|
Bird beak tales
A.S
Byatt is swept along by the story of a lost scroll and a lost language
Once on
a Moonless Night
by Dai
Sijie, translated by
Adriana Hunter
224pp,
Chatto & Windus, 5. £12.99
Một
lần một đêm không trăng
Dai
Sijie là một người kể
chuyện tuyệt vời. Vào lúc này hơi bị hiếm thứ người kể chuyện như vầy
bằng
tiếng Tây, chính vì vậy, tốc độ viết, tính phức tạp, tính kịch của ông
càng làm
mọi người ngạc nhiên. Một lần vào một
đêm không trăng đầy chuyện trong chuyện,
thế giới trong thế giới, từ những đế quốc Trung Hoa qua Trung Quốc Cộng
Sản tới
Bắc Kinh hiện đại. Nhân vật nữ, người kể chuyện là người Pháp, học về
Trung
Quốc. Bà/cô bị cuốn hút vào công cuộc tìm kiếm một bản văn thiêng bị
thất lạc, hay
một cuộn lụa, viết bằng một ngôn ngữ đã mất.
*
Dai
Sijie. nhà văn gốc Trung
Hoa, sau thành công của cuốn đầu tay, "nhà văn Pháp Balzac và cô thợ
may
nhỏ bé người Trung Hoa" [đã được quay thành phim], còn là tác giả của
những thước phim, thí dụ như "Trung Hoa, nỗi đau của tôi" [Chine, ma
douleur], đã cho ra lò một cuốn mới toanh: Mặc Cảm của Di [Le Complexe
de Di].
Lần này, văn hóa đế quốc "Trung Nguyên" [l'empire du Milieu] đối đầu
với ông tổ phân tâm học Freud.
Mới từ Trung Quốc trở lại Pháp, nhà văn gốc Trung Hoa, nhưng viết văn
bằng
tiếng Tây này tỏ ra không được vui: "Đám ký giả 'trong nước' xúm lại
cấu
xé tôi, nói, mày là thằng phản bội..." Tôi trả lời: "Liệu có phải là
một tội ác không, khi yêu nước Tây, và những tác giả của nó?"
Trường hợp của ông làm nhớ tới nhà văn Nga viết văn bằng tiếng Tây,
André
Makine, tác giả của những cuốn như Di Chúc Pháp,
Sông
Tình Một Thuở mà
Tin Văn đã giới thiệu.
Trường hợp Makine, ông đã phải coi những cuốn sách của mình, như là bản
dịch,
từ nguyên bản tiếng Nga, bởi vì giới xb không tin, một người Nga chân
ướt chân
ráo tới Paris, lại có thể giỏi tiếng Tây như thế!
Với Dai Sijie, là nhờ cặp mắt xanh của Bernard Pivot, đạo diễn show văn
học "Bouillon
de culture" [Nước dùng văn hóa] trên France 2. Trong chương
trình bữa 21
Tháng Giêng 2000, dành cho những best sellers như Max Gallo, Daniel
Pennac...
ông cài vào một tay mơ, là Dai Sijie, với cuốn sách đầu tay còn nóng
hổi từ
Gallimard. Một thứ tự thuật, câu chuyện về hai chàng trai trí thức
thành phố
được đi thực tế, đúng ra là để tàn đời, tại một vùng núi. "Một cuốn
sách
nên tìm đọc", đó là lời giới thiệu của Bernard Pivot, và tác giả của nó
thì ngồi chết dí trong chiếc ghế bành, trong cái dáng thiểu não lần đầu
chường
mặt ra công chúng, trên một sân quay, anh ta búng búng nói vài tiếng
rồi câm
luôn... "Tôi thật bối rối. Tôi rất tin tưởng ở cuốn sách, " sau này
Pivot nhớ lại. Và rồi ông bốc lên:"Nếu cuốn sách không trở thành một
best-seller, thì kể như buổi chiếu này vứt đi."
Chỉ nội ngày hôm sau, bốn trăm ngàn ấn bản bán sạch. Gallimard phải cho
in
thêm...
Tin Văn xin giới thiệu bài phỏng vấn
Dai Sijie,
trích từ "Đàn Chim Việt"
Nhà Hội,
với Gấu, là cuốn
sách tuyệt cú mèo. Buồn buồn, là lôi ra đọc. Là nhớ Phạm Văn Cội, Củ
Chi. Nhớ
Đỗ Hoà, Nhà Bè.
