nqt




  &

*

*

NYRB Jan, 2000

Bài thơ này, được viết khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác giả, được kiếm thấy trong những giấy tờ của ông
.

Ngày 1 Tháng Giêng, 1965
Những Vì Vua sẽ đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc lịch dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc….  đốt đuốc chơi đêm?

Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng

Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!

Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông, cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những ngày tháng cũ.

Và bèn ngước mắt nhìn lên, nơi không một đám mây trôi giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời rồi, Gấu ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và bầy đoàn thê tử của Xừ Lủy

Và bất thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.


Tưởng niệm 7 năm TTT mất

Notes about Brodsky

Milosz

Đại lượng, rộng lượng, là 1 trong những nét lớn của ông, generosity was one of his traits. Bạn bè của ông luôn cảm thấy, gặp ông là 1 đại hội, đồ biếu tới tấp, his friends always felt showered with gifts. Ông luôn luôn sẵn sàng để "help", giúp, bất cứ lúc nào, để tổ chức, organize, sắp xếp, to manage things. Nhưng trên tất cả, để xưng tụng, để thổi bạn, to praise.
Sự rộng lượng của ông hiển hiện rõ ràng nhất, ở trong Trò chuyện với Brodsky, của Volkov, về Akhmatova. Qua xưng tụng của Brodsky, bà mới vĩ đại, minh triết, wisdom, dịu dàng, và trái tim mới lớn lao làm sao!
Với ông, sự vĩ đại của 1 nhà thơ thì không thể tách ra khỏi sự vĩ đại, như 1 con người. Có thể tôi hiểu lầm, nhưng tôi chẳng hề hồ nghi, dù chỉ khoảnh khắc, khi ông [Brodsky] xưng tụng một nhà thơ, thì cùng lúc xác nhận, đây đúng là 1 con người, when he praised a poet while admitting at the same time that he was just average as a human being. Khi ông phán, thí dụ, Robert Frost thì lớn trong thơ, thế là đủ, đếch cần phải dị mọ vào đời thường, vào tiểu tử của thi sĩ, it was enough, for example, that Robert Frost was great in poetry to justify not inquiring into his biography. Nói rộng ra, thì đây là niềm tin của ông, rằng cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, mỹ học có trước đạo hạnh, this was consistent with his conviction that aesthetics precedes ethics, và, có thể phán tới chỉ, rằng, mỹ là nguồn của đạo hạnh, is even its sources.
Milosz

Cái sự kiện TTT nằm xuống, chấn động trong và ngoài nước, thì liên quan tới đạo hạnh của cá nhân cuộc đời của ông, nhiều hơn là do thơ tự do mà ông là chủ soái, bởi là vì đâu có phải ai cũng đọc được thơ của ông, chưa nói chuyện mê. Nhưng những dòng Milosz viết về Brodsky lại làm cho chúng ta hiểu thêm, vấn đề, chính cái đẹp của thơ của ông mới là nguồn của sự kính trọng.

Như được nhiều người biết, bi khúc độc nhất, the only elegy, dành cho T.S. Eliot vào năm 1965, được Brodsky viết bằng tiếng Nga. Vào lúc đó, thì Eliot đang ở Lò Luyện Ngục, purgatory, như số phận dành cho những con người sống cuộc đời long trời lở đất, một phản ứng bình thường, the usual reaction - chữ của Milosz - dành cho những danh vọng đỉnh, peak fame. Nhưng ở Nga, ông chỉ mới vừa được khám phá. Sau đó, như Brodsky thú nhận, ông không thích lắm, he was disenchanted, với "Four Quartets". Nói chung, ông coi trọn dòng hiện đại, the whole modernism (theo nghĩa Anglo-Saxon của từ này), thì không khỏe mạnh, unhealthy, đối với nghệ thuật thơ.
Ông nói về chính trị ở nước ông, dùng những khái niệm cổ xưa, employing concepts dating from antiquity: emperium [absolute power, empire, đế quốc], tyrant, bạo chúa, slave, nô lệ. Trước hết, ông tin tưởng, thơ, trong mọi xã hội, được hiểu với lịch sử, thì chỉ là sự quan tâm của 1 tí người, cỡ chừng 1% so với toàn thể, hoặc may lắm, thì nhỉnh hơn 1 tị: In the first place, he believed that poetry in every society known to history is of interest to little more than one per cent of the population. Thứ nữa, người ta không thể nói đến đồng đẳng, ngang hàng, equality, giữa những nhà thơ, ngoại trừ đối với một dúm thật là cừ, with the exception of the few who are very best, to whom it is inappropriate to apply the labels “greater” or “lesser”, với dúm này, thì thật bố lếu bố láo, khi phán, ông này nhỉnh hơn ông kia, hay ông đó đó thì “dưới trung bình”.

