Truyện ngắn mới nhất của Thảo Trường


Gậy Ông Đập Lưng Ông           

Cuộc chiến vượt biên giới, vào sâu đất liền giết hại đồng bào ta đập phá nước ta năm 1979 của những tên xâm lược TQ được giải thích là một cuộc “đánh nhau”! Nghĩa là không có kẻ đi xâm lược và người bị xâm lược. “Địch” ở đây chính là Việt Nam, giết Việt Nam tức là giết địch (!) Thứ lý luận lưu manh truyền kiếp và tàn độc đó lại được “anh em ta” ở nhà xuất bản Văn Học dịch ra in thành sách để đồng bào mình đọc(!) Thật không còn gì bỉ ổi hơn, khi những tư tưởng đó được giới thiệu ở bìa sách là : “Một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng”!
*
Cái đoạn trên đây, Gấu không dám xuyên tạc, nhưng giả sử me-xừ Đào Hiếu đổi đi một tí, là nó biến thành cuộc chiến giữa ta, Miền Bắc, và địch, Miền Nam liền tù tì!
“Một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng”!
Tuyệt!
Nào đâu là Nguỵ bị giết, nào đâu là liệt sĩ được nhân dân đời đời nhớ ơn!


*

Leave None To Tell The Story
Đừng để sổng một người nào để kể lại câu chuyện.
She knew that story-telling matters.
Bà biết, kể ra được câu chuyện là tạo ra được ảnh hưởng.
On April 6th 1994, Mrs. Des Forges was at home in Buffalo. The presidents of Rwanda and Burundi were assassinated at 8.20pm that day, which was lunchtime in Buffalo. Twenty minutes later, a friend telephoned Mrs. Des Forges from Kigali, the Rwandan capital. "This is it. We're finished," said Monique Mujawamariya, a fellow human-rights monitor.
Mrs. Des Forges called her every half-hour, late into the night. She heard her describe steadily more alarming scenes militiamen going from house to house, pulling people out and killing them. Eventually, they came to Ms Mujawamariya's door. Mrs. Des Forges told her to pass the telephone to the killers. She would pretend to be from the White House, she said, and warn them off. "No, that won't work," said Ms Mujawamariya. Then she added:
"Please take care of my children. I don't want you to hear this." And she hung up.
Alison chứng nhân tội diệt chủng, mất ngày 12 Tháng Hai, thọ 66 tuổi.
Hai tai nạn máy bay tạo dấu ấn cuộc đời Alison Des Forges. Tai nạn thứ nhất, xẩy ra gần 15 năm trước đây, một chiếc máy bay chở hai vị tổng thống bị hỏa tiễn hạ trên nển trời Rwanda. Tai nạn thứ nhì, tuần vừa rồi, gần Buffalo, New York, làm 50 người chết, trong có bà, một người Mỹ nhỏ nhắn, tóc bạc. Tai nạn thứ nhất chỉ là một cái cớ cho một công cuộc diệt chủng mau lẹ nhất trong lịch sử. Tai nạn thứ nhì làm bặt tiếng một chứng nhân, một sử gia thì cũng được, người có tham vọng ghi chép đầy đủ đến từng chi tiết vụ diệt chủng nói trên.
Nguồn


Oral history in China
Tales of old


Corruption in Kenya
How to ruin a country?
Feb 26th 2009
From The Economist print edition



Trang Vila-Matas

*

Thi tập thứ tư của Nguyễn Lương Vỵ
Hình bìa & Minh họa: Đinh Cường
Trình bầy bìa & Trang trong: Vương Trùng Dương
Nhà in Five Stars Printing
Q.P ấn hành lần thứ nhất. Tháng 12.2008. Quận Cam, Cali, USA.
E-mail: nguyenluongvy@yahoo.com

Tác giả giữ bản quyền


*
Phê bình, một nghệ thuật hắc búa
Lire, c'est vivre plus!
Đọc, là sống tới!



Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

*

Tiếng Tây của sư phụ Faulkner. Có vẻ đệ tử khá hơn!
Diễn văn khi được phong sĩ quan đội quân danh dự.
Một nghệ sĩ phải tiếp nhận với sự nhún nhường vinh danh xứ sở này trao cho nó, một xứ sở luôn luôn là bà mẹ phổ quát của mọi nghệ sĩ.
Một người Mỹ phải nâng niu từng kỷ niệm của xứ sở, một xứ sở luôn luôn là người chị, người em của nó.
Một người tự do thì gìn giữ với hoài vọng và luôn cả với sự kiêu ngạo, sự ôm ấp cưu mang của xứ sở, một xứ sở là mẹ của mọi tự do của con người và của tinh thần nhân loại.
[Note: Đây là giấc mơ Mẽo của “Đại gia Faulkner”]
Lại Faulkner, Gấu nghe như một ông thi sĩ dởm đang cằn nhằn. Lại TTT, lại Oanh, lại Kiệt, lại BHD…  Gấu Cái chửi.
*
Alice McDermott, giải thưởng National Book Award 1998, trả lời phỏng vấn “Cuốn sách thay đổi cuộc đời của tôi”, [“Bà khám phá ra cuốn Absalom, Absalom! khi nào và phản ứng của bà ra sao trước cách kể chuyện của Faulkner?”], đã trả lời:
Tôi khám phá ra Absalom, Absalom! khi đang học trung học. Lẽ dĩ nhiên, ngỡ ngàng đầu tiên là sự ào ạt, onrush, của ngôn ngữ, ở trong cuốn tiểu thuyết, và cũng giống như Đỉnh Gió Hú, một cuốn khác nữa mà tôi thật mê, câu chuyện được kể trong đó thì đầy đam mê. Nhưng còn có một cái gì hơn cả tình cảm, đam mê, và chính cái này đòi hỏi sự đọc đi đọc lại đọc hoài đọc mãi, cũng như câu chuyện phải được kể đi kể lại thật nhiều lần. Chính những câu kệ chứa đựng sự đam mê. Nỗi hối hả đến tuyệt vọng, nghẹt thở, phải đọc xong, đọc hết, phải chuyển nó đi, phải giải thích nó, cho một người nào đó - đó là điều tóm chặt lấy tôi.
Thực sự, còn lâu, đám Yankee mũi tẹt mới hiểu được điều tuyệt vời trên đây.
Chưa viết là đã muốn làm bố thiên hạ rồi! Cứ viết được một câu, là ngưng, để giải thích!
Sợ người đọc ngu dốt, không hiểu được thông điệp của câu văn!
*
Tờ Granta, số 64, Mùa Đông, 1998, đặc biệt về Miền Đông Hoang dã của Nga xô, Russia, The Wild East, Tin Văn đã từng chôm một vài đoạn ở trong đó. Trong bài Intro, được scan dưới đây, và nếu có thể sẽ được dịch, có đoạn:
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính nó, vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, thì cũng hết còn bị dồn nén, cho nên những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và những trò kỳ quái mang tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Nhận xét trên thật quá đúng đối với văn chương Mít ở trong nước. Nào là rung chuông tận thế, nào là ẩn dụ "cởi truồng", chời hoài chờ huỷ không thấy kinh, và chỉ thấy kinh, [có tháng] vào ngày lễ ra trường ngợp cờ đỏ, hay bị bóng đè, bị hồn ma tiền nhân, hay ma net hiếp...
[Note: Những dữ kiện nêu ra ở đây, chỉ có tính minh họa, không nhằm khen chê bất cứ tác giả nào].
Theo Gấu có một sự băng hoại khủng khiếp ở trong văn chương trong nước. Nhà văn hàng ngày phải chứng kiến những tội ác chưa từng có trong lịch sử nước Mít, thí dụ, đại gia xả xui bằng cách lấy trinh hàng loạt trẻ em, ông hàng xóm hiếp đứa con nít 5 tuổi nhà kế bên bằng mồi nhử là ba cục kẹo...  Khủng khiếp hơn nữa, những con quái vật này không bị trừng phạt, hoặc trừng phạt thật nhẹ. Khủng khiếp hơn nữa nữa, chính nạn nhân năn nỉ khoan hồng cho chúng, bởi vì đành phải chấp nhận một tí tiền bồi thường bên ngoài tòa án, nếu không, chẳng được gì. Và do sợ hãi, do bổng lộc, do hèn hạ...  nhà văn đành câm miệng trước tội ác, và để quên nhục nhã, viết biếm văn, viết ẩn dụ cởi truồng.
Cứ giả dụ, nhà văn ý thức được những cái ác nhan nhản trước mắt, nhưng do không kiếm ra nổi một thứ ngôn ngữ trung tính, một cách viết trắng, như cách viết của Camus, thí dụ, và sử dụng thứ ngôn ngữ ô nhiễm, [nào đại gia, nào máu, nào đạn...], hoặc ngôn ngữ dối trá nâng bi quá khứ, tác phẩm cũng không thể nào đọc được.
Cái sự băng hoại của ngôn ngữ, cái sự dối trá mới đáng sợ làm sao!