Nhà Hội ra lò,
đúng lúc
Booker Prize đang coi giò coi cẳng những ứng viên. Như Người Kinh Tế viết, cuốn
sách mãnh liệt chẳng thua gì Ô Nhục
của Coetzee, vậy mà tác giả của nó, qua nhà
xb, đếch thèm đưa sách tới, xin được ban giám khảo sờ, và Booker năm đó
đã về
tay Kiran Desai, với cuốn"Gia tài của mẹ để lại cho con, một lũ khùng
khùng", The inheritance of loss [Di sản của sự mất mát].
*
"We are
born, so to
speak, provisionally, it doesn't matter where; it is only gradually
that we
compose, within ourselves, our true place of origin, so that we may be
born
there retrospectively."
Rilke.
Chúng
ta sinh ra theo kiểu dự
phòng, thì cứ nói như thế, bởi thế, sinh ra ở đâu đâu có quan trọng. Ấy
là nhẩn
nha, dần dần mà chúng ta cấu thành, ở bên trong chúng ta, cái nơi chốn
thực thụ
của cội nguồn của chúng ta, và như thế, chúng ta sinh ra ở nơi đó, theo
kiểu
nhìn lại, hồi tưởng.
Hoặc:
Sinh
ký, tử qui, thì cứ nói
như vậy, thành thử sinh ở đâu, thì cũng được thôi. Cứ dần dà, cứ nhẩn
nha, vừa
sống, chúng ta vừa chiêm nghiệm, và sau cùng chọn ra được nơi chốn mình
ra
đời...
'The
Inheritance of Loss,' by
Kiran Desai
Wounded by the West
Review
by PANKAJ MISHRA
Published:
February 12, 2006
Hình:
Behind the lines - Hanoi
by Harrison E. Salisbury
The book that was denied the
Pulitzer Prize!
"Có lẽ
cũng phải bật mí
tí ti, và cho người ta biết chúng ta có một người ở Hanoi".
[I think we ought to
advertise a bit and let people know that we have a man in Hanoi]
Cuối
năm 1966, ký giả
Harrison E. Salisbury của tờ Nữu Ước Thời Báo, được nhà cầm quyền Miền
Bắc cho
phép ‘tới [Miền Bắc, Hà Nội] để có một cái nhìn nóng hổi về những gì
xẩy ra’
[Harrison E. Salisbury: Behind the lines-Hanoi].
Faulkner trả lời phỏng vấn, The Paris
Review
Âm
thanh và Cuồng nộ. Tôi
viết nó trong năm lần, cố kể câu chuyện và rứt ra khỏi giấc mộng tiếp
tục hành
hạ tôi, cho đến khi viết xong cuốn sách. Đó là một thảm kịch của hai
người đàn
bà bị mất, bị lạc, bị tiêu trầm: Caddy và con gái của cô, Quentin.
Dilsey là
một trong những nhân vật mà tôi trân trọng, bởi vì bà can đảm, độ lượng
dịu
dàng, và chân thật. Bà can đảm, chân thực và độ lượng hơn tôi rất nhiều.
Rừng
Tràm
Thảo
Trường
Thềm nắng
sau lưng
Note:
Đọc, nhớ NNT hồi đầu,
hồi mới viết, NNT của Một
Mối Tình
Còn
làm nhớ đến truyện
ngắn Nội
Cỏ Của Thiên Đường của John
Steinbeck
*
Có con thuyền đã
buông bờ
Lâu
rồi mới viết chuyện tình
Nguyễn Ngọc Tư
Nho
cho rằng, chỉ có ai đó ôm ghì lấy Bế một lần, thì mới mong cô hết
quay quắt, khắt khe.
Bàn
tay
vịn vai Nho rất lạnh và hơi run. Ôi những người đàn bà, hễ mặt mũi xấu
thì tay
chân đẹp, cổ xấu thì lưng đẹp, người xấu thì tâm hồn đẹp. Bằng cách này
hay
cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc buồn cũng đẹp.
