Czeslaw Milosz: Chó Bên Đường [Road-side Dog, bản dịch tiếng Anh của tác giả và Robert Hass, nhà xb Farrar, Strauss and Giroux, New York]
Đọc, tôi cứ tưởng tượng ra, không chỉ một, mà tới
hai con chó bên đường, ở khu miền ngược. Một, là Nguyễn
Chí Thiện, và những tiếng chó sủa có tên
là Hoa Địa Ngục.
Và một, Nguyễn Huy Thiệp và những tiếng chó
sủa mà Những Ngọn Gió từ đỉnh Hua Tát, mang đi xa
mãi xuống miền xuôi.
Ở đây, trên trang Tin Văn, này, cũng chỉ là
lập lại những tiếng chó sủa, ở vào lúc tận cùng
thế kỷ, và ở đầu thiên niên kỷ...
(1) Bản tiếng Anh
ROAD-SIDE DOG
I went on a journey in order to acquaint myself with my province, in a two-horse wagon with a lot of fodder and a tin bucket rattling in the back. The bucket was required for the horses to drink from. I traveled through a country of hills and pine groves that gave way to woodlands, where swirls of smoke hovered over the roofs of houses, as if they were on fire, for they were chimneyless cabins; I crossed districts of fields and lakes. It was so interesting to be moving, to give the horses their rein, and wait until, in the next valley, a village slowly appeared, or a park with the white spot of a manor in it. And always we were barked at by a dog, assiduous in its duty. That was the beginning of the century; this is its end. I have been thinking not only of the people who lived there once but also of the generations of dogs accompanying them in their everyday bustle, and one night—I don't know where it came from—in a pre-dawn sleep, that funny and tender phrase composed itself: a road-side dog.
Giacomo Leopardi
Poetry Would
Be a Way of Praising God
If God Existed
Deep in the heart of night
I stood on a hill in wintertime
and stared up at the baleful moon.
I was terrified of finding myself
in the midst of nothing, myself
nothingness clarified, like the moon.
I was suffocating inside time,
contemplating the empty night
when a bell rang in the distance
three times, like a heart beating
in the farthest reaches of the sky.
The music was saturated with stillness.
I stood listening to that stillness
until it seemed to fill the sky.
The moon was like a heart beating
somewhere far off in the distance.
But there is no heart in a universe
of dying planets, infinite starry spaces.
Death alone is the true mother of Eros
and only love can revivify the earth,
for what is this emptiness, the earth,
but a black sea pulsing without Eros
under infinitely dead starry spaces?
Love alone can redeem our universe.
Edward Hirsch: The Living Fire
Thơ là để cầu nguyện Chúa,
giả như quả có Chúa
Sâu mãi vô đêm, vào tim của
nó
Tớ ngồi trên đỉnh 1 ngọn đồi vào mùa đông
Và nhìn lên mặt trăng đe dọa
Tớ khiếp đảm khi nhận ra mình ở giữa hư vô, trần
trụi
Chính tớ thì cũng là 1 hư vô sáng
rỡ, như mặt trăng
Tớ thấy mình như nghẹt thở ở trong thời gian
Chiêm ngưỡng đêm trống rỗng
Khi có tiếng chuông, từ xa xa
Ba tiếng, như tiếng tim đập
Từ mãi nơi xa, xa tít của bầu trời.
Âm nhạc bị bão hòa trong cái chết
sững
Cho tới khi nó như lấp đầy không gian
Trăng thì như trái tim
Đập, đâu đó, xa tít mù trời
Nhưng, làm đếch gì có trái tim
Trong 1 thế giới
Với những hành tinh chết
Những không gian hằng hà sao
Cái chết, chỉ nó, trơ trọi, là mẹ của
Eros, Dâm Thần
Và chỉ tình yêu là có thể
làm sống lại trái đất,
Nhưng cái trống rỗng này là gì,
trái đất,
Nếu không là, một biển đen, 1 trái tim
đập, không cần đến Eros
Ở bên dưới những không gian hằng hà những
vì sao đã chết?
Chỉ tình yêu thôi, là đủ để cứu chuộc
vũ trụ của chúng ta.
Bướm ; Thơ là để cầu nguyện Chúa giả như quả có Chúa ( Nguyễn Quốc Trụ )
Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng ( Nguyễn
Quốc Trụ )
On the Anniversary of Joseph Brodsky’s Death
(January 2001)
Archangelsk, the briny cold, the frigid Baltics,
Children throwing snowballs at Soviet statues.
The Arctic chill of the moon at midday,
The trees wrapped, the pedestrians bundled.
How the sun shivered behind the smokestacks
Like a soldier frozen in place.
At the dimly lit Museum of the Far North
The subject was the poet’s internal exile,
Metaphysics versus History, and the fateful
Struggle between Poetry and Time,
A Cold War that will never end.
Also, his love for watery ports
And stubborn cats, especially the Russian
Blue that hailed from the
Afterwards, a slushy walk, salty air,
Sleep in an overcoat in a converted barracks.
All night I heard the muffled boots
Of an army marching through the streets
Under the thick cover of darkness.
But in the morning, anniversary mourning,
I woke to a magisterial silence.
Snow occupied the city.
-Edward Hirsch.