Trong đó, có sự đóng góp đắc lực của những nhà văn.

 Tình Trại

Granta, 64, Winter 1998
RUSSIA, The Wild East
INTRODUCTION

Russia is the largest country in the world-a sixth of its land mass-with a record of upheaval, terror and bloodshed unparalleled in this century. First, the revolution of 1905, bloodily suppressed; then the revolution of 1917, bloodily won; then Stalinism, with millions killed in its forced migrations, exterminations and prison camps; and (concurrent with the last) invasion by Germany and a war in which upwards of twenty million Soviet citizens died. Finally, after decades of sacrifice which turn the Soviet Union into a military rival of the United States, acknowledgement that it has all been for nothing, that capitalism and liberal democracy have won; and with their victory comes the shredding of a state, an empire, a way of living and thinking-and pre-revolutionary levels of social inequity. To be a Russian old enough to have lived through most of this is to know extremes of hardship and disillusion that other people, at least in other industrialized nations (even Germany), can barely imagine. As Anatol Lieven writes in his new book on the recent Chechen war, Chechnya: Tombstone of Russian Power: 'To most of its inhabitants the Soviet Union was more than just a civilization, or a warped version of modernity. It was indeed a world, the only one they knew, and-according to its founders and mentors-the greatest of all worlds, the summit of human history, knowledge and achievement.'
'Reform' is the word that the West has attached, optimistically, to Russia's new condition, in which taxes and wages go unpaid, gross domestic product and life-expectancy decline, the rouble crashes and inflation (in 1998) runs at 200 per cent; where fear of the state and its laws has been replaced by corruption, crime and ruthless self-interest-'bandit capitalism'. These are, as Lieven writes, not so much unfortunate by-products of 'reform' as the phenomena at the very heart of it. If the Russian people were not so soured, confused and exhausted by their experience of ideology, one might be tempted to say that, once again, they looked ripe for revolution.
In literature, Russia has a great, perhaps the greatest, tradition of realism, which seems to have come to a temporary halt. Perhaps because reality itself is j now so quicksilver and the truth about it no longer repressed, new Russian writers often favor satire and allegorical fantasy, forms which, when they lose their social context, can face a difficult crossing to other societies and languages. This issue of Granta contains an example that has made the crossing successfully: the piece by Victor Pelevin. It also includes, by contrast, a newly translated story by Andrei Platonov, who died in 1951 and most of whose work was banned until the last years of Soviet rule. Only in the past decade has he come to be recognized-but not widely enough-as one of the finest Russian writers of prose this century. His story, 'The River Potudan', is hypnotic in its quiet strength and sincerity; written of a time when it looked as though the future had been won. IJ [Ian Jack, Editor]


Tổ Quỉ

Đỉnh cao chói lọi
Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão. Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà, xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ sở này.
DTH: Đỉnh cao chói lọi [DCV online]
Nếu chúng ta chấp nhận những hiện tượng siêu nhiên xẩy ra sau khi Chủ Tịch về Trời, thì chúng ta cũng phải chấp nhận Chủ Tịch là một siêu nhiên. Và ông Hồ, hiểu như thế, sẽ không có một trách nhiệm gì về những gì ông đã làm.
Vũ Ngọc Phan đã từng chê Nguyễn Tuân khi tả cảnh pháp trường, thật ghê rợn: thiên nhiên phải thần phục con người. Ở đây, với DTH, con người cúi đầu khuất phục siêu nhiên. Khuất phục ông Hồ như một ông Ác, và thần phục, như một ông Thiện. Ngắn gọn, khuất phục định mệnh. Trời kêu ai người nấy dạ.
"Định mệnh thuyết có lẽ chẳng là gì hết, ngoài điều này: nó là một định luật về những cái còn lại, những đồ dư thừa, cặn bã (1)".
(1) 'Determinism as far as it can be conceived.... is perhaps nothing else but the law of residues'. Hannah Arendt, Franz Kafka: A Revaluation.
*
Salvation or Ruin: Cứu Rỗi hay Điêu Tàn
Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
*

Điều làm cho K trở thành rất hiện đại và cùng lúc thật kỳ kỳ trong số những người cùng thời với ông, vào thời kỳ tiền thế chiến, chính là điều, ông từ chối dâng mình cho cái ngẫu nhiên cái tình cờ cái cứ khơi khơi xẩy ra (thí dụ, ông không muốn khơi khơi lấy vợ), ông cũng chẳng mê mẩn, tự hào về thế giới như nó khơi khơi vồ lấy ông… Ông muốn xây dựng một thế giới xứng hợp với những yêu cầu của con người và phẩm giá của họ; một thế giới mà những hành động của con người do chính con người quyết định, chứ đếch có do siêu nhiên, những sức mạnh bí ẩn, do ông thiện hay ông ác, từ phía bên trên hoặc  bên dưới…
What makes Kafka appear so modern and at the same time so strange among his contemporaries in the pre-war world is precisely that he refused to submit to any happenings (for instance, he did not want marriage to "happen" to him as it merely happens to most); he was not fond of the world as it was given to him, not even fond of nature (whose stability exists only so long as we "leave it at peace"). He wanted to build up a world in accordance with human needs and human dignities, a world where man's actions are determined by himself and which is ruled by his laws and not by mysterious forces emanating from above or from below. Moreover, his most poignant wish was to be part of such a world-he did not care to be a genius or the incarnation of any kind of greatness.
This of course does not mean, as it is sometimes asserted, that Kafka was modest. It is he who once, in genuine astonishment noted in his diaries, "Ever sentence I wrote down is already perfect" which is a simple statement of truth, but was certain y not made by a modest man. He was not modest, but humble.
In order to become part of such a world, a world freed from all bloody apparitions and murderous magic (as he tentatively attempted to describe it at the end, the happy end, of his third novel, Amerika), he first had to anticipate the destruction of a misconstructed world. Through this anticipated destruction he carried the image, the supreme figure, of man as a model of good will, of man the fabricator mundi, the world-builder who can get rid of misconstructions and reconstruct his world. And since these heroes are only models of good will and left in the anonymity, the abstractness of the general, shown only in the very function of good will may have in this world of ours, his novels seem to have a singular appearance as though he wanted to say: This man of good will may be anybody and everybody, perhaps even you and me.
Hannah Arendt
Franz Kafka: A Revaluation.


Dọn


Văn chương và siêu hình: Về cuốn Linh Sơn