*
Tui thấy có lỗi là
chưa đọc
Jean Paul Sartre và Albert Camus, nếu không tui đã cho nhân vật của tui
không
buồn nôn nữa mà buồn... tè, mỗi khi cảm nhận được những điều dối trá.
Blog
NNT
Cũng
đâu có hiền! NQT
Dọn
Sinh 1962, Phạm Chi Lan thuộc
thế hệ bất chợt bị đẩy bật ra khỏi quê hương, thế hệ của Lê Quỳnh Mai,
Vũ Quỳnh
Như, Lê Thị Thấm Vân, Hoàng Mai Đạt, Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Võ Thu
Hương, Nguyễn
Thanh Hùng, Đinh Linh, Đinh Từ Bích Thúy, Nguyễn Quý Đức… thế hệ được
12 tuổi
ngày 30 tháng 4-1975 đặt chân đến Hoa Kỳ, Hòa Lan, Gia Nã Đại với tất
cả sự lạc
lõng cùng vốn liếng yếu ớt của tiếng Mẹ. Chính vì vậy mà những dòng chữ
họ viết
ra bên này biển, trong ngôn ngữ Mẹ, càng thêm quý giá. Cộng đồng đã
tung hô
Linda Lê mà không tự hỏi: Làm sao rời Đà Lạt năm 14 tuổi mà Linda Lê,
cũng sinh
1962, có thể quên tiếng Việt? Và vì sao Linda Lê đã tuyên bố không
thuộc về
Việt Nam, không
liên quan
đến Việt Nam và
không muốn
giao tiếp với cộng đồng Việt Nam? Tung hô Linda Lê
mà lãng quên những Đỗ Lê Anh Đào,
Nguyễn Xuân Tường Vy mà
ngày đến Mỹ cũng ở vào lứa tuổi vị thành niên đã cố gắng gìn giữ ngôn
ngữ Mẹ,
là tự đánh mất giá trị Việt.
Trần Vũ. [Nguồn: Da Mầu]
*
Thú thực, Gấu không hiểu nổi
tay này! Viết như thế này thì PCL và mấy người cùng được nhắc tới
cũng phát
ngượng!
Không ai so sánh như thế, nhất
là trong trường hợp ở đây, trong một cái mail hỏi thăm một người bịnh
đang hồi
phục.
Tay Dai Sijie, viết văn bằng
tiếng Tây, cũng bị tra vấn, đã trả lời thay cho Linda Lê.
*
K.G: Ông sống ở Paris
gần 20 năm, viết
bằng tiếng Pháp. Ông có nghĩ mình là người Pháp?
Dai Sije; Đã có một câu hỏi
tương tự như vậy được đặt ra cho Peileoh Ming, một nhà kiến trúc gốc
Hoa nổi
tiếng, trong nhiều công trình của ông có nhà kính Peramid ở bảo tàng
Luvr. Ở
tuổi 18 Pei
đến Mỹ vào năm 1935 và sau mấy chục năm vẫn thấy mình là người Hoa. Có
thể gặp
người Hoa di tản của Tổ quốc tôi ở bất kỳ xó xỉnh nào trên thế giới,
bởi vì ở
đâu họ cũng hòa nhập được. Nhưng họ vẫn là người Hoa.
K.G: Ông cũng vậy sao?
Dai Sije: (cười) Từng ấy năm
ở Paris
mà tôi
vẫn cứ thích món ăn Tàu.
Nhưng câu trả lời tuyệt nhất,
là của chính Linda Lê:
Tôi có cảm tưởng tôi cưu mang
một xác chết. Rõ ràng, đó là Việt-nam mà tôi mang trong tôi, như một
đứa trẻ
chết.
*
+ Đâu là cảm hứng chính của
chị khi bắt tay vào viết tiểu thuyết Vu khống, tác phẩm được xuất bản
ngay sau
tập truyện ngắn hết sức thành công Phúc âm tội ác (Les Évangiles du
Crime)?
Liệu đó có phải là xuất phát từ trải nghiệm cá nhân?
