Những bài thơ ấy với con người này sao chẳng thấy tương xứng với nhau chút nào. Bản thân sự tương xứng ấy không liên can gì tới hình thức nhan sắc bề ngoài, nhưng ít ra nó cũng có liên can. Tôi ngờ rằng sau khi làm được một mớ thơ, nói theo cách nói của người nhà quê, thấy con mình nổi tiếng quá khiến bà mẹ lo lắng. Cái cách lo lắng đề phòng của người nhà quê cũng dân giã, bình thường, ấy là lo người ta lấy mất con mình, nên đem nó dấu vào trong bồ thóc như dấu củ khoai củ ráy. Sự thể không đơn giản thế bởi đất nước có chiến tranh. Gà mái mất con vì bom đạn thù, nó còn điên dại lồng lên đi tìm, như trong một bài thơ khá hay của Trần Đăng Khoa đã kể, huống chi bà mẹ đẻ ra được chú hài nhi người ta gọi là Thần Đồng! Khiếp lắm! Thôi thì dấu trong rương trong hòm không xong đành phải bày trò đánh tráo. Thằng anh con bác Cả hơn thằng em hai tuổi vốn tính cũng láu lỉnh thông minh, lại muốn bay nhảy nên cho nó thế vào chân em , vừa được tiếng vừa được miếng, lại giữ được con, lại lo được cho cháu! Thế là nghị quyết gia đình được đưa ra bàn bạc giữa hai nhà. Hai nhà nhất trí. Cái anh chàng Trần Đăng Khoa sinh năm 1956 chính là Trần Đăng Khoa bây giờ. Còn em bé làm thơ Trần Đăng Khoa hồi ấy (sinh năm l958) đã thành ông nội, ông ngoại, con đàn cháu đống ở làng. Từ ngày có người anh ra đi thay cho mình, "Khoa thật" trở nên buồn bã không thơ phú văn chương nữa. (Tất nhiên anh ta phải mang cái tên của ông anh họ). Còn "Khoa anh" thì lại cứ tưởng mình là thiên tài, là Trần Đăng Khoa thật, thành thử suốt ngày lo trau dồi văn thơ, chữ nghĩa, té ra anh ta cũng là tay có khiếu, sáng tác được khá nhiều thơ hay, được bộ đội cho đi học sĩ quan rồi cho đi vào thực tế đời sống, làm cán bộ ở Hải Quân, rồi lại đi học trường viết văn Nguyễn Du, hết Nguyễn Du tiếp tục sang Liên Xô học trường viết văn lớn nhất thế giới, ngôi trường mang tên văn hào Gooc-Ky... Sau bẩy năm du học ra trường về nước, đã có cơ quan văn học lớn nhất trong quân đội chờ sẵn để tiếp nhận.
Tôi đã đem câu chuyện "Cuội"này của tôi ra kể cho Trần Đăng Khoa nghe, nghe thấy có lý nên anh ta mới ậm ờ cho qua. Kết quả bao nhiêu năm đảng và quân đội chăm lo cho nhân tài, quả được anh đền đáp không đến nỗi nào, bằng những tập thơ tập văn sau này, với những bài thơ những câu chuyện về lính đảo và đặc biệt tập sách "Chân dung và đối thoại" của anh gần đây được những người hâm mộ cổ vũ nhiệt liệt, và cả những người không đồng ý với anh tranh cãi kịch liệt. Cái kịch liệt ấy tạo nên một không khí mới cho văn đàn tẻ nhạt nhiều năm qua. Mà thực chất bản thân những điều khiến nhiều người tranh cãi kịch liệt ấy cũng  chỉ xoay quanh mấy trò xiếc của anh chàng Cuội ngồi gốc cây... thơ, được Trần Đăng Khoa dựng lên. Âu đó cũng là một sự đóng góp rất đáng kể cho đời sống văn nghệ vậy.                           
Tháng 9 năm 2000

Chân dung Trần Đăng Khoa
TTD
TDK by NQT
Lê Lựu đại náo Huê Kỳ
Tố Hữu: Phịa như thiệt

"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Note: Gấu phán về trận đánh DBP bảnh hơn VC nhiều!