Đây là trường hợp đã từng xẩy ra ở xứ Mít, khi Thầy Kuốc chê thơ Nguyễn Tất Nhiên, thơ Phạm Thiên Thư "dưới trung bình”!

Láo thế!

Ông muốn có ích, hữu dụng, theo cái kiểu Cao Chu Thần, Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư, [Trời sinh ra…  Gấu không muốn để cho hư đi, hà, hà!]
Ông đã từng đưa ra ý kiến, [trong diễn văn nhận Nobel hình như vậy], rằng, nên phân phát hàng triệu tuyển tập thơ Mẽo, xuyên suốt nước Mẽo, đặt kế bên cuốn Thánh Kinh, tại những phòng ngủ khách sạn [cứ làm tình xong, là vừa hút thuốc lá, vừa đọc thơ Mẽo, vừa cầu nguyện, chắc thế!]. Ông loay hoay, manage, tìm cách thành lập một Hàn Lâm Viện Nga ở La Mã, theo kiểu, modeled, Hàn Lâm Viện Mẽo tại thành phố này. Ông ý thức, về những dây mơ dễ má văn chương Nga, Russian literature’s ties, với Ý quốc [“Những Linh Hồn Chết” của Gogol được viết tại La Mã, Thành Phố Thiên Thu Bất Diệt, the Eternal City, thì luôn luôn hiện diện trong thơ của riêng ông, và của Mandelstam; ông viết về Venice mà ông trầm trồ chiêm ngưỡng].
Ông chẳng có ý định trở lại Nga. Thật là tiện, it is appropriate, nấm mồ của ông thì sẽ ở Venice, như của Stravinsky, của Diaghilev’s] (1)

(1)
The body of Joseph Brodsky, who died in New York City in 1996, was, in accordance with his wishes, transported to Venice and buried in the cemetery of San Michele on the twenty-first of June, 1997. Paradoxically, his tomb and the tomb of Ezra Pound are contiguous.
Milosz

Liệu chăng, ý Trời, khi TTT, tác giả Một Chủ Nhật Khác, nằm xuống ở St Paul, thành phố ra đời của Scott Fitzgerald, tác giả Tender is the Night?


*

*

Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về để làm gì? Làm gì ở đấy? Em nhìn chung quanh em xem? Sang với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao?

Kiệt nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.

Ban đầu Kiệt làm việc tại An Hoà Nông Sơn. Sau đó Kiệt bỏ Sàigòn làm cho một công ty ngoại quốc và rồi bị gọi vô Thủ Đức. Từ ngày ấy, đã sáu năm, Thùy thế chỗ Kiệt ở sở cũng như ở nhà. Ra trường Thủ Đức, Kiệt về quân nhu, làm trong phòng thí nghiệm tại một kho dầu. Ở trong quân đội, Kiệt thấy mình hao mòn sa sút, vô công rồi nghề, Kiệt quyết định với sự đồng thuận và khuyến khích của Thùy xin một học bổng du học của quân đội. Chàng được thuyên chuyển lên quân trường đợi ngày đi. Nhưng năm ngoái, phút chót đến ngày làm thủ tục xuất ngoại, Kiệt đổi ý. Khi có lệnh biệt phái, Kiệt được Bộ Kinh Tế xin, bị nhà trường ngăn chặn, trừng phạt tội cãi lệnh khước từ du học.
Bây giờ Kiệt chỉ thấy con đường duy nhất của ngày về với gia đình: giải ngũ. Nhưng đến bao giờ?

“Bếp Lửa,” là từ biến động 1954 mà ra, và cùng với nó, là định nghĩa: Nhà văn là kẻ đến sau biến động.
MCNK, không.
Không ai có thể hiểu nổi, bằng cách nào, vào những ngày sôi động như thế, TTT đã hình dung ra được 1 kẻ bỏ chạy, thoát cuộc chiến, để rồi bò về, để chết, cái chết của tên sĩ quan Ngụy, bị chính đồng đội của mình, bắn chết, vì lầm là VC.

Kiệt đổi ý.

GCC cũng đã hơn 1 lần, đổi ý, như thế! 

Hà, hà!