Sau những truyện ngắn khá tàn
độc đó, tôi muốn tưởng tượng ra hai nhân vật là bản sao của chính tôi,
một viết
văn, một đang đắm chìm trong nỗi hoảng loạn, nhưng cả hai đều khá sáng
suốt về
bản thân họ. Nhân vật nữ chính của truyện, hoang mang, đi tìm kiếm
nguồn gốc
của mình, cô nhờ cậy đến sự giúp đỡ của ông cậu nhưng ông cậu này lại
không có
khả năng làm việc ấy. Chính sự tự vấn về việc được sinh ra, cuộc kiếm
tìm một
sự hợp thức đã khiến truyện có những dấu ấn của tự truyện; vào thời kỳ
ấy, các
vấn đề nan giải của những nhân vật cũng là các vấn đề của tôi, những
tổn thương
của họ có thể được so sánh với các tổn thương mà tôi đang mang trong
mình khi
đó. Theo nghĩa này thì đúng vậy, tôi đã sử dụng đến trải nghiệm cá
nhân. Nhưng
tất cả mọi thứ đều đã được chuyển hóa.
+ Có vẻ như là luôn luôn có
một hình ảnh nào đó về Việt Nam trong các tiểu thuyết của chị: theo lối
ẩn dụ
như trong Ba nữ thần số mệnh (Les trois Parques), hoặc cũng có thể dưới
hình
thức cụ thể hơn của các kỷ niệm đột ngột túm lấy nhân vật chính ở cuộc
sống
hiện tại, như trong Vu khống. Với tư cách nhà văn, chị có một hình ảnh
xác định
nào về Việt Nam
không?
Khi thì tôi coi Việt Nam
giống như một loài cây độc tỏa xuống cái bóng chết chóc, bởi nỗi nhớ có
thể trở
thành một điều xấu xa nguy hiểm, lúc thì Việt Nam lại giống như một cái
cây cổ
thụ nơi tôi tìm được chỗ trú ngụ và giúp tôi phòng chống lại sự vỡ
mộng. Ngay
cả khi tôi được nuôi dạy trong nền văn hóa Pháp, thì Việt Nam vẫn cứ là
mảnh
đất nơi tôi lớn lên, nơi tôi học cách mở mắt, học cách chiêm ngưỡng. Vì
những
lý do ấy, tôi cảm thấy mình là số nhiều: một phần hướng về phương Đông,
nhưng
tôi cũng có trong mình một nét tính cách được hình thành từ trong các
trường
Pháp, tôi thấm đẫm trong văn hóa châu Âu. Và đôi khi, một tác giả người
Áo với
tôi còn gần gũi hơn một tác giả của phương Đông.
+ Chị đã rời Việt Nam
năm lên
mười bốn tuổi. Với chị chuyến đi đó có ý nghĩa như thế nào? Như một vết
thương
hay như một sự vắng mặt bị áp đặt?
Trong một thời gian dài đó
từng là một vết thương lòng. Tôi phải rời xa cha tôi, ông ở lại. Ông đã
có một
ảnh hưởng lớn lên tác phẩm của tôi. Cho đến khi mất (năm 1995), ông vẫn
là người
mà tôi bí mật gửi tặng những quyển sách của mình. Nếu không có ông, nếu
không
có ý chí mà ông truyền vào các mạch máu của tôi, cũng như sự giáo dục
mà ông đã
dành cho tôi, thì hẳn là tôi đã không khởi sự viết văn. Như vậy với tôi
Việt Nam
là quê cha
(tổ quốc) theo đúng nghĩa đen, nghĩa là nơi cha tôi đã sống, đã đau
khổ, đã yêu
thương, và đợi tôi trở về.
+ Chị có cảm giác gì khi thấy
các tiểu thuyết của mình được dịch sang tiếng Việt (trước Vu khống đã
có một
bản dịch Tiếng nói - Voix - của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường?)
Tôi không còn đọc được tiếng
Việt một cách trôi chảy nữa, thành ra tôi đã không thể thưởng thức trọn
vẹn bản
dịch Tiếng nói. Nhưng khi nhận được cuốn sách tôi đã rất xúc động,
giống như
ngày hôm nay tôi xúc động khi được biết sẽ có một phiên bản tiếng Việt
của Vu
khống. Tất cả những gì đến với tôi từ Việt Nam
đều gây cho tôi niềm xúc động.
Điều này giống như là một bức thư mà tôi viết đã đến được đúng địa chỉ,
tương
tự như khi người ta ném một cái chai xuống biển và nó đến được tay
người nhận.