Văn chương sám hối?
Cái độc, cái ác trong văn chương.
"Đứng trước một đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn Nôn, La Nausée, chẳng có ký lô nào", Sartre đã từng tuyên bố. "Người Nghệ Sĩ Đói" được giới phê bình đánh giá là "truyện ngắn độc ác nhất" của Kafka. Công chúng phải trả tiền để vào xem người nghệ sĩ đói, để mân mê thân hình trơ xương của anh. Người ta cũng đã từng nói tới những chi tiết tàn nhẫn, cái ác trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tại sao lại có những chi tiết tàn nhẫn như thế? Bởi vì trong "thực tế" (đẻ ra tác phẩm của ông), ông đã "thực tế" cái điều: Đứng trước một đứa trẻ chết đói...
Balzac tả cái nón, vì có người đamg đội nó.
Một cách nào đó, Chân Dung và Đối Thoại là một phiên bản của Chân Dung Nhà Văn của Xuân Sách. Bạn không thể đọc một, bỏ một. Chúng bổ túc cho nhau một cách thật tài tình, như môn Lưỡng Nghi kiếm pháp, một âm, một dương của một môn phái võ học trong Kim Dung. Cái độc đẻ ra thiên tài văn chương, là ở Xuân Sách. Cái độc đẻ ra thảm họa, là ở Trần Đăng Khoa, bởi vì đi giữa, nghĩa là chẳng thuộc về bên nào: thái độ khôn ngoan này không chỉ một mình ông là người lựa chọn. Ngay Nguyễn Huy Thiệp mà còn tự khoe: tôi khôn hơn Dương Thu Hương.

*

Tâm sự của Xuân Sách

Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước vào thập kỷ 60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra thời gian của chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt... đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi lập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm... mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuối vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi chuyển sang “bút đàm”.

Vào năm 1962 có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là người biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.

Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập tiểu thuyết “chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu in. Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:

Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân

Mao đầu tận lạc tự mao luân

Lưỡng kiên mai hếu phong trần lý

Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân

Dịch nghĩa:

Con đường văn nghiệp khá thương cho ông

Lông đầu ông đã rụng trơ trụi

Đôi vai lầm lũi trên con đường gió bụi

Chuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?

Dịch thơ:

Con đường văn nghiệp thương ông

Lông đầu rụng hết thư lông cái gầu

Đôi vai gánh mãi càng đau

Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?

Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.

Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẫu giấy:

Trên biển lớn lênh đênh sóng nước

Ngó trông về xóm mới khuất xa

Cỏ non nay chắc đã già

Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem

Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải.

Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi, anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:

-Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!
Chân Dung Nhà Văn & Lời Bàn: Gấu, Nhà Văn
Khi Chân dung nhà văn được phát hành, phản đối gay gắt nhất là một số nhà văn được đề cập trong đó. Nay số nhà văn đó cũng đã mất gần hết. Nhà văn VN chưa quen với chân dung biếm họa hay thơ biếm. Ở nước ngoài đấy là chuyện bình thường. Nhưng dần dần nhà văn VN phải làm quen thôi. Khi ấy Chân dung nhà văn được in lại cũng là chuyện bình thường.
Hoàng Lại Giang:
Tôi đang viết về ông Sáu Dân

*
Nhận xét trên, đúng, nhưng… không đúng, với trường hợp Xuân Sách.
Xuân Sách châm biếm nhà văn VC, nhưng "hơn thế nữa", nhục mạ chế độ.
Bởi chỉ có chế độ khốn kiếp như thế, mới đẻ ra những nhà văn như thế.
Hãy coi lại nhóm Nhân Văn đã bị nhà văn VC mượn nhà nước VC làm nhục họ như thế nào, thì hiểu ra tại sao có Chân Dung Nhà Văn, có Xuân Sách.
Chính vì nhận ra điều này, nên DTM mới muốn biết, nếu Xuân Sách vẽ chân dung của ông, thì nó sẽ như thế nào.
Đây là một cái "test" của DTM trước khi đi.
Một người, cứ tạm cho là không một vết dơ, nếu được Xuân Sách vẽ, thì nó sẽ ra làm sao, giữa một đống dơ đó!
Bởi thế, mà Xuân Sách mới viết, ông không làm sao viết về cụ DTM được!
Khó quá!