Tưởng niệm 7 năm TTT mất

&

Joseph Brodsky @ Toronto Oct 1995 (1)

An interview with Joseph Brodsky

Bởi vì ông nhắc tới những nhà thơ lớn lao, tôi nghĩ có lẽ chúng ta xoay câu chuyện quanh đề tài này, và nhắc tới 1 nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ. Wystan Hugh Auden

Tuyệt! Rất tuyệt [Cười lớn]

Ông nhắc tới, trong bài “Ðể làm hài lòng một cái bóng”, “To Please a Shadow”, một trong những lý do ông học tiếng Anh, hay trở nên ngày càng quấn quít với nó, là để “thấy mình gần gụi với một người mà tôi nghĩ là một đầu óc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, Wystan Hugh Auden". Và rồi ông bàn về những phẩm chất của ông ta. Những phẩm chất mà tôi đặc biệt thích thú của ông ta, là ‘equipoise’ và ‘wisdom’. Vai trò của Auden trong sự nghiệp của ông như là 1 thi sĩ, là gì?

Tôi sẽ trả lời câu hỏi này như tôi có thể. Ông ta đi vô tôi, enter, theo 1 nghĩa nào đó, ông ta đi vô cuộc đời của tôi. Thì cứ nói như vầy, chúng ta đang nói chuyện, ở đây, tôi đang ngồi đây, và tôi cảm thấy ông ta là một phần của tôi… Khi tôi gặp ông ta 22 năm trước đây, tôi 32 tuổi, và ông ta chỉ còn sống được 1 năm nữa…

Cũng trong cùng bài essay, ông nói về sự quan trọng đối với mọi độc giả là có ít nhất 1 nhà thơ để mà lận lưng.  Với ông, hẳn là Auden. Nhưng ngoài Auden ra, liệu Eugenio Montale có xứng đáng…

Xứng đáng quá đi chứ. Tôi nghĩ phải thêm vô Thomas Hardy, Robert Frost… Tôi thấy mình gần Frost hơn so với Auden. Bạn có nhớ không Lionel Trilling đã từng gọi Frost là 1 nhà thơ khủng khiếp. Còn Eliot.... Bishop, bà này Canada chính gốc. Trong số ngoại nhân, làm sao bỏ qua Milosz. Wislawa Szymborska mà không bảnh sao, a wonderful lady…

... Ông ta [the emcee, Brodsky] bắt đầu nói về những tin tức mới nhất về cuộc đời tình ái của Princees Diana, và hỏi: “ Có ai chưa ngủ với công nương?"
Tôi [Solecki] liền giơ tay, câu trả lời của Brodsky thì mới thú vị, và bay bướm. Mặt ông ửng đỏ, và ông bật ra, bằng thứ tiếng Anh sặc mùi Nga:

"Ðừng bao giờ quên, bướm của em là bướm vương giả, còn chim của bạn thì không!”

Nobel văn chương 2016

Prix Nobel : un juré de l'Académie suédoise s'explique

Le vendredi 16 décembre 2016
http://www.magazine-litteraire.com/rubrique/actualit%C3%A9

« Il faut redonner sa place, dans la littérature, à quelque chose qui dépasse le livre et l’écriture : l’art de la parole.» Jeudi 15 novembre, au cercle Suédois à Paris, un juré du Nobel, Horace Engdahl, a donné quelques explications sur la nomination très controversée de Bob Dylan comme prix Nobel de littérature.

Một ông Hàn giải thích: Phải lại ban cho nó 1 chỗ ngồi, trong văn chương, 1 cái gì quá cả cuốn sách và chữ viết: nghệ thuật lèm bèm, buôn chuyện!
 
 Noel 2016
 

  *
12.12.2016

*

*

*

 Noel 2016

*

NYRB Jan, 2000

Bài thơ này, được viết khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác giả, được kiếm thấy trong những giấy tờ của ông
.

Ngày 1 Tháng Giêng, 1965
Những Vì Vua sẽ đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc lịch dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc….  đốt đuốc chơi đêm?

Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng

Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!

Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông, cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những ngày tháng cũ.

Và bèn ngước mắt nhìn lên, nơi không một đám mây trôi giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời rồi, Gấu ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và bầy đoàn thê tử của Xừ Lủy

Và bất thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.

Thơ của Brodsky, và của Milosz, đậm chất Ky Tô giáo, thành thử kẻ ngoại đạo như Gấu, khó nhập vô.
Viết như thế, là để tạ lỗi một vì độc giả rất thân, mà cũng còn là 1 thi sĩ, với 1 cõi thơ của riêng anh, Dã Viên, người Huế - lạ, là mấy vì bạn thân quí của trang Tin Văn, thì đều là dân Huế cả - khi anh hỏi, nhắc tới Brodsky hoài, mà sao không dịch thơ Brodsky.
"Những Vì Vua" ở đây, là ba vì hành giả, wanderers, mà theo Mliosz, trong bài viết, Chống lại thơ không hiểu được, Against incomprehensible Poetry, là Chúa hóa thân, trong lần tới thăm Abraham.
Milosz , trong bài viết nói trên, có nhắc tới D.H. Lawrence, và bài thơ Maximus của ông này, Tin Văn post ở đây, vì, 1 cách nào đó, nó mắc mớ tới bài thơ của Brodsky, Ba Vì Vua, Ngày của Ba Vì Vua…. Và Phép Lạ!