+ Sự lưu đày thực tế và sự
lưu đày về ngôn ngữ mở đến cái chưa biết, hay tạo ra các bó buộc?
Tôi không coi lựa chọn viết
bằng tiếng Pháp là một sự lưu đày. Tôi đã học thứ tiếng này ngay từ khi
còn rất
nhỏ, nên với tôi nó hết sức thân thuộc. Tôi sống trong cảnh lưu đày,
nếu nói
đến khía cạnh địa lý, nhưng theo năm tháng, nỗi đau đã mờ dần đi. Tôi
thích cái
ý nghĩ mình không ở đâu cả, không bị mất gốc rễ nhưng cũng không có
ràng buộc,
tôi không hề cảm thấy mình là một người Pháp, dù cho tôi đã ở Paris từ
hơn hai
mươi năm nay và đã rất quen với cách sống phương Tây. Tôi cảm thấy mình
lúc nào
cũng ở vị thế chênh vênh, chứa đựng tất cả các khả năng có thể. Tôi
cũng hy
vọng viết được bằng một ngôn ngữ không mang tính quy phạm, mà phải đủ
tính sáng
tạo để phá đi được mọi xiềng xích gò bó.
+ Là một người châu Á sống ở
Pháp và muốn viết bằng tiếng Pháp, liệu đó có phải là một chủ đề ít
nhiều phi
lý hay không?
Vì tôi thích ý nghĩ mình
không ở đâu cả, nên tôi cũng thích ý nghĩ mình là một điều kỳ quặc.
Tính kỳ
khôi của việc viết văn bằng tiếng Pháp trong khi đó không phải là ngôn
ngữ của
mình khiến tôi thấy rất hào hứng.
+ Chị đã viết rất nhiều về
các tác giả cổ điển (trong mục “Quay trở về với cổ điển” trên tạp chí
Magazine
littéraire và viết các giới thiệu tác phẩm của những nhà văn như Jean
Cocteau):
liệu có thể từ đó mà suy ra rằng chị thích văn chương cổ điển hơn văn
chương
đương đại?
Cứ nghĩ rằng tôi sẵn sàng đọc
các tác giả cổ điển hơn, bởi vì đó là những cuốn sách đã chống cự lại
được thử
thách của thời gian, nhưng tôi cũng thích đọc một số nhà văn đương đại.
Tôi đặc
biệt đánh giá cao nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, ngay cả khi tôi
đọc
chúng qua tiếng Pháp.
+ Có vẻ như là triết học của
Cioran (triết gia gốc Rumani viết tiếng Pháp, nổi tiếng về tính bi
quan) gây
tác động rất lớn đến chị. Chị có thể nói về điều này không?
Còn hơn nhiều triết học của
Cioran, mà tôi phát hiện cùng lúc với triết học của Kierkegaard, chính
mối quan
hệ giữa ông và tiếng Pháp mới thực hấp dẫn tôi. Ông nói rằng bất hạnh
của người
trú dân là muốn làm mọi thứ giỏi hơn dân bản địa. Ông đã làm được điều
này,
bằng cách viết một thứ ngôn ngữ vô cùng thuần khiết. Sở thích của ông
dành cho
các tác phẩm thần bí cũng làm sống dậy ở tôi cùng một niềm hứng khởi.
Người ta
vẫn thường coi Cioran là một kẻ hư vô chủ nghĩa, còn với tôi trước hết
ông là
một kẻ tà đạo, người đã giáng những cú đòn đau cho giới chính thống và
làm
chúng ta sung sướng với những châm ngôn mang một màu đen đầy gợi hứng.
Blog Nhị Linh.
*
Rushdie chẳng đã từng phán: Chinh phục "tiếng không phải tiếng Mẹ" là
hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng ta, sao?
Brodsky mới hách: Ông này viết, làm thơ, bằng bất cứ tiếng gì, thì cũng
là bằng tiếng Mẹ [tiếng Nga] đối với ông.
Sau
Lò Thiêu, có còn Vãi Lệ được không?