Vẽ quỉ ma dễ, vẽ người khó, là vậy!
Thiên hạ mê coi Blog NQL, chắc là cũng cùng một lý do như vậy chăng?
*
Nhàn nói: “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”.
Nhận xét của VTN làm nhớ đến một câu của Gide, viết về Dos: Tác phẩm lớn có sự tham gia, participation, của Quỉ.
Nhưng cũng còn làm nhớ đến câu, cái độc cái ác là thức ăn của thiên tài.
Chúng ta tự hỏi, hai câu trên, câu nào đúng, với những bài thơ chân dung của Xuân Sách.
Theo tôi, câu sau. Và từ đó, là sự cách biệt giữa những bài viết của Thần đồng Trần Đăng Khoa, với những chân dung nhà văn của Xuân Sách. Tác giả Xuân Sách cũng nhận ra điều này, khi lọc ra một câu, và bàn về nó:
Câu thơ:: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
*
Đọc, không hiểu sao, Gấu lại nhớ tới thư nhà của Brodsky, viết cho bố mẹ của ông.
*
Tôi viết thư nhà này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngoại về lương tâm”  [a “foreign code of conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động, diễn tả những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ sống lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con đường giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so với văn phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách máy móc kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính là xuất phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan này tới cơ quan kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy phép đi ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết, và liên tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một tờ giấy phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”]. Chỉ nội chuyện đó không thôi, sự lập đi  lập lại một “lời phán” khốn nạn như thế, nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga. Ngoài ra, ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng chẳng mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới bầu trời Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã chết, hoặc sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự? Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn mẹ cha của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo yêu cầu của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân. Và rồi thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc ống nghe điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở nước ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và dù có la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những người đó điều gì? Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng có một xứ sở nào đã luyện được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình như nước Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Xin cho tiếng Anh làm cái nhà cho những người thân quá cố của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với mẹ cha tôi, bà Maria Volpert và ông Alexander Brodsky, tiếng Anh mới chính là thứ ngôn ngữ dâng cho họ một cõi sau xem ra tươm tất hơn và có thể đó là cõi duy nhất mà họ có được ngoài cái trí nhớ của bản thân tôi về họ ra. Còn về bản thân tôi, khi viết bằng tiếng này, thì cũng chỉ như là rửa chén dĩa mà thôi, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa rửa một mớ chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!
Thư Nhà
Chẳng có một xứ sở nào đã luyện được cái tay nghề tài tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình như nước Nga. Và chẳng có một nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần Thánh mới có thể làm được điều này.

*
Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Nơi người chết mỉm cười


Đọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn, thời 1950's

Trong một bài tạp ghi, tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm cuốn ‘Đọc Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ Thời Báo Luân Đôn, TLS -  tôi có viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng ngay trên vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, được ông chủ nhà xuất bản của nó, là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại vốn, chắc là vì chẳng có ma nào đọc. Tôi còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng (1).
Tôi nói đọc cọp, là vì hồi đó, nghèo quá, không thể nào có tiền mua nhiều thứ, không cứ gì sách: một xa xỉ phẩm!
Hình như đó là lần đầu tôi biết đến cái tên Thanh Tâm Tuyền, tác giả cuốn Bếp Lửa.
Lần thứ nhì, là biết đến tờ Sáng Tạo của nhóm bạn bè của ông.
Cũng là qua một anh bạn cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng với nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn là một lớp học, trên đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự.
Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn làm tôi liên tưởng tới một mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng nhạc Thời Đại Mới, New Age, Yanni, người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền Thiêng Ấn Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.
Và cũng có thể ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm tôi nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi, tránh cặp mắt chẳng có gì là hài lòng của người bán!
Ông Yanni này tâm sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông bố của ông. Vào năm ông chín tuổi, biết ông con quá mê âm nhạc, và quá cần cây đàn piano, ông bố bèn đem cầm cố căn nhà, tài sản độc nhất mà ông có được, để mua cây đàn cho ông con.
Ông nói, mua chậm là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn. Tất cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi, chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm một tí, là những mầm đó héo đi, sau đó có được cây đàn thì cũng cẩm như không!
Kinh nghiệm của tôi đọc cuốn Bếp Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng vào lúc đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó, mà ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí dụ như Buồn Nôn, Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói rộng ra, cả thế giới văn chương.
Có lần, tui hùng dũng tuyên bố, tôi đọc những tác giả khác, thí dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là để hiểu tôi, cũng là theo ý nghĩa đó. Nói bạo hơn một chút: Những kỷ niệm của riêng Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, tôi nhờ đọc họ, mới thấy ra được. Mới biết là mình có những kỷ niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong tôi, nhưng tôi không thấy, không hề biết đến chúng. Nếu không có họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói đó, chúng cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường của mỗi con người thường…