NYRB, Feb 11, 2010
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất
của ông
January
2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng
Xô Viết
Cái
ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt
trời rùng mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở
Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu
hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một
Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với
những bến cảng sũng nước
Và
những con mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau
đó, là một cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không
khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã
được cải tạo
Suốt
đêm tôi nghe có những tiếng giầy nhà binh bị
bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới
cái vỏ thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng
niệm,
Tôi
thức giấc, bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là
quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.
Gấu biết
đến tay này, là qua bài thơ tưởng niệm Brodsky.
Sau đó, chơi mấy cuốn của chả. Cực mê Simone Weil,
và mấy tay dính dáng tới Lò Thiêu.
My Grandfather's' Poems
I remember that he wrote them backwards,
In Yiddish, in tiny, slanting, bird-like lines
That seemed to rise and climb off the page
In a flurry of winged letters, mysterious signs.
Scrupulously he copied them out
On the inside covers of his favorite books
While my sister and I romped through the house
Acting like cops and robbers, cowboys and crooks,
Whooping, shouting, and gunning each other down
In the hallway between rooms, mimicking fright,
Staggering from wall to bloody wall before
Collapsing in wild giggles at his feet.
Always he managed to quiet us again,
Kissing us each on the upper part of the arm,
Tucking us in ... We never said prayers,
But later I could hear him in the next room
Talking to himself in a low, tearing whisper-
All I could fathom was a haunted sound
Like a rushing of waves in the distance,
Or the whoosh of treetops in the back yard.
For years I fell asleep to the rhythm
Of my grandfather's voice rising and falling,
Filling my head with his lost, unhappy poems:
Those faint wingbeats, that hushed singing.
Edward Hirsch: The Living Fire, New and Selected
Poems
Thơ của Grandpa
Tớ nhớ là hồi đó đó, ông tớ
thường mần thơ bằng tiếng Mít
Những dòng chữ nhỏ nhắn, nghiêng nghiêng
như những chú chim sẻ
Chúng bò lên, leo lên, rồi té
khỏi trang giấy
Những con chữ xôn xao, náo động, như có
cánh, những ký hiệu bí ẩn.
Tỉ mỉ, ông tớ chép chúng vô
Những cuốn sổ “thần sầu” của ông
Trong lúc chị tôi và tôi đùa
rỡn suốt căn phòng
Đóng vai cướp, cớm, cao bồi, kẻ lường gạt
Cho đến khi mệt nhoài té xuống 1 đống dưới chân
ông tôi
Ông tôi vỗ về hai đứa tôi
Xốc mỗi đứa mỗi bên, kéo tới…
Hai đứa tôi chẳng bao giờ cầu nguyện
Nhưng sau đó, chúng tôi có thể nghe
ông tôi trong phòng kế bên
Nói với chính mình
Những tiếng thì thầm rời rạc, nhức nhối, có thể
nói như thế
Thứ âm thanh ám ảnh
Giống tiếng nước suối ở 1 nơi thật xa
Hay tiếng sương rơi, từ những chiếc lá cây sau
vườn
Chiều cuối năm xuống phố- mô phỏng thơ TTT, chiều cuối năm
qua xóm nghèo. Chiếc xe buýt vừa nhả Gấu ra.
Đổi “phin”, và nhân tiện quơ tờ báo, Người Kinh
Tế, cuốn truyện ngắn, của Saki, và tập thơ John Ashbery, Commotion
of the Birds. Thơ tay này, khó đọc, với GCC, không
hiểu sao không làm sao nhập vô được, may quá,
trong tập này, ông có 1 bài xoa đầu mấy tên
già, có Gấu, tất nhiên. Tay này, cũng cực
rành tiếng Tẩy. Ông có dịch 1 số tác giả
Tẩy qua tiếng Anh.
NL phán, Thơ Ở Đâu Xa, bia mộ của 1 thời. Quả
thế. Bài thơ Chiều Cuối Năm Qua Xóm Nghèo
quá đỗi bia mộ.
Nó mô tả 1 anh Bắc Kít trở lại xứ Bắc Kít,
như 1 tên tù.
Cực kỳ thê lương.
Văn sĩ Bắc Kít không làm sao làm
được thơ thứ này, đó là sự thực, và đó
là 1 nghịch lý, như Gấu đã từng nhận ra khi đọc
Bùi Ngọc Tấn: Cái Đẹp và Con Thú. Những trang
đẹp nhất ở trong đó, tả cảnh buổi sáng tù ra đồng,
lên núi lao động khổ sai.
Nhớ, khi VHT bị Vẹm tống vô tù, 1 nhà thơ
Bắc Kít, ở hải ngoại, Đỗ Quang Nghĩa, vinh danh ông với
bài, Đi tù với bông hồng cầm
trên tay: Đấng VTH này, rất mê Constantin Paustosky,
và thứ văn chương cực kỳ tinh khiết, tác giả Bông
Hồng Vàng, và những truyện ngắn, như
Tuyết, cũng thứ truyện cực kỳ tinh khiết.
Có vẻ như một cái nước Bắc Kỳ cực kỳ đói, khổ,
rét mướt... gần như không hề được nhắc tới nữa, sau 30
Tháng Tư 1975.
Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng xem tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây sẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
Có vẻ như một cái nước Bắc Kỳ cực kỳ đói,
khổ, rét mướt... gần như không hề được nhắc tới nữa, sau
30 Tháng Tư 1975.
Vừa phán xong, đọc bài viết của vị này:
https://www.facebook.com/notes/song-nam-tang/th%C3%A1ng-12-n%C4%83m-x%C6%B0a/10155973446873991/
tháng 12 năm xưa
Song Nam Tang·Saturday, December 30, 2017
Mỗi năm ba tôi từ khu tư về Hà nội họp một lần và
ông tranh thủ tạt vào thăm vợ con, thường là sơ tán
ở một làng quê quanh quanh không hẳn xa Hà nội.
Năm ấy ba tôi không về mà có một
bác cùng đơn vị về, và ghé qua nhà
tôi mang theo ít quà của ba tôi gửi, vài
thanh lương khô, gói đường hay sữa bột gì đó,
tiêu chuẩn sĩ quan ba tôi nhịn, gửi cho vợ con.
Má tôi đi dạy và chị tôi đi học vắng,
chỉ mình tôi ở nhà tiếp khách, bác bộ
đội hình như đang ốm, bác ngồi co ro một góc phản và
bảo tôi nấu cơm cho bác ăn sớm để đi tiếp, cái con
bé ngu ngốc là tôi xuống bếp nấu cơm rồi dọn lên
mâm cơm chỉn chu, có món mặn là lạc rang nước
mắm, món canh là rau tập tàng hay rau gì đó
hái trong vườn, nêm muối. Cơm là cơm độn ngô
– 1 bơ gạo kèm 2 lẻ ngô, thứ ngô tẻ đỏ rực xay vỡ nhỏ
mảnh
Giờ chắc ít ai còn nhớ đơn vị đong đếm bấy giờ
: 1 bơ gạo là 1 cái ống sữa bò đong đầy gạo, có
ngọn, phải có ngọn mới được gọi là 1 bơ, còn gạt
bằng miệng thì gọi là 1 sét; lật đít ống bơ
lên đong vun có ngọn thì gọi là 1 lẻ, 1 bơ
gạo kèm 2 lẻ ngô là thế ấy.
Tỉ lệ độn như thế là lúc bình thường,
mở vung ra thấy nồi cơm điểm vàng như sao sa, nếu là lúc
giáp hạt thì tỉ lệ gạo – ngô là 1 bơ ngô-2
lẻ gạo, nồi cơm sẽ có màu vàng cam, lộng lẫy, và
lộng lẫy một cách kinh hoàng nếu kèm bên cạnh
là tô canh bí ử, tôi sợ bí ử chính
từ sự cộng hưởng màu với nồi cơm độn như thế.
Bác bộ đội cố lắm mới nuốt nổi bát cơm, tôi nhớ
rõ lắm cái sự cố gắng này vì tôi ngồi
nhìn bác ăn rất lo lắng, hồi ấy tôi tầm tám
tuổi, rang lạc khi cháy khi sống, canh thì nêm không
biết thế nào là mặn hay nhạt vì tôi ăn nhạt lắm.
Nhưng tôi là chủ nhà và dù nuốt khó
nhọc bác ấy vẫn luôn mỉm cười với cái vẻ chủ nhà
của tôi “ui con ba B giỏi quá”
Khi má tôi về thì bác đã
đi rồi, má tôi nhìn mâm cơm của tôi rồi
ngồi phịch xuống, bà nói như khóc: ổng từ khu tư
ra đó con, sao còn bắt ổng ăn cơm độn trời!
Khu tư hồi đó, cơm độn bom!
Mãi mãi sau này tôi vẫn nhớ đến nỗi hổ
thẹn vì nồi cơm độn ngô ấy, tôi không thể có
thịt thà gì đãi khách, nhưng chí ít
tôi phải bớt đi hai lẻ ngô đó chứ trời!
Note: Thứ kỷ niệm thần sầu này, Gấu cũng có, và
sau này, nó thành tật: Không bao giờ dám
hưởng hạnh phúc.
Thời gian ở với ông bác, ở Phú Thọ, cùng
bà chị, Chị Phúc, cô con gái độc nhất của hai
vợ chồng, hai chị em làm nón, phụ thêm đồng lương
ít ỏi của ông bác, làm thầy giáo. Ăn,
ngô, là chính, cơm có, nhưng chỉ 1 chén
nhỏ, sau chót, và cũng lâu lâu 1 bận.
Ngô, thứ ngô đá, luộc phải bỏ vôi vô,
sau khi chín, rửa sạch vôi, nhưng không làm
sao hết mùi.
Sau này, sống tới già, nhìn lại đời mình,
thì Gấu nhận ra hạnh phúc, nó đúng là
cái bát/chén cơm nho nhỏ lâu lâu 1 lần
đó.
Borges cũng có kinh nghiệm này, như ông viết,
ông không biết hạnh phúc là gì.
Cioran kể, lần đầu tới Paris, trọ học, hình như vậy, một
lần nhìn thấy hai vợ chồng ông chủ nhà, và
đứa con trai châu đầu nghiên kíu, bữa ăn trưa, và
ông ngộ ra kiếp Bắc Kít của ông: Ở xứ đó, con
người được nuôi như con heo!
Bởi thế, có lần Gấu tự hỏi, liệu, thay vì cái
đẹp, thì là cái đói, sẽ cứu chuộc thế giới?