TLS, 9 Tháng Giêng,
2009
Cuốn sách này đúng là để trả
lời câu phán hắc búa của Adorno, mặc dù chính ông này, sau khi đọc
Celan, đã
rút lại câu nói của ông: Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã
man. Tác
giả cuốn sách Lãng mạn sau Lò Thiêu
cho rằng, vào những thời kỳ khủng hoảng như
thế, nhân loại thường ôm vội ôm vàng lấy đạo đức, coi nó như là một
excuse, một
cover, để che giấu sự thất bại, đếch hiểu được thơ!
How one book ignited a culture war
It's 20 years since Iran's
religious leader Ayatollah Khomeini pronounced a death sentence on
Salman
Rushdie for 'insulting' Islam with his novel The Satanic Verses. The
repercussions were profound - and are still being felt. Andrew Anthony
traces
the course of the affair, from book-burnings and firebombings to the
dramatic
impact it had on freedom of expression in a multicultural society
*
Salman Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
Đưa mắt
thoáng nhìn và ánh phản chiếu từ cặp kính
đen của Ghani khiến ông bác sĩ bất thình lình hiểu ra là vị chủ đất mù.
Phát
giác ra điều này càng làm ông thêm ngán ngẩm: một người mù mà lại hiu
hiu tự
đắc là sành điệu, là biết thưởng thức hội họa Âu Châu. Sự mù lòa của vị
chủ đất
còn khiến ông sửng sốt, ấy là vì ông không hề va đụng vào bất cứ đồ vật
nào
trong nhà…
*
Giấc mơ Áo
gấm về làng
Thứ Năm 6 Tháng Tư, 2002
Tôi rời Ấn Độ nhiều lần. Lần đầu,
khi 13 tuổi rưỡi, đi học, tại một trường ở Anh quốc. Mẹ tôi không muốn
tôi đi.
Chuyến bay, Tháng Giêng 1961 làm tôi thật phấn kích, không hề biết rằng
nó làm
cuộc đời của tôi thay đổi hoàn toàn. Vài năm sau, cha tôi, không nói
cho tôi biết,
bất thình lình bán căn nhà của chúng tôi tại Bombay. Bữa tôi biết tin này, tôi cảm
thấy hố
thẳm mở ra ngay dưới chân, và nghĩ, sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho ông
già của mình.
Nếu ông không bán nhà, chúng tôi vẫn còn ở đó.
Kể từ khi những nhân vật của
tôi từ Đông bỏ qua Tây, thì tôi, hay nói rõ hơn, trí tưởng tượng của
tác giả,
luôn bò về, hết cuốn tiểu thuyết này tới cuốn khác. Điều này có lẽ nói
lên
ý nghĩa,
yêu một xứ sở có nghĩa là gì: dáng của nó là dáng của bạn, its
shape is
yours. Dáng nghĩ, dáng cảm, dáng mơ dáng mộng. Dáng đứng Bến Tre! Dáng
đứng đường băng [Tân Sơn Nhứt]. Dáng đứng Mít!
[The shape of the way you
think,
and feel and dream].
Rằng, bạn chẳng thể nào thực sự bỏ
đi. That you can never really leave.
Salman Rushdie: A Dream of Glorious
Return
Phi Châu
Truyền Kỳ
Du lịch với
Herodotus [TLS Review]
Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại
nhất của
thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông
viết, là
câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này, Du lịch cùng với Herodotus.
Câu văn tả cô tiếp tân ở một khách sạn ở Bodrum, Thổ
nhĩ kỳ, tên mới của
thành phố cũ, Halicarnassus, nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus
sinh ra.
Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu
nữ Thổ
mắt đen lay láy vẫn phảng phất sự khinh khi, dè bỉu, lãnh đạm, đúng
theo truyền
thống, đối với một “người dưng”.
Có thể nói, qua cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó, chúng ta hình dung ra được
cuốn sách,
thuật câu chuyện một người Âu Châu đơn độc, và những cuộc gặp gỡ của
người đó
với những nền văn hóa Á châu và Phi châu, trong tất cả những vẻ đẹp của
nó,
nhưng còn cả ở trong cái sự không làm sao nhập vô được, và luôn luôn,
dưới sự
chứng giám của Herodotus.
Vào năm 1956, khi còn là một ký giả trẻ măng, Kap được bà chủ báo phái
đi Ấn
Độ, cùng lúc giúi vào tay ông, bản dịch lần đầu tiên ra tiếng Ba Lan
tác phẩm
của Herodotus. Trên máy bay đi New Delhi, ông lôi nó ra đọc, và thế là
nó cứ
lẵng nhẵng theo cùng với ông suốt cuộc đời còn lại.
Du lịch cùng với Herodotus kể câu chuyện, do đâu mà Kap coi H. như là
khuôn mẫu
và nguồn hứng khởi của ông, về cả hai, ở trong sự tiếp cận của ông đối
với sự
khác biệt giữa những dân tộc, và ở trong những phương pháp của ông, như
là một
nhà văn. Ông coi H. như là nhà “toàn cầu hoá” đầu tiên, người đã kết
hôn với
“chủ nghĩa đa văn hóa” và là người, trong cuốn Histories, một
tác phẩm
sống động, có tính quan sát đã đưa ra một thí dụ lớn lao, đầu tiên, về
thế nào
là “phóng sự” ở trong văn chương thế giới.
Kap vờ đi không nói, lẽ dĩ nhiên, rằng H. kể từ cổ đại, đã được nhiều
người coi
như là ‘cha của những điều dối trá’. Có thể, đây là một sự vờ khôn, bởi
vì, như
bây giờ chúng ta biết được, dưới thời kỳ CS, như là một phóng viên
ngoại của
hãng thông tấn Ba Lan PAP, Kap còn dấn thân vô nghề gián điệp. Tuy
nhiên, ba
thứ nhớp nhúa ‘nhìn lại, hồi tưởng, săn bắt phù thuỷ’, tí cứt dính vô
tên ông
kể từ năm 1989, chẳng thể nào làm mờ những trang viết của ông, ấy là
nói về
tính thật thà, không thiên vị, bộc trực, và sự duyên dáng, vẻ thanh tú,
mà với
chúng, ông khai phá hậu quả văn hóa chính trị Ba Lan, trên đường ông
thâm nhập
nhân chủng học. Một tuổi thơ nghèo khổ đến thê lương trong thời gian
chiến
tranh ở Warsaw khiến ông không làm sao dung hòa hay mô tả một cách
khách quan
cái vực thẳm lớn lao giữa người giầu và người nghèo mà ông chứng kiến ở
Ấn Độ,
và nền học vấn đặc biệt mà ông hấp thụ còn làm cho ông trở nên vô cảm,
ông thú
nhận điều này, trước sự quan trọng của những văn hóa tín ngưỡng khác,
cho dù đó
là Ấn Độ giáo, hay Hồi Giáo.
Trong khi tái cấu trúc lịch sử như thế, tất
nhiên sẽ
nổi lên sự so sánh: Toan tính chinh phục thảo nguyên Nga vùng
Massagetae của
Cyrus làm ông nhớ tới chiến dịch yểu tử của Napoleon ở Moscow; Tomyris,
nữ
hoàng kiêu ngạo của bộ lạc Pontic trở thành nguyên mẫu người hùng bài
thuộc
địa; Hoàng đế khùng Persia thì y chang Stalin của những năm cuối đời,
thập niên
1950, ăn ngủ với máu. Rất nhiều những nhận xét của Kap về Đế quốc Ba Tư
là từ
kinh nghiệm trực tiếp, cá nhân của riêng ông khi trải qua hai chế độ
Nazi và
Cộng sản ở Ba Lan.
Thời
kỳ thế giới hậu chiến, ông để ý tới sự thoái trào
của ảnh hưởng toàn cầu của Anh quốc (đặc biệt ở Ấn Độ và Hongkong), và
của Pháp
(tại Bắc Phi). Ông rất say mê lý thuyết của Herodotus, theo đó, sư phụ
của ông
cho rằng, nếu coi động cơ lịch sử là trả thù, thì một động cơ như thế
sẽ đẻ ra
những rối rắm không làm sao mà ổn định được, cho những quốc gia thời kỳ
hậu
thuộc địa, rõ ràng nhất, là trong lần ông viết về sự dã man ở Congo,
khi những
viên chức Bỉ bỏ chạy vào năm 1960.
Thật khó mà biết, Du lịch với Herodotus được hoàn tất cùng với
sự hài
lòng của tác giả của nó. Đôi khi đọc nó giống như đọc một chuỗi những
tiểu luận
dở dang về Herodotus, được cài đặt xen kẽ giữa những bài báo thuộc dạng
tái chế
biến. Có thể đây là một toan tính mô phỏng văn phong tản mạn, bạ đâu
xâu đó,
lăng ba vi bộ, của sư phụ, với hầm bà những sa đà, những giai thoại ôm
đồm,
luộm thuộm, tuy nhiên, có những triệu chứng cổ điển về chuyện bản thảo
không
được coi lại, đặc biệt là những lập đi lập lại một cách tuỳ tiện. Tuy
nhiên,
vẫn tuy nhiên, có những đoạn gây sững sờ, nghẹt thở, làm lộ rõ tài năng
sáng
ngời của tác giả Shah of Shahs (1982) trong kỹ thuật miêu tả:
hỏa thiêu
tập thể trên bờ sông Hằng; hoàng hôn trên Kabul nhìn từ máy bay, chạy
xe từ Bắc
Kinh tới Vạn Lý Trường Thành, ông vua kèn đồng vô tư xả mồ hôi ướt đẫm
bộ đồ
xịn, nơ cánh bướm tại vận động trường Sudan, khi ông hát những ca khúc
của Miền
Nam Sâu Thẳm, trước đám đông ngỡ ngàng.
*
Cái vụ Louis
Amstrong này làm Gấu nhớ tới lần ông ghé Miền Nam, và biểu diễn
kèn đồng cùng với cả băng nhạc Jazz của ông tại Hội Việt Mỹ, và thính
giả Sài
Gòn, cứ mỗi lần ông rú kèn là vỗ tay rào rào, khiến ông nản quá, bèn
"thích thì chiều", rú kèn liên tiếp! Gấu ngồi ngay hàng ghế đầu, thế
là được chụp hình, được đưa lên báo Thế Giới Tự Do.
Thú
thiệt! Hình như đó là năm Gấu đang học Đệ Nhất Chu Văn An. Bữa đi coi
có cả
bạn C, ông anh nhà thơ.
*
Note:
Post lại
một bài cũ trên Tin Văn của John Ryle, tác giả bài viết về Kap.
Disneyland
cho những tên
độc tài
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Sunday, January 11, 2009
11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau
mấy năm rồi, cũng vẫn câu
hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói
chuyện với
bạn bè được, hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều . Vừa
xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay
nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi
chưa coi phim đó.
Tks.
Chỉ
có tình là vĩ đại thôi.
Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN
tôi có đọc một cuốn sách dịch chuyện
tình Tầu. Chuyện nào cũng hay. Có một
chuyện, về một anh học trò nhà quê, lên thành đô học, mê một em trong
xóm, chuộc
em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái
buôn. Anh này
thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp,
phải bán
vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở mấy cái rương bạn bè trong
xóm tặng
ra, hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống sông, rồi
thả mình
theo.
Có
một lời bàn, đẹp thế, sao
ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà theo!
Chuyện
hơi giống chuyện nàng
Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục. Nhưng chuyện TK
có hậu hơn, anh
chồng hối
hận, lo nuôi con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên,
khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện
tình Mít
kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc
sản
Miền Nam”,
là
Một
Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã
buông bờ, Lâu
rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư? Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong
chuyện tình. Cái cô Bế [tên hay thiệt!] phải có một mối tình lớn, vì nó
mà bỏ xứ mà đi,
và mối
tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ
bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối
Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa
con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết
như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!
Đặc sản Miền Bắc
thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi
tẹt,
mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay…. Hay em trong Trăng Goá, do
sặc sụa
mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam
chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ
Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng
còn đêm nào như đêm nay
đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự
nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó
trong
cuộc chiến này".
Gấu
đọc War
Sadness
Tại sao Bảo Ninh tịt
ngòi?
Gấu
tin rằng, chỉ Gấu mới trả
lời nổi câu hỏi hắc búa của đám mũi lõ, về nhà văn nổi tiếng nhất xứ
Mít.
*
Why
Vietnam's
best-known author has stayed silent
Fifteen
years after Bao
Ninh's admired war novel, he explains his fears about publishing a
sequel
Suzanne
Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19,
2006
The Observer
|