Tôi lấy thí dụ, một lần đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về thành phố quê hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình đen trắng, vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi ông giấc mộng lớn văn chương: Ta sẽ viết một cuốn sách thay thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về thành phố Bombay.
Đọc tới đây, đột nhiên Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh đỏ lần đầu tiên có trong đời.
Cây viết chì đó thực sự không phải của Gấu, mà của một ông cậu, em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945, bà cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è cổ chịu một đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba cậu con của Bà Ba có người hầu.
Trong số ba cậu, Cậu Cầu là người thương Gấu nhiều nhất.
Lần đó, Bà Ba đi Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba cậu con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu chơi một tí. Thấy thằng cháu mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!
Chả là Gấu vừa lùn lại vừa lé [lác].
Có thể nói, giống như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc chín, hay muời tuổi…
NQT
(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái bản mấy lần. Lần sau cùng là vào năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.
Lạ một điều, hành động trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán ra được số phận của cuốn Bếp Lửa, phải tái sinh từ những tro than của vỉa hè Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước miền nam, tái sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.
Nguồn


Thất Hiền
Thất Hiền, tức bẩy người hiền, tức bẩy đứa chúng tôi, đều quen nhau qua Chất, em trai nhà thơ TTT.
Năm đó, do trường tư không có lớp đệ nhất, đám chúng tôi, sau khi đậu tú tài I, đều được trường Chu Văn An thâu nhận, do đó Chất và tôi quen nhau. Sủng, Luận tuy cùng bọn, nhưng đậu Tú Tài I năm trước. Cẩn bỏ học ngang đang tìm việc làm. Giả sử như Chất đậu năm trước đó, cùng với hai tên Sủng và Luận, tôi đã không có cơ hội làm quen với anh, và như thế mọi chuyện trong cuộc đời của tôi chắc chắn sẽ đổi khác.
Phải đến mãi sau này, khi về già, nhớ lại, tôi mới nhận ra, một số chuyện xẩy đến với tôi, tưởng như chẳng liên quan với nhau, vậy mà, “ma đưa lối quỉ dẫn đường”, chúng đều như xúi giục, năn nỉ , hăm dọa, “này Gấu, mày là phải viết văn chứ không thể trở thành một ông thầy dậy toán, hay lý hoá như mấy tên Sủng tên Luận bạn mày đâu”!
Tôi cứ như nhìn ra con đường dẫn, từ cái cảnh Gấu tôi, đứng ngay trên vỉa hè Sài Gòn ngấu nghiến đọc cọp cuốn Bếp Lửa của TTT. Cảnh này dẫn tới cảnh anh bạn Nguyễn Hải Hà “tình cờ” giúi vào tay Gấu tờ Sáng Tạo, trong khi cả hai đều là những thằng mê toán đến phát điên, và có thể trở nên khùng, nếu gặp một bài toán khó, không làm sao giải được!
Tất cả là để dẫn tới chuyện, tôi quen Chất, tại năm học đệ nhất ban toán, tại lớp B. 8, trường Chu Văn Anh. Và được anh dẫn về nhà chơi, biết bà cụ anh, và ông anh của anh, nhà thơ TTT.