Cái chết của Bắc Kít, có thể là còn do chúng, bội thực với chiến lợi phẩm, nên chúng đã quên, 4 ngàn năm, đói?
Người viết đọc lại những gì đã
viết, về một quãng đời trong có bóng dáng một
họa sĩ (Ngọc Dũng) vừa ra đi, và nhận ra một điều: cái đói
ám ảnh ngay từ dòng chữ mở đầu... Hay nói một cách
khác: đây là những kỷ niệm về cái đói.
Nào là cái ruột tượng đựng gạo, nỗi sợ mỗi
lần nhìn thấy... cháo, cơn đói lả mà cứ tưởng
là bịnh..
Nhưng “cái no” cũng có những kỷ niệm để đời, đối
với một thằng nhỏ Bắc Kỳ! Ông cụ tôi mất sớm. Bà cụ
một nách bốn con, cứ phải tha đi nhà này nhà
nọ, để ăn chực. Ăn chực chán quê nội, qua tới quê ngoại.
Hai làng cách nhau cũng chừng gần chục kí lô
mét. Lần đó, thằng bé tới nhà bà trẻ,
được ăn no cành hông, đi không nổi, rồi đau bụng quá,
vì quá nặng bụng! Thấy thằng nhỏ nhăn nhó, mọi người
lại tưởng bịnh, riêng bà trẻ hiểu ngay nguồn cơn, ra lệnh:
ra sân chạy! Ì ạch một hồi, mới đỡ đau. Lúc đó
mới nhớ lại cái cảnh “tầu phù” nằm chết như rạ, khi sang tước
khí giới quân đội Nhật, tại một ga xe lửa miền bắc. Do ăn no
quá, bể bụng, (‘phù’ ở đây chắc là biến thể của
‘phình’).
Tác giả một bài viết trên
tờ Gió Ðông, xuất bản ở Ðức, (đã đình bản),
sau khi đọc lại một số tiểu phẩm, đã đưa ra một nhận xét: nhà
văn Việt
Trần Ðăng Khoa, trong cuốn Chân Dung và Ðối
Thoại, chê Nguyễn Tuân, tuy mê ‘ăn’, nhưng chưa đưa
nó lên thành nghệ thuật. Ông tự hỏi, hết chuyện
viết rồi hay sao, chẳng lẽ văn chương chỉ là chuyện về miếng ăn...
tồi tàn?
Theo tôi, cần phải phân biệt giữa cái đói,
ám ảnh của nó, với miếng ăn, như một cái cần, và
sau đó, như một cái đẹp.
Trả lời phỏng vấn, về chuyện phải từ
bỏ đất nước, và quan trọng hơn, phải từ bỏ tiếng mẹ đẻ, nhà
văn Romania, Cioran cho biết: phải viết văn bằng tiếng “ngoại” là
một tai nạn lớn lao đối với một nhà văn. Ông kể hai kinh nghiệm,
tưởng như chẳng liên hệ, về chữ viết “ngoại”, và về miếng
ăn “ngoại”.
Cho tới năm 1947, ông vẫn viết
văn bằng tiếng Romania. Tới bữa đó, ông tính dịch
Mallarmé sang tiếng Romania. Bất thình lình, ông
tự hỏi chính mình: “Thậm vô lý! Ích chi
đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ tiếng mà chẳng
ai biết?” Thế là, tôi từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu
viết văn bằng tiếng Tây. Thật trần ai khoai củ. Viết văn bằng một
ngôn ngữ khác là một kinh nghiệm đáng sợ. Người
ta phải mầy mò với từng chữ. Khi viết bằng tiếng mẹ đẻ, tôi
cứ thế mà viết, giản dị như vậy đó. Chữ viết không có
quyền độc lập, đối với tôi (Les mots n’étaient pas ‘indépendants’
de moi). Khi viết văn bằng tiếng Tây, mấy con chữ như thách
đố tôi: chúng như ở trong những xà lim (cellules),
và tôi phải nhặt ra từng con: nào tên này,
nào tên kia, ra đây biểu!
Kinh nghiệm đó, theo ông, y hệt kinh nghiệm về miếng ăn, cũng ngày đầu tới Paris. Lần đó, ông trọ tại một khách sạn nhỏ, khu ‘người em xóm học’ (khu Latinh). Bữa đó, ông xuống nhà gọi điện thoại, và thấy nhân viên coi khách sạn, bà vợ, và ông con trai: cả ba đang sửa soạn bữa ăn, họ như đang sửa soạn kế hoạch cho một trận đánh! Tôi sững người: ở Romania, tôi luôn luôn được nuôi ăn như một con vật, chẳng thèm để ý tới “ăn nghĩa là gì”. Ở Paris, tôi mới nhận ra ăn là một nghi lễ, một hành động văn minh, gần như xác định một thái độ chính trị.
Vũ Bằng phân biệt hai miền qua
món ăn: món ngon miền bắc ‘đấu’ với món lạ miền nam.
Ôi chao, những cái lỉnh kỉnh, nhiêu khê, cầu
kỳ, nhưng thật cần thiết, không có không được của một
tô bún thang, cái mỏng dính của một lá
bánh cuốn Thanh Trì, cái thú ngồi canh bánh
trưng ngày tết... chỉ tới khi vào Nam, hết sợ đói,
thằng bé Bắc Kỳ mới mới thấy “thấm thía” cái tuyệt vời
của một miếng ăn.