Even the Book of Genesis tells of God's visit to Abraham in the form of three wanderers. Later, epiphany assumes such an important place in the Gospels that one of the oldest Christian holidays was given that name. (The name "Three Kings' Day" constricts its original content, which embraced both the birth of Christ and the first miracle in Cana of Galilee.) D. H. Lawrence, a poet of exceptional sensitivity to the rich materiality of things which are accessible to our senses, reveals the ancient imagination in his poem "Maximus" so well that we can almost feel a shudder of recognition, if the god Hermes had appeared to us. Most likely, Lawrence was thinking of the fourth-century philosopher Maximus, who the tutor of the emperor Julian, later called the Apostate:

God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
no voice will describe him


But a naked man, a stranger, leaned on the gate
with his cloak over his arm, waiting to be asked in.
So I called him: Come in, if you will!-

He came in slowly and sat down by the hearth.
I said to him· And what is your name?-
He looked at me without answer, but such a loveliness
entered me, I smiled to myself, saying: He is God!

So he said: Hermes!

God is older than the sun and moon
and the eye cannot behold him
nor the voice describe him'
and still, this is the God Hermes, sitting by my hearth.

("MAXIMUS")

Chúa thì già hơn mặt trời, mặt trăng
Mắt không thể giữ
Tiếng nói không thể tả được người

Nhưng 1 người đàn ông trần truồng,
Áo trên tay
Tựa cổng
Đợi được mời vô
Thế là tôi gọi lớn, Xin mời vô!

Ông ta từ tốn đi vô, và ngồi kế bên lò sưởi
Tôi hỏi, tên ông là gì?
Ông ta nhìn tôi, không trả lời, nhưng với 1 sự thân thương như thế đó
Đi vô tôi, và tôi mỉm cười với chính mình: Ông ta là Chúa!
Và thế là ông ta nói:
Hermes!

Chúa thì già hơn mặt trời, mặt trăng
Mắt không thể giữ
Tiếng nói không thể mô tả:
Tuy nhiên, đúng là Chúa Hermes, ngồi bên lòng lò sưởi


Milosz lạ, là làm sao 1 nhà thơ đầy
nhục cảm lại làm được 1 bài thơ thần sầu như thế, vén lộ cho chúng ta, về 1 sự tưởng tượng xưa cũ như thế.
D.H. Lawrence nghĩ tới triết gia Maximus, thế kỷ IV, là gia sư của hoàng đế Julian, sau được gọi là the Apostate [Kẻ Bội Giáo]

He used to tell his students that they probably were not terribly familiar with the Decalogue, but it was possible to learn, since there were only seventeen: the Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together, the foundation of our civilization. His Muse, the spirit of language, was, he said, Christian, which explains the Old and New Testament themes in his poetry.

Generosity was one of his traits. His friends always felt showered with gifts. He was ready to help at any moment, to organize, to manage things. But above all, to praise. His generosity is most apparent in his conversation with Volkov about Akhmatova. What praise of her greatness, her wisdom, her kindness, and the magnificence of her heart! For him, the greatness of a poet was inseparable from the poet's greatness as a human being. Perhaps I am mistaken, but I am unaware of a single instance when he praised a poet while admitting at the same time that he was just average as a human being. It was enough, for example, that Robert Frost was great in his poetry to justify not inquiring into his biography. This was consistent with his conviction that aesthetics precedes ethics and is even its source.

Czeslaw Milosz: Notes about Brodsky


Ông thường biểu sinh viên của ông, họ có thể cảm thấy không đến nỗi khủng khiếp với Điều Răn, nhưng có thể học, bởi là vì đâu có nhiều, chỉ Mười Điều Răn và Bảy Tội - tập hợp chung, thành cái gọi là văn minh của chúng ta.
Nữ thần thi ca của ông, bà chúa ngôn ngữ của ông, là Ky Tô, điều này giải thích những đề tài Tân và Cựu Ước trong thơ của ông

Hào phóng là 1 trong những nét cực bảnh của GCC, xin lỗi, của Brodsky.
Bạn bè ra Quán Chùa 1 phát, thấy chàng ngồi ở đó, là yên chí lớn rồi!


&

*

*

Nov 28.2016