Tôi đã có lần kể lại, trong Một Người Anh”,  cái cảnh đến nhà, lần thứ nhất gặp nhà TTT ngồi ở một cái bàn nhỏ ở góc nhà.
“…. Rồi thi đậu Tú Tài phần một. Khi đó trường tư chưa có Đệ Nhất. Tôi được vào Chu Văn An, hiệu trưởng là thầy Trần Văn Việt, khi nhà trường còn nằm nhờ phía sau trường Pétrus Ký. Học chung với đám dân trường tư, trong có Chất, em anh T. Qua Chất, tôi có thêm một số bạn, Cẩn, Quốc, Sủng, Luận, Tín. Đúng 7 đứa. Nhà bà cụ Chất là nơi chúng tôi thường tụ họp. Ngay từ những ngày đầu tới chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân lên ghế, trước một cái bàn nhỏ ở góc nhà, tôi đã tưởng tượng, phải nói là đã mơ ước, tương lai của mình sau này rồi sẽ y hệt như vậy.”
[Một người anh]
Cái bàn nhỏ đó, tôi lại nhớ ra nó, khi gặp lại ông cậu, lần trở lại Hà Nội. Ông cũng nhớ lại, lần đầu tiên ông có được cái bàn ở trong đời, đấy là nhờ ông Nguyễn Văn Linh và chính sách cởi trói. “Không có ông Linh, với chính sách cởi trói cho đảng viên, mợ mày đâu có cơ hội mở ra cái quầy bán đinh sắt ở phía dưới nhà, nhờ vậy mới có đồng ra đồng vào."
Tôi nhìn lên bàn, thấy cuốn Larousse, ấn bản đời thứ tiền sử.
"Cậu dùng cuốn từ điển này?”
Ông gật đầu.
“Cũng mới mua sau này, nhờ cái sạp bán đinh sắt.”
Ông bùi ngùi kể lại, lần hai cậu cháu gặp gỡ năm 1954, cậu thì từ rừng núi Việt Bắc về tiếp thu thủ đô, cháu, sau khi nhường thủ đô cho ông cậu, bèn vội vàng chạy ra ga Hàng Cỏ, lên tầu hoả, xuống Hải Phòng, xuống tầu há mồm, ra vịnh Hạ Long, lên tầu Đệ Thất Hạm Đội, chuồn vô Nam, năn nỉ Sài Gòn nhận thằng bé Bắc Kỳ làm con nuôi.
Năm 2001, về lại Hà Nội, nghe ông cậu than thở:
"Suốt cả tuổi trẻ, cậu lên rừng, theo kháng chiến, 1954 về Hà Nội, lập gia đình, suốt quãng đời còn lại, chỉ mong sao có được một cái bàn để mà làm việc."
Note: Đọc lại, mới thấy còn thiếu hai cái bàn. Một của Brodsky, trong Căn Phòng Rưỡi. Và một của Christian Rochefort, trong Le Repos du Guerrier, trong đó có một em, chồng là nhà văn đi B về, thoát chết, cô vợ xúi viết đi, viết đi, thể nào cũng lòi ra một cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, anh chồng ừ hữ, vợ bèn đi mua một cái bàn về, anh chồng đè ngay em lên, này thì viết, viết, viết!


Hiếp dâm tiếng Việt
Ngay cả những tiếng nói thật bình thường, những danh từ xưng hô như Bác, Cháu, Anh Hai, Anh Ba.... nhiều khi người được gọi nghe thấy gai trên mấy đầu ngón tay...


Salman Rushdie

Những đứa con giờ Tý


St-Ex: Yêu không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhìn về một hướng.

Người ta thấy “chàng” ngồi Quán Chùa - ấy chết xin lỗi – quán “Les Deux Magots”, hoặc Givral - ấy chết xin lỗi – quán Lipp, tại đường Tự Do, Sài Gòn - ấy chết xin lỗi - tại Paris; lơ đãng nhìn buổi sáng bắt đầu, tự hỏi không biết bữa nay cô bạn có giờ học ở Văn Khoa hay không, thỉnh thoảng loáy hoáy ghi sổ tay, tự nhủ  thầm, mình mới ba mươi tuổi, còn “xoan” chán!