Cái tuyệt vời của những kỷ niệm
khi còn là một đứa bé chuyên môn đi ăn
chực, tại một miền đất.
Tựa của Phạm Thị Hoài
Vào Nam 1 phát, Gấu quên
ngay cái đói Bắc Kít, cho đến khi đi tù VC.
Nhưng với cái no của xứ Nam Kít, Gấu cũng có
những kinh nghiệm để đời: Gấu không hề biết đến cái ngon của
thịt chuột, do ở mãi Sài Gòn.
Bữa đại tiệc mừng Gấu, sau lần Gấu Cái thăm nuôi, món ăn chính là
thịt chuột, bản nhạc lần đầu nghe trong đời, bữa đó, là "Ngày mai đi nhận
xác chồng".
Sau này, nghĩ lại, Gấu thực sự cảm ơn ông Trời, quá
chi li với Gấu: Để cho
Gấu được biết đến hương vị của thịt chuột, mấy bữa trước đó, trong
1 lần lao động, 1 anh bạn cùng tổ vớ được 1 ổ chuột, thứ chuột bao
tử, mới đẻ, đỏ hỏn, anh nổi lửa liền, và chia cho Gấu 1 con.
Cắn 1 phát, thì Gấu không chỉ thưởng thức mùi
thịt chuột mà còn mùi vị 1 con ốc nhồi, lần đầu tiên được
ăn, ở 1 cái ao Bắc Kít.
Todorov mở ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta có... quỉ, và chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!
Thế mới chết! (1)Trong
cuốn trên, Todorov cho biết, câu "Cái Đẹp sẽ cứu
chuộc thế giới", là của Dos.
Nhiều người biết, nhưng cái này thì
ít người biết.
Cái Đẹp mà Dos nhắc tới ở đây, là
Chúa Ky Tô, nhập thân vô Gã Khờ.
Les aventuriers de l'absolu
… Le prince Mychkine, qui croit que la beauté sauvera le monde, est lui-même une variante, contemporaine, et purement humaine, du personnage de Jésus. Les brouillons du roman le disent ouvertement, à maintes reprises: “Le Prince – le Christ”
Cây Noel Nhà
Christmas approaching. I watched her the way I
watched war, with Anxiety, Fear, and Hope
Noel tới gần. Tôi ngắm Nàng, theo
kiểu ngắm Cuộc Chiến: Xốn Xang, Sợ Hãi, và Hy Vọng
Each love affair was like a vaccine. It helped
U to get throught the next attack more easily.
Mỗi cuộc tình thì cũng giống như
thuốc chủng, nó giúp bạn chịu được cú đánh
tới, một cách dễ chịu hơn
Dec 13 1993.
The knight was dying inside his armor
J. le Carré
Kỵ sĩ đang chết trong bộ giáp
[VC, trong bộ giáp bách chiến
bách thắng, là chủ nghĩa CS?]
Star of
the
Nativity
In
the cold season, in a locality accustomed to heat more than
to cold, to horizontality more than to a mountain,
a child was born in a cave in order to save the
world;
it blew as only in deserts in winter it blows,
athwart.
To
Him, all things seemed enormous: His mother's breast, the steam
out of the ox's nostrils, Caspar, Balthazar, Melchior-the
team
of Magi, their presents heaped by the door, ajar.
He was but a dot, and a dot was the star.
Keenly,
without blinking, through pallid, stray
clouds, upon the child in the manger, from far
away-
from the depth of the universe, from its opposite
end-
the star was looking into the cave. And that was
the Father's stare.
December 1987
Joseph
Brodsky: So Forth
Đêm Thánh Vô
Cùng
Vào một mùa lạnh, tại một miền đất
quen với nóng nhiều hơn là lạnh
quen với đồng bằng hơn là núi non,
một đứa bé sinh ra trong một hang cỏ, để
cứu vớt thế giới ;
gió thổi như nó chỉ thổi ở trong
những sa mạc vào mùa đông, từ bên này
qua tới bên kia.
Với
Cậu Bé, mọi thứ, mọi vật có vẻ như thật lớn lao: vú
mẹ, làn hơi từ
mũi con bò, Caspar, Caspar, Balthazar,
Melchior – toán Magi, những quà tặng của họ thì
chồng ở bên cửa, hé mở.
Cậu Bé chỉ như một điểm. và một
điểm là ngôi sao.
Hào
hứng, không chớp mắt, qua những
đám mây xanh xao, lạc lõng,
ở phía bên trên đứa bé ở trong máng
cỏ, xa thật xa -
từ chốn sâu thẳm của vũ trụ, từ phía
tận cùng đối nghịch -
ngôi sao chăm chú nhìn vào
trong hang. Và đó là cái nhìn
của Vì Cha
Christ
on the cross; his feet touch the earth.
The three crosses are of the same height.
Christ is not in the middle. He is just the
third.
The black beard grazes his chest.
His face is not the one seen in engravings.
It is severe, Jewish. I do not see it
And I will keep on searching for it
until my last step on earth.
The fractured man suffers and says nothing.
The crown of thorns tortures him.
He does not hear the jeers of the crowd
that has seen him in agony so many times,
his or another's, it makes no difference.
Christ on the cross. Chaotically
he thinks about the kingdom that perhaps awaits
him,
he thinks about the woman who was not his.
He is not able to perceive theology,
the indecipherable Trinity, the Gnostics,
the cathedrals, Occam's Razor,
the purple, the miter, the liturgy,
Guthrum's conversion by the sword,
the Inquisition, the blood of the martyrs,
the savage Crusades, Joan of Arc,
the Vatican casting its blessing over armies.
He knows that he is not a God and that he is
a man
who dies with the day. It makes no difference.
What he does feel is the hard iron of the nails.
He is not a Roman, not a Greek. He whimpers.
He has left us some splendid metaphors
and a doctrine of forgiveness that can
do away with the past. (That phrase was
written by an Irishman in prison.)
The soul searches for its end, hurriedly.
Night has fallen. He has died now.
A fly crawls over the still flesh.
Of what use is it to me that this man has suffered,
if I am suffering now?
Kyoto. 1984
-A.C.
J.L. Borges: Selected Poems, ed Penguin.
Chúa trên Thập Tự
Chúa
trên thập tự, chân Người chạm đất
Ba cây thập tự cùng một chiều
cao
Chúa không ở giữa
Người thứ ba
Chòm râu đen sượt qua ngực
Mặt không phải mặt,
như được nhìn thấy trong những bức tượng tạc.
Khắc khổ, Do Thái. Tôi không
nhìn.
Và tôi sẽ tiếp tục kiếm
Tới bước chân cuối cùng của mình
trên mặt đất
Thân hình Người vỡ vụn, đau đớn
nhưng không nói gì
Cái vòng gai tra tấn Người.
Người không nghe những lời chế nhạo của
đám đông
Chúng nhìn thấy Người trong cơn
thống khổ, hấp hối rất nhiều lần
Cơn thống khổ của Người, hay của một người
nào khác thì cũng đâu có
chi khác biệt.
Chúa trên Thập Tự. Hỗn độn
Người nghĩ về Vương Quốc đang đợi chờ Người
Người nghĩ về người đàn bà không
phải của Người.
Người không thể cảm nhận thần học
Trinity không sao giải,
the Gnostics,
The cathedrals, Occam’s Razor
the purple, the miter, the liturgy,
Cải đạo bằng gươm của Guthrum
Toà án dị giáo, máu
của những kẻ tử đạo
Những cuộc Thập Tự Chinh tàn bạo, Joan
of Arc
Điện Vatican chúc phúc những
đạo quân của nó.
Người biết Người không phải là
Chúa, chỉ là một người đàn ông
Người đàn ông này chết
cùng với ngày này. Đâu có
gì khác biệt.
Điều mà Người cảm thấy là mũi
đinh sắt nặng
Người không phải La Mã. Không
phải Hy Lạp. Người rên rỉ
Người để lại cho chúng ta một vài
ẩn dụ thần sầu
Và một học thuyết về tha thứ
Nó có thể huỷ bỏ, triệt tiêu,
làm thịt… quá
khứ
[Câu này được viết ra bởi 1 tay
Ái nhĩ lan trong tù]
Linh hồn tìm kiếm sự tận cùng,
hối hả.
Đêm xuống. Người chết vào lúc
này.
Một con ruồi bò trên thịt tươi.
Ích chi đâu, với tôi, chuyện
người đàn ông này đã đau khổ
Khi chính tôi đang đau khổ, vào
lúc này?
Trong“Chống lại thơ không thể hiểu được, Against incomprehensible poetry”, Czeslaw Milosz viết:
Văn chương và
nghệ thuật tách ra khỏi tinh thần Ky Tô, và
tiến trình này từ từ, bắt đầu sớm sủa, vào
lúc những nhà nhân học thời kỳ Phục Hưng khám
phá ra những nhà thơ, triết gia cổ, đám
này xúi họ xúm lại bảo vệ cái gọi
là Lý Trí. Tiến trình này tiến
nhanh khốc hại, là do sự hỗ trợ của sự xuất hiện của cái
nhìn thế giới có tính khoa học của thế kỷ thứ
19. Cũng đúng thời kỳ này, thơ đụng những câu
hỏi về ý nghĩa cuộc đời, đếch làm sao trả lời được! Trong
cái móc nối này, nhà thơ đại diện hiển
hách nhất đương thời của nó, là Samuel Beckett.
Literature and
art have become separated from Christianity. This was a gradual
process which began as early as when the Humanists of the Renaissance
discovered the ancient poets and philosophers, which induced them
to defend the laws of Reason. This process accelerated dramatically
upon the appearance of the scientific worldview in the nineteenth
century. At the same time, or, to be more precise, due to the same
cause, poetry entered into territory where questions about the meaning
of life find no answer, where the mind grapples with an absence of
meaning. In this connection, the most representative
contemporary poet is Samuel Beckett.
Czeslaw Milosz: “Against
incomprehensible poetry”, trong “To Begin Where I Am”
Đây
là 1 bài viết rất quan trọng, với riêng
Czeslaw Milosz. Có thể nói, cả đời ông bị mắc
míu với Ky Tô giáo, và những vấn đề
mà nó gây ra đối với ông, đối với việc
làm thơ của ông.
Trên TV dịch nhiều thơ, nhưng có
lẽ đã đến lúc, dịch những bài viết quan
trọng về thơ!
Gấu tính đi hai bài, của Czeslaw
Milosz; một, viết về Oscar Milosz, người bà con, và
cũng là Thầy của Czeslaw Milosz.
Và bài trên, “Chống lại
thơ đếch hiểu được”.
Về
Oscar Milosz, đã có bài của Kundera.
Toronto bị tuyết, bão,
băng, khu Gấu mất điện mất 3 ngày.
Mới có lại, 11.27. AM 23.12.2013
Y chang Mậu Thân, Xề Gòn
mất điện, ngồi chờ hỏa tiễn VC bay ngang qua đầu, viết Kiếp Khác:
Apollinaire: Zone
Bản dịch tiếng Anh của Beckett
Date:
Sun, 12 Sep 2010 16:48:26 -0700
Dear
GNV,
How
have you been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi, dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you and are
more important.
Soon,
H/A
Take
Care.
Merry Christmas to U and Family
Dec,
25, 2011
đọc
lại chương la tentation de l’occident
trong
antimémoires của andré malraux
đêm
31.12.1985
1
Nửa
đêm nằm võng đọc sách
gác lửng kẹt hẻm đìu hiu
đợi còi tàu ngoài bến hú
rúc
lửng phố già nua
đón giao thừa
Mừng Năm Mới Tây Lịch
Rền rĩ tối tăm
Như lũ thuỷ quái sống thoát biển
Gào kêu trên bờ bãi
nín câm.
2
Nghe
lời vọng lòng sách u uẩn
Trang giấy ố mọt xông mở quên
Chữ nghĩa dày dạn hàm hồ
Nghe tuyệt tích cám dỗ
Dưới
mái dột nát tạm trú
Ngọn đèn chong rực lóa vắng xưa
Chiếc bóng ám sàn vách
loang đổ
dị hợm vô hình thù
Nghe
chó sủa chạy rông
đuổi bước chân qua lối xóm
Tiếng chó hoang tru trăng bến lạ
Mặt biển soi sáng lẫy mênh mông
Đêm
như đất chết đắp hoang dã
Rừng điêu tàn lãnh đạm vô
thuở
Ôi hồn người mãi om sòm
im lìm
3
Loài vượn đen chiếm lĩnh đền thiêng
thờ giống vượn
Đêm đên hoài vọng sáng
sáng khóc
Nhớ lời kẻ qua đường
Chúng mong thành Hoàng Tử
Bi Thương
Nghe tít đỉnh non líu lo con vượn trắng
hót những bình minh mộng mồ côi
trong đêm khuya lạnh chưa tạnh ngớt
You who were born this night
To tear us from the Devil’s might
- TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]
Whoever considers as normal the order of things in which the strong
triumph, and the weak fail, and life ends with death, accepts the devil's
rule.
Kẻ nào coi trật tự sự vật, theo đó, kẻ mạnh
thì thắng, kẻ yếu thì thua, và đời thì
chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của Quỉ.
Czeslaw Milosz
Kierkegaard: "Most people really believe that the Christian commandments
(e.g., to love one's neighbour as oneself) are intentionally a little
too severe-like putting the clock ahead half an hour to make sure of
not being late in the morning."
Alberto Manguel trích dẫn, trong A Reading Diary
K: Nhiều người tin điều răn của Ky Tô Giáo cố ý hơi bị nghiêm khắc quá, cái kiểu vặn đồng hồ sớm 1 tiếng để khỏi bị trễ [lễ] buổi sáng.
Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau
1975, tôi làm ở… bên ngoài, ở vỉa hè tòa
nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Viết
mướn. Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và
tiếng Việt. Thân chủ đa số là những người có bà
con, thân nhân vượt biển, đang ở trại tị nạn, hoặc đã
định cư nơi nước ngoài.
Thời gian này cả Sài Gòn, nói rộng
ra, cả nước đang đói. Đám ngụy, lại càng đói.
Một lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ tu
viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi,
quí giá biết là chừng nào. Viết thư cầu
cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá gần
một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện
chúng tôi cứ thế trao đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ
tương tự. Tới tai nhà nước. Chúng tôi được đặc biệt
để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài
ra còn nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám
xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh Tế Mới. Khuyến khích
nhân dân bỏ nước ra đi.
Chả là, trong số những thân chủ, có những
người trước đi lính hoặc làm việc cho Pháp, nay
làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lãnh những năm chiến
tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua Pháp.
Sau tới chương trình ODP.
Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà
sơ, là những lời ân hận, vì không thể tiếp
tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam đã gửi thư
cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân.
Hãy gửi tới cơ quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ
Thập Đỏ.
Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không
quên cầu nguyện cho gia đình chúng tôi.
Chứng cớ là…
Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước
1975 làm nhiếp ảnh viên cho một hãng thông
tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm hình chiến trường
của anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong hãng,
bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.
Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời
gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài
nhân viên Bưu Điện, chỉ để chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm
tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn tới nơi.
Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những
địa chỉ như văn phòng ODP ở Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến
Binh Pháp ở Paris… là những cần câu cơm của tụi này.
Còn những địa danh như Galand, Songkhla (?), Panat Nikhom, hoặc
quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana… là những khung
trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!
Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, mì ăn liền: những thân nhân sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đã nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lãnh em qua! Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên em; và cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện tại, của đôi nhân tình.
Bởi vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường,
những buổi sáng sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường
vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ cầu nguyện. Buổi trưa,
thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối
đi phía trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức
Mẹ, hay chạy qua phía bên kia đường, khu nhà ở của
mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận chiều, mấy ông
cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức! Đêm
Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng
tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó
đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu
tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không
phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán
cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường
Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có
thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ
chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung
quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên
đường Tự Do.
Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa
soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985",
tôi gặp lại anh bạn Ng.
Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan
báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào
chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có
một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là
lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước ngày
thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút
thẻ báo chí Mỹ, MACVI. Anh cũng là người đầu tiên
theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị, từ chiến hạm Okinawa thuộc
Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu tiên
về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo,
giải cứu thường dân ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng
Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên,
là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh
với tôi, là hai chữ "đầu tiên".
Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật,
qua làm cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ
thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc
hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí
tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá
sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông
chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình
nữa.
Anh nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì
đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi
nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rõ hơn.)
Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm
Láng, Gò Công vào đúng đêm ông
Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.
Trên một số báo Văn, tôi đã viết về
chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài:
trong đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài
cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm
tôi với người yêu của anh, và cứ thế vò đầu
vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối cho
cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…
Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách
đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.
Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng
Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này,
tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao
Uỷ.
Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong
thành phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật
đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu
tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà,
tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt,
tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện).
Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải tới cái
địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là
nhà thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm
thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn thấy một
chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị
Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị cha già trụ trì nhà thờ là người
Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe
gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao
bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này,
nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó,
mình lưu loát đến như thế! Nhất là đây là
lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có
dịp "thực tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng
ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà
thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên
báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên
lụy.
Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và
chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP,
nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông
trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này.
Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có
thể, hài lòng, vì đã làm đúng
ý Chúa!
Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này
khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này
vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông
sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những
lời cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có
thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi
này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập
ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và
chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.
Tôi gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.
Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi
tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn
núp "tương đối" an toàn, là sách vở. (Ngoài
sách vở ra, còn một mê cung khác, an toàn
hơn, bởi vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết
lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)
Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những
cuốn tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả
như James Hadley Chase, Georges Simenon… và John Le Carré,
được coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp,
với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.
Tôi tình cờ khám phá ra ông,
nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự
Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản
tiếng Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du
froid" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò
mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy
trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để
kéo dài thời gian "hoãn dịch". Một cái sợ
tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá
khứ… Trong một thoáng, giữa không khí ấm áp
của Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá
của một miền đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang rình
rập, ngay… bên ngoài lề đường!
Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn
trẻ, một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ
ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên ngoại… những chi
tiết chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh,
nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết
của Le Carré.
Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok,
giữa đủ thứ thành phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy,
giấy thông hành hết hạn, kháng chiến quân chống
nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản Việt
Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mã
Lai, Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le Carré
trong mớ đồ lỉnh kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên.
Cuốn sách mỏng, chỉ trên trăm trang, ghi chú tùm
lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng ngoằng…
Tôi đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort,
nhưng không bắt được cái mạch của nó.
Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.
Đúng hơn, lần này thành phố đã…
Như trên đã nói, tôi đọc Le Carré
qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý
đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe "chính tà’
qua hai nhân vật ở trong đó.
Đây là câu chuyện một nhân viên
ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi
là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh
đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra.
"Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục
nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới
gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện,
có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện
thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã
dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã
cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián
điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông
Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên
của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ
nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!
Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp
nhân viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và
thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân
viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có
chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để
yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng,
thất kinh… quýnh quá thể nào cũng làm một điều
gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they
do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên
cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ
nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát và
cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter
xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát
cùng với khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương
mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng
cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn
đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.
Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley,
giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát…
là những trang đẹp nhất trong truyện:
(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhãn
hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới
có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà
bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải
không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help
build one society which could live without conflict. Peace is a dirty
word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ
vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún
vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây
giờ, họ là những tên sát nhân, những tên
gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn
thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy
khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới.
Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy
diệt.
Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân,
những câu đối đáp nẩy lửa như trên.
Lần thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một
"cụm từ", trong một câu văn, đập thẳng vào mắt tôi.
Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù
quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới
mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó
"liên quan" tới… Sài Gòn!
Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley
đang đêm bị sếp dựng dậy, bắt phải tới sở trình diện.
Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn
đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là
hồn ma của mình đang run rẩy giữa thành phố London:
"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn
và ấm áp. Cái ấm là món hàng
chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm
tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, vì không
thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên
đường phố Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband,
smuggled from his bed and hoarded against the wet January night. Safe
because unreal: it was his ghost that ranged the London streets….)
Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương
trỗi dậy, gây trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An
toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà
tù quê hương. Không thực, vì chung quanh là
cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong
tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những
đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không,
đây là hồn ma của chính mình đang lang thang
ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn
ma của mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng
của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi ráp
lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành
phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính
mình đang lang thang trên những đường phố cũ…". Tới đó
tịt luôn.
Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn,
mãi mãi sau đó, tôi mới kết thúc nổi
câu văn:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng
của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng
đây là hồn ma của chính mình đang lang thang
trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã
chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần
đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong,
nay sống lại, chỉ để kể về nó…
NQT