 Những ghi chú nho nhỏ như thế, những mẩu viết tình cờ như thế, sau gom lại, biến thành “Những Ngày Ở Sài Gòn” - ấy chết xin lỗi - biến thành “Cõi Người Ta”, Terre Des Hommes, [hình như được dịch qua tiếng Anh với tựa đề Gió, Cát, và Những Vì Sao], một tác phẩm sáng chói, nhưng cũng đầy những nét làm dáng, đã đem đến cho tác giả giải thưởng của Viện Hàn Lâm, ấy là ở Tây Phương, còn ở Mẽo Phương, nó đem đến cho ông một tài sản (a fortune), nhưng ông đâu thèm quan tâm tới thứ đó! Thời gian này, ông lấy vợ, là một goá phụ, người Ác hen ti nà,  xăng xái, sống động, như một con chim, nhưng hoá ra là một người đàn bà đoảng đủ thứ, sau nhiều cú thượng cẳng chân hạ cẳng tay, theo kiểu yêu nhau lắm cắn nhau đau, họ thường xuyên xa nhau, [bài này dựa theo bài viết cùng tên của nhà phê bình V.S. Pritchett, trong The Complete Essays, nhà xb Chatto & Windus, London, 1991. NQT.] Như tác giả cuốn tiểu sử cho biết, nhà văn của chúng ta “cần” một loại hình đàn bà như vậy làm vợ, bởi vì một cuộc hôn nhân như thế thoả mãn điều gọi là nỗi âu lo, ngần ngại (inquiétude) của bất cứ một nhà văn!
*
Trong lần về Việt Nam, nói chuyện bên “chén riệu” [ly rượu] với mấy anh em cũng dân viết lách, tại nhà một ông cũng “có một nỗi buồn thê lương”, nhân câu chuyện PXN còn nóng hổi, TTĐ gật gù, “Nhầm Ông Hoàng Nhỏ với Cõi Người Ta là một sơ suất nặng!”


Phi Châu Truyền Kỳ
Du lịch với Herodotus [TLS Review] 

Những đứa con của trí tưởng

Đỉnh cao chói lọi
*
*

Giữa Hai Thế Giới

Đọc lại MCNK

Đà Lạt

Một Chủ Nhật Khác: Cuốn tiểu thuyết duy nhất, đầu tiên, và có thể, cuối cùng của Thanh Tâm Tuyền?
Trường hợp MCNK làm nhớ tới Những Kẻ Làm Bạc Giả của Gide. Cũng một cuốn tiểu thuyết duy nhất của một nhà văn với hầm bà làng tác phẩm.
"Không có bạn, liệu tôi viết nổi cuốn sách này không? Tôi nghi ngờ điều đó, bởi vậy xin tặng bạn cuốn sách này."
Đó là lời đề tặng, trên bản thảo cuốn Những Kẻ làm Bạc Giả, của André Gide.
Khi được xb, lời đề tặng ngắn gọn hơn, nhưng giật gân hơn: “Tặng Roger Martin du Gard cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi”.
Có giai thoại, Gide viết tác phẩm trên, khi bị Martin du Gard chê, bạn đếch biết viết tiểu thuyết.
*
Ở một trong những chương đầu Một Chủ Nhật Khác, tác giả mô tả giáo sư Kiệt.

-Succès fou. [Thành công như điên], Duy phụ họa - Giáo sư Kiệt có một vẻ đẹp "tàn nhẫn", "đầy đực tính" không tưởng nổi. Tôi đã từng nghe một cô sinh viên phê bình. Nguyên văn đấy.
Nhưng suốt cả cuốn truyện, anh chàng xuội lơ.

Lần đầu đi với em Oanh, mồ hôi đầy tay, đổ cho bịnh khỉ gì đó, [Em có hiểu tại sao chân anh run, đó là tại anh bị bệnh tê thấp. Khúc Thụy Du, Du Tử Lê]. Lần vợ lên thăm, cứ trơ ra, ỳ ra!


Istanbul

Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn