|
@ Home from school, 15.5.08
Snipers in the hills above Sarajevo are
tracking the
inhabitants on the city streets below as they strive to go about their
daily lives,
uncertain when the next shot will land, nearly paralyzed with fear. In
a
frightening form of "Sarajevo
roulette," Kenan steels himself for his weekly walk to collect water
for
his family on the other side of town; Dragan, a man Kenan doesn't know;
takes
his chances on the bridges and streets to find food.
Meanwhile, a shell has killed
22 people waiting in line for bread, as a renowned cellist watched in
horror.
He vows to bear witness by sitting in the hollow where the mortar fell,
defying
the odds, and play Albinoni's Adagio once a day for 22 days for each of
the victims.
The Adagio is itself a triumph of hope over adversity, recreated and re
imagined
from a fragment found after the only extant score was firebombed in the
Dresden
Music Library during WW II.
Unbeknownst to the cellist, a
gifted young female sniper, 'Arrow," watches his performances more
avidly
than most: she is the counter-sniper chosen to protect him from the
enemy
sharppshooter she knows lurks nearby, his gun poised and ready, close
enough
she can hear him sneeze. Can she keep the cellist alive as he plays his
memorial
to the victims? And what will it cost her?
Tense and heart-wrenching,
this is a profound meditation on survival with universal resonance.
Steven
Galloway has taken an extraordinary imaginative leap to create an
unforgettable
story that speaks powerfully to the dignity and generosity of the human
spirit
under duress.
*
Đọc những dòng trên, Gấu nhớ lại cảm giác những ngày ở Sài Gòn, sau khi
thằng em trai mất, Gấu sợ quá, đến nỗi ngày nào cũng chui vô rạp ciné,
và tự nhủ, khi hết phim, ra về, thì chiến tranh cũng đã xong xuôi!
Chính cũng là cái cảm giác đó, mỗi lần ghé nhà em, ra về...
Một lần trên
đường về, khi chạy xe đến gần khu chợ Bến Thành, từ xa đã nhìn thấy một
gói đồ nằm giữa mặt lộ, đường Trần Hưng Đạo, dưới ánh đèn chói lòa. Có
tiếng súng nhỏ rồi tiếng còi xe Quân Cảnh thổi dạt xe cộ, người đi
đường qua hai bên. Khi cơn báo động hoảng đã qua đi, trong một thoáng
bỗng nhận ra vẻ tiều tụy của thành phố. Của mối tình. Ngay cả những
giây phút êm đềm ngồi quây quần bên mấy đứa em, mấy cô bạn, vẫn cảm
thấy cực kỳ cô đơn, có cảm giác như không còn thương yêu nổi ai, đã tự
lừa dối khi nghĩ rằng đã yêu thương cô bạn. Đã lấy mức độ pháo kích làm
thước đo tình yêu, đã lầm tiếng hỏa tiễn là tiếng reo hò đắc thắng của
mối tình: Nhiều khi quẩn trí còn mong mỏi thành phố bị pháo kích hoài
hoài để được sống mãi mãi những giờ phút thê thảm nhất của mối tình.
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi
nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết
theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang
đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với
những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn
sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình
thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như
vậy...
*
Với những sử gia, cuộc vây
hãm Sarajevo có vẻ như là một tận điểm của thế kỷ, một thế kỷ phát minh
ra
những cuộc thế chiến, vũ khí hạt nhân, và
huỷ diệt hành tinh, ở đây, là trái đất.
Lịch sử không quan tâm tới
những chi tiết, nó chỉ ghi nhận, con số người
chết, và độ dài của biến cố, sự kiện. Chính vì
lý do đó mà cuộc
chiến Sarajevo
thuộc về nghệ sĩ, chứ không phải chuyên gia. Trong cuốn tiểu thuyết
sống động,
cảm động, và rộng lượng, Galloway đưa
chúng ta tới đó, tới hang cùng ngõ hẻm, phố rất phố, của một thành phố
bị vây
hãm. Những tên bắn sẻ ở trên đầu chúng ta, những chiếc máy camera ở
giữa chúng
ta, những mảnh vụn của những giấc mơ ở bên dưới chúng ta, mỗi bước chân
có thể
dẫn chúng ta tới cái chết, và tệ hại hơn, tới mất nhân phẩm.
Sarajevo ở đây, là hố thẳm của những cuộc đời của
chúng ta.
Dragan Todorovic [lời giới
thiệu bìa sau]
Đúng là cảnh tượng những ngày
Mậu Thân của Gấu, khi "tử thủ" tại Đài vô tuyến điện thoại quốc tế,
số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Đài Phát Thanh, số 3, bị VC chiếm đoạt,
và cuộc
chiến đang diễn ra ở đó, ở Tòa Đại sứ Mỹ, cũng gần đó.
Trân trọng trình diện bạn đọc Tin Văn: Đứa
con thất lạc tìm lại được.
Cám ơn talawas. NQT
Nguyễn
Quốc Trụ
Nguyễn
Du giữa chúng ta
Bây giờ đọc Truyện Kiều,
chúng ta hy vọng sẽ khám phá thêm được những gì ở trong hơn ba ngàn câu
thơ đó?
Liệu những độc giả bây giờ và sau này sẽ hài lòng với những giải thích
đã có về
Kiều? Tại sao cái cửa sổ mở sang khu vườn tình ái thơ mộng (mở sang khu
vườn
Thuý), lại bị đóng chặt mãi mãi chỉ vì “một tên xưng xuất, tại thằng
bán tơ”.
Liệu chúng ta, ngoài mớ giải thích về nguyên nhân nhân quả lấy từ Phật,
có thể
chấp nhận có một thảm kịch ở trong Truyện Kiều, một thứ thảm kịch kiểu
Hy Lạp,
theo đó, thảm kịch là cái không thể giải thích được, là con mắt của
Định mệnh
mở trừng trừng, là gã Oedipe tuy biết nhưng không thể tránh khỏi phải
giết cha,
lấy mẹ, theo đó, thảm kịch là cái không chấp nhận bất cứ một giải thích
nào.
Và có thật một tâm sự hoài Lê
của một cựu thần, và có thật người cựu thần đó đã cặm cụi thức thâu đêm
suốt
sáng, cố gắng moi óc, vắt tim sáng tạo nên 3.254 câu thơ, chỉ để bày tỏ
một
thái độ Khổng học, thứ triết lý giáo dục đẳng cấp mà chúng ta không thể
nào tìm
thấy, dù một mảy may, trong suốt cuốn truyện, trong suốt cuộc đời
“thanh y hai
lượt thanh lâu hai lần” của nàng Kiều?
Và tại sao cùng một tâm sự
hoài Lê, hoài quân vương đó cho những tác phẩm khác nữa như Mai Đình
mộng ký,
Cung oán ngâm khúc?
Chúng ta sẽ phải hiểu chữ
“nghiệp” như thế nào? Theo ý nghĩa Phật học hay theo một ý hướng văn
chương,
theo tinh thần của sự sáng tạo?
Chúng ta có thể vay mượn lý
thuyết phân tâm học để coi Đạm Tiên như là tiềm thức của Kiều, coi Kiều
như một
nhân vật bị bệnh mộng tưởng (một visionnaire giống như những nhân vật
của
Julien Green chẳng hạn). Chúng ta có thể vay mượn triết lý hiện sinh,
triết lý
Mác-xít, và tất cả những triết lý hiện chúng ta đang có để chú giải
Kiều? Chúng
ta có thể quả quyết tất cả những chú giải trước đây về Kiểu đều sai,
cho nên
chúng ta phải bắt đầu lại từ đầu?
Và tại sao chúng ta vẫn còn
tiếp tục đọc Kiều, tiếp tục tìm cách chú giải Kiều?
*
Trước hết, mọi chú giải trước
đây, bây giờ, và sau này về một tác phẩm lớn cỡ Đoạn trường tân thanh,
Cung oán
ngâm khúc… đều là những khiếm khuyết, những défauts bên cạnh tác phẩm.
Chú giải
bao giờ cũng chỉ là cái thiếu bên cạnh cái đủ là tác phẩm. Heidegger
cũng đã phải tự
biện minh khi làm công việc chú giải thơ Holderlin, đại khái
ông nói:
“Kẻ chú giải phải xử sự như một thừa thãi, vô ích trước tác phẩm. Và
bước chân
cuối cùng của kẻ chú giải (phát giác quan trọng nhất của gã về tác
phẩm) đẩy gã
vào bóng tối, làm gã biến mất trước sự khẳng định đơn thuần của chính
tác phẩm.
Thơ, theo Heidegger, là một cái chuông treo lơ lửng giữa trời, và một
chút
tuyết nhỏ nào đó rơi trên nó, làm nó kêu rộn ràng, từ một hoà điệu cho
đến khi
trở thành hỗn độn. Một chút xíu tuyết, đó là hình ảnh của một lời chú
giải vậy.
Một lời chú giải (một tiếng nói phê bình) mang trong nó một chút kỳ dị
là càng
tự bày tỏ, khẳng định, nó càng dễ tự xoá, tự biến mất. Tiếng nói phê
bình biến
mất trong khi tự bày tỏ. Nó là sự có mặt luôn luôn sẵn sàng vắng mặt.
Phê bình,
chú giải chỉ là lùi bước trước tác phẩm, tạo một khoảng cách càng rộng
càng tốt
giữa tiếng nói phê bình và tiếng nói sáng tạo. Phê bình gia là một độc
giả
trong những độc giả nhưng hắn hiểu rõ hơn những độc giả khác tại sao
hắn để mất
cái mà hắn khám phá ra được về tác phẩm. Hắn phá hoại nhiều hơn là xây
dựng.
Tiếng nói phê bình do đó là
tiếng nói của sự im lặng. Nó từ chối tham dự vào lịch sử con người cũng
như
lịch sử văn chương. Nó không lý luận, không là trùng phúc và cũng không
là biện
chứng. Tại sao thế? Trước hết nó tự hiểu nó không là gì trước lịch sử
loài
người, nó không nói được một điều gì quan trọng, trường cửu… trước cái
vô cùng
quan trọng là lịch sử, lịch sử với những định luật tàn khốc, vững chắc
nhất của
nó (những định luật về chiến tranh, về đấu tranh giai cấp, về vong
thân… chẳng
hạn). Đối với lịch sử văn chương nói riêng, tiếng nói phê bình từ chối
những
tiếng nói phê bình cất lên trước nó. Nó không có anh em họ hàng. Nó
không liên
hệ gì với triết học, với những khoa học nhân văn (xã hội học, nhân
chủng học…).
Tiếng nói phê bình là cô đơn, là nói lảm nhảm một mình. Nhưng chính vì
cô đơn,
vì là cái có mặt nhưng luôn luôn sửa soạn biến mất, cho nên tiếng nói
phê bình
đã tham dự vào chính thực-tại-tác-phẩm, là tác phẩm. Tiếng nói phê bình
là tác
phẩm đi từ ngoài vào, là ánh sáng của bóng tối, là tiếng nói của im
lặng. Phê
bình tức là mở tác phẩm ra phần ánh sáng không phải của trí tuệ, trí
thông
minh, hoặc học vấn.
Nguyễn Du, tác giả Truyện
Kiều, là độc giả đầu tiên và cũng là người chú giải thứ nhất về chính
tác phẩm
của mình. Bởi vì hai câu: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà
nhân khấp
Tố Như” là một chú giải thứ nhất Truyện Kiều. Bởi vì một tác giả bao
giờ cũng
là một chú giải, một phê bình gia “en puissance”, khi người đó đọc lại
tác phẩm
của mình. Đó là câu nói cuối cùng của tác giả (của tác phẩm) và cũng là
câu nói
đầu tiên của tác giả (người chú giải) về tác phẩm.
Trong câu nói đầy giọng cảm
khái đó của Nguyễn Du, có cái đam mê của sự đọc, có cái sáng suốt của
sự viết,
có cái vẻ bất động tiêu cực của chiếm hữu sáng tạo và có cái tự do vô
cùng của
sáng tạo.
Một nhà văn xuất hiện và mở
ra ngay trong gã cái được gọi là vụ án văn chương (Chaque écrivain qui
nait
ouvre en lui le procès de la littérature. - R. Barthes. Le degré zéro
de
l’écriture). Nguyễn Du, cùng với tác phẩm Kiều và hai câu khẩm chiếm [?]
khi sắp
chết, đã mở ra tất cả những tại sao của văn chương và của phê bình văn
chương
vậy.
Và nếu có thể có một tâm sự
Nguyễn Du thì đó là một tâm sự “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Đó
là tâm
sự của một tác giả đi tìm độc giả. Đó là tâm sự của Orphée khi đi tìm
Eurydice.
Là một lời viết kêu gọi một
lời đọc.
Đi tìm tâm sự Nguyễn Du cũng
chính là đi tìm ý nghĩa đầu tiên (sau cùng) của sáng tạo. Đó cũng là
một công
cuộc tìm kiếm cái hữu (l’être) của thơ, của Đoạn trường tân thanh vậy.
Đi tìm tâm sự Nguyễn Du tức
là tìm cách trả lời câu hỏi của tác giả Truyện Kiều gửi lại hậu thế,
tìm cách
trả lời những câu hỏi đến từ một câu hỏi:
Một câu hỏi, đó là: “Bất tri
tam bách…”.
Những câu hỏi, đó là: Thơ là
gì? Văn chương là gì? Viết là gì? Tại sao viết? Viết cho ai? Đọc là gì?
Tại sao
đọc?
Những câu hỏi đưa đến một bản
thể học của văn chương vậy.
*
Bởi vì, gạt bỏ những chú giải
xã hội, chính trị, “có một tâm sự hoài Lê” ở trong Kiều, gạt bỏ những ý
hướng
phê bình nhằm đưa Nguyễn Du đến giường bệnh, những ý hướng, toan tính
phê bình
mà chắc chắn chúng ta không thể chấp nhận được, hoặc chỉ chấp nhận tới
một giới
hạn nào đó, chúng ta chỉ có thể tiếp tục đọc Kiều và chú giải Kiều bằng
chính
tác phẩm Kiều và bằng lời chú giải thứ nhất của chính tác giả, trên
đường đi
tìm kiếm cái nghiệp của sự viết, cái tâm sự của tác giả muốn gửi gấm
lại người
đọc. Một công cuộc tìm kiếm cái nghiệp của sự viết (cái hữu của sự sáng
tạo)
như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu được những “khéo dư nước mắt khóc người
đời xưa”,
những “Rằng hay thì thực là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”,
những
“Đã mang lấy nghiệp vào thân”, những “Xưa nay sầu thảm, nay sao vui
vầy?”…
Kafka, trong một bức thư gửi
cho bạn, viết: “Nhà văn là một bouc-émissaire (1) của nhân loại. Nhờ
hắn mà
nhân
loại có thể vui hưởng tội lỗi một cách ngây thơ vô tội”. Chính niềm
hoan lạc
ngây thơ vô tội này là sự đọc. Sự viết mang trong nó mầm bất hạnh,
nhưng sự đọc
lại là hân hoan, lại là ân sủng. Một nhân xấu cho một quả tốt. Viết là
một sự
vật ai oán (chose nocturne), là cái ngậm đắng, nuốt cay, là cái nghiệp,
là cái
sầu thảm. Nhưng đọc lại là ân huệ, là an hưởng tội lỗi một cách không
tội lỗi,
(một cách thơ ngây vô tội). Viết là một tác động xấu (activité
mauvaise) nhưng
đọc lại là cái bất động, cái tiêu cực sung sướng. Cái hữu của sự viết
là bất
hạnh trong khi bản tính của sự đọc lại là hạnh phúc, mặc khải…
Chúng ta phải hiểu cái tâm sự
của Nguyễn Du (nếu có thể gọi đó là một tâm sự) như một niềm ao ước,
một hy
vọng cảm thông ở nơi người đọc. Bởi vì viết là chỉ mong được đọc, như
Sartre
nói, viết mà không mong được đọc, được biết tới chỉ là một thất bại.
Được đọc,
được thông cảm và được tha thứ. Bởi vì nhà văn là một kẻ phạm tội; một
kẻ bị
kết án phải viết. Nhà văn là gã Oedipe bị lời nguyền rủa độc ác phải
lấy mẹ
giết cha. Nhà văn là gã Sisyphe bị kết án suốt đời vác đá. (Chúng ta
không có ý
định, ở đây, nhằm đưa tới kết luận nhà văn phải có một đời sống vật
chất hoặc
tinh thần khốn nạn, khổ sở, để nhờ đó mà văn chương trở nên vinh quang,
người
đọc trở thành sung sướng). Hắn là một kẻ trầm luân, hắn là sự khổ, là
bất hạnh.
Hắn mang cái nghiệp viết bất hạnh đó vào thân. Hắn là một thứ
bouc-émissaire.
Một gã tội phạm.
Và kẻ tội phạm đó mong được
đọc, được hiểu, được thông cảm, tha thứ, mong được hưởng những giọt
nước mắt
khóc thương. Tâm sự của Nguyễn Du mong gửi gấm nơi người đọc cũng chính
là tâm
sự, là nỗi lòng của chàng nhạc sĩ Orphée lặn lội nơi địa ngục để tìm
kiếm nàng
Eurydice thân yêu vậy.
*
Tôi đã định theo gót Tiên
phong Mộng liên đường chủ nhân, trong khi đề tựa Kiều, đi tìm một cuộc
biến
chuyển ngôn ngữ, từ lục Phong tình sang Đoạn trường tân thanh (thành ra
cái lục
Phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng đoạn trường thì lại là
cái tiếng
mới vậy) rồi từ Đoạn trường tân thanh sang Truyện Thuý Kiều. Bằng hai
tiếng
“tân thanh”, chúng ta có thể đi đến những định nghĩa về thơ: Thơ là lời
nói,
thơ là biến động, thơ là cái ngôn ngữ trẻ nhất, mới nhất. Bằng chữ
truyện chúng
ta có thể coi Kiều như một cuốn tiểu thuyết và nếu đã coi đó là một
cuốn tiểu
thuyết, chúng ta sẽ phải tìm kiếm một nội dung và một hình thức của nó.
Chúng
ta sẽ giải thích cái hậu của Truyện Kiều như của bất cứ một cuốn tiểu
thuyết
nào (như thế chúng ta có thể tránh được những giải thích vay mượn từ
Phật học,
như trường hợp Trần Trọng Kim chú giải Kiều).
Nhưng công việc đó đòi hỏi
một thời gian nghiên cứu quá dài.
Nguồn
*
(1) bouc-émissaire: Dê tế thần
mới đúng. Không phải 'trong một bức thư gửi bạn', mà là một 'ngụ ngôn',
truyện cực ngắn của Kafka.
Bản trên talawas, có mấy lỗi, défauts [talawas 'type' trật là
defauits], phải [phát]. Khẩm
chiếm [khẩu chiếm?], không biết là chữ gì trong nguyên bản!
Ui chao, đọc lại mà
ngỡ ngàng. Gấu ngày nào bảnh [trai] hơn ngày này
nhiều!
Gấu sẽ đi một đường hồi tưởng, về bài viết này, sau.
How
did you discover your
passion for writing?
Roderick Yang, SEATTLE
My deepest passion was reading. At some
point - not early, I was 35
or 36 - I realized there was a book that I wanted very much to read
that really
hadn't been written, and so I sort of played around with it in trying
to
construct the kind of book I wanted to read.
- Bà phát hiện ra niềm đam mê
văn chương của mình như thế nào?
Niềm đam mê lớn nhất của tôi
là đọc sách. Một ngày, không sớm lắm, khi đã ở vào tuổi 35-36, tôi bỗng
phát
hiện ra rằng, cuốn sách mà tôi thực sự muốn đọc nhất lại chưa được ai
viết ra
cả. Vậy là tôi cứ loanh quanh tìm cách viết ra cuốn sách đúng như ý
mình muốn.
Thanh Huyền
eVăn
Người dịch văn học, không chỉ
rành tiếng, và còn phải rành văn.
Câu hỏi của độc giả Time, đúng ra là như vầy:
Làm thế nào, như thế nào
bà khám phá ra đam mê viết của mình.
Bà
Morrison bèn ra đòn đầu tiên, búa đầu tiên, dành cho những ai cũng
mê viết.
Đam mê sâu thẳm nhất của
tôi là đọc, chứ không phải mê viết.
Từ câu
này, mới ra câu sau.
Chính vì mê đọc, đọc ghê quá, đọc nhiều quá, tới một tuổi nào đó, không
sớm lắm, sớm làm sao được, còn mê đọc mà, lúc đó tôi 35 hay 36 tuổi,
tôi
nhận ra là, đọc khủng khiếp như thế mà vẫn thiếu một cuốn, hình như
vậy, cái cuốn mà chưa có ai viết ra!
Thiếu một cuốn. Chưa có ai viết ra. Làm sao đọc. Thế là đam mê viết nẩy
ra!
Ý trên, có một tay nói, "thơ" hơn nhiều:
Tớ là một thằng cha, đi tìm một cuốn sách để đọc, tớ vô thư viện, kiếm
hoài không ra. Thôi, thế thì mình đành viết nó vậy. Thay vì tìm, chắc
cũng trong đống sách đang nằm ngủ đó.
*
Gấu đã từng chôm ý trên, để viết về cuốn Sinh Nhạt của một ông bạn quí.
Ông bạn quí có người yêu, nàng có cuốn nhật ký, bỏ quên trên tắc xi,
ông bạn quí bèn viết cuốn khác thay thế, để tặng nàng.
Lâu quá, không nhớ, có đúng như vậy không, Nhưng cần gì!
Tuy nhiên, vưỡn chưa hách bằng Christian Bobin. Tay này, Gấu cũng tình
cờ nhặt lên, từ đống sách đang ngủ, trong thư viện. Bèn "ơ ra kìa" một
tiếng, chôm liền, vì đúng tình trạng Gấu, khi viết lại ở hải
ngoại.
Gấu viết kể từ khi cô bạn đọc.
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta.
Tuyệt
nữa, là, một độc giả Tin Văn tò mò hỏi, Gấu mà cũng bầy đặt đọc Bobin
hả?
Sách của ông này, tôi có đủ, không thiếu một cuốn.
Cần, tôi gửi cho, khỏi mua!
Tks. NQT
Anh
viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của
chúng ta.
J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies. *
Không phải người ta
viết để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu
vắng của tất cả tình yêu.**
Cầm
Dương Xanh
Kinh nghiệm Tam Ích
The Economist May 10, 2008
Tam Ích có nhiều kinh
nghiệm, Đệ Tam, Đệ Tứ.... cộng kinh nghiệm Cô Ba, về một thiên đàng hạ
giới.
Hofmann là tổ sư của món LSD. Bài tưởng niệm ông, trên Người Kinh Tế,
làm Gấu nhớ tới những bạn bè của Gấu, trong có Kiêm Thêm.
KT có lần kể cho Gấu nghe, một lần anh từ giã Quán Đen, trên đường về,
anh cứ nghĩ là đang lên Cung Trăng. Thế rồi đến Cung Trăng thật. Sáng
hôm sau, khi tỉnh dậy, anh mới nhận ra Cung Trăng là nhà!
Y hệt kinh nghiệm của Hofmann, khi phê LSD lần đầu, và trở về
nhà: As he cycled home... perhaps the most famous bike ride in history
2. Gấu vs
Hồ Nam
Cái yếu của NQT là lấy
sở
đoản làm sở trường, tài của NQT là sáng tác lại không chịu khai thác,
đi viết lăng nhăng những bài điểm sách khoe chữ nghĩa, một kiểu "làm
dáng trí thức".
Chẳng gì NQT cũng cầm bút ngót nửa thế kỷ mà sự nghiệp văn chương lại
chỉ có mấy truyện ngắn thôi sao?
NQT đã sống, đã viết, đã tha phương cầu thực....
Hồ Nam
Tài của NQT là sáng tác!
Khen như thế, chỉ làm cho đám bạn quí của Gấu càng thêm phát điên lên!
Rasim, nhà văn
Mùa Xuân trên thành phố HCM quang
vinh
[Will spring never come, will
spring never come?]
[Note:
Gấu, nhà văn, bận quá,
nhờ Pamuk viết giùm một kỳ Sổ Tay!]
Vào một
buổi sáng sớm, vào
cuối thập niên 1880 – cũng không lâu sau khi nhà vua Abdulhamit II bắt
đầu Luật
Tuyệt Đối của ông, kéo dài 30 năm – có một ký giả, 30 tuổi, ngồi tại
bàn giấy
tại tờ Hạnh phúc, một nhật báo nhỏ ở
Babtali, và, “bất thình lình” cửa mở toang, và một người đàn ông dáng
người cao
lớn, đội mũ đỏ, mặc một cái “áo khoác kiểu nhà binh”, tay áo làm bằng
một thứ
vải đỏ, bước vô phòng. Nhận thấy anh ký giả trẻ, ông ta la lớn: “Lại
đây”. Anh
ký giả trẻ sợ sệt, đứng dậy, “Đội mũ vô. Đi”.
Người
đàn ông trong cái áo
vét nhà binh và anh ký giả trẻ leo lên một xe ngựa, đậu trước cửa, và
xe chạy.
Xe vượt cầu Galata
Bridge,
cả hai đều im
lặng. Khi đi được chừng nửa đường thì anh chàng ký giả trẻ có bộ mặt dễ
thương
mới thu được tí can đảm, để hỏi, ông mang tôi đi đâu.
“Đến
gặp Ngài bí thư của Đức
Vua. Ngài ra lệnh phải tóm liền mi, mang đến cho Ngài ngay tức khắc.”
Sau khi
đến Hoàng cung, đợi
chừng ít phút, một người đàn ông khó chịu, có bộ râu bạc xám, kêu anh
chàng ký
giả lại bàn ông ta:
“Đến
đây”.
Một tờ Hạnh phúc mở ra, trên bàn. Giơ tay chỉ, ông ta
giận dữ
nói:
-Cái
này nghĩa là gì?”
Anh
chàng ký giả vẫn chưa
hiểu cái này là cái gì, ông ta la lên:
“Thằng
phản bội! Đồ vô ơn!
Phải thẩy một trái đại bác vô đầu mi cho nó nổ banh ra”.
Anh
chàng ký giả, tuy vẫn còn
sợ đái ra quần, nhưng nhận ra, bài báo gây nên trận giận dữ đó chỉ là
một bài
thơ của một thi sĩ đã chết, đúng ra, một điệp khúc, như vầy, “Liệu
mùa xuân
sẽ chẳng bao giờ tới nữa/Liệu mùa xuân sẽ chẳng bao giờ tới nữa?”
Hy
vọng giải
thích, anh chàng ký giả rụt rè lên tiếng “Thưa Ngài…”
“Mày
còn chưa câm miệng ư?
Muốn thêm bớt nữa hả? Bước ra chỗ khác”. Viên bí thư của nhà vua ra
lệnh.
Sau khi
đứng run rẩy ở chỗ
khác chừng 15 phút, anh ta lại bị lôi cổ vô. Nhưng cứ mỗi lần anh mở
miệng tính
giải thích anh không phải là tác giả của bài thơ, là anh lại được xơi
một cơn
giận dữ.
“Đồ
khốn kiếp. Đồ chó má. Đồ
con hoang. Đồ chết tiệt. Phải treo cổ hết tụi chúng mày lên”.
Khi
hiểu ra rằng, sẽ chẳng có
cơ hội để giải thích, anh chàng ký giả bèn thu hết can đảm, thò tay vô
túi móc
ra cái thẻ Hội Nhà Báo, và đặt nó lên bàn. Viên bí thư đọc cái tên trên
thẻ nhà
báo, và hiểu ra rằng, có một sự lầm lẫn. Ông ta hỏi:
“Tên
anh là gì?"
“Ahmet
Rasim”
Kể lại
giai thoại trên, bốn
mươi năm sau, trong cuốn hồi ký, “Tác giả, Thi sĩ, Nhà văn”, Rasim nhớ
lại, khi
viên bí thư hiểu ra rằng, người ta đã bắt lầm, và đem đến cho ông ta
không đúng
cái người mà ông ta cần bắt, thì ông ta bèn thay đổi giọng điệu.
“Sao
con không ngồi xuống,
con của ta.”
“Con
không phiền khi ta gọi
con là con của ta chứ?”
Mở ra
một ngăn kéo, viên bí
thư kêu Rasim lại gần, và giúi cho 5 liras, ông nói, “Thế này là chu
nhé. Đừng
có nói cho ai hay chuyện này, thôi xéo!”
Rasim
kể câu chuyện gặp gỡ
trên, với cái vẻ hớn hở, và bằng cái giọng hóm hỉnh thường lệ, pha trộn
thêm tí
mắm muối, là những chi tiết của cuộc sống thường nhật, chúng, những câu
chuyện
như thế, làm nên “hallmark” [dấu ấn, thương hiệu, văn phong…] của ông.
Lòng
yêu đời, sự hóm hỉnh, và
thú viết, niềm vui mày mò cùng mớ chữ, thủ công viết, khiến Rasim trở
thành một
trong những nhà văn lớn của thành phố Istanbul.
Cái yêu cái vui cái tếu, cùng với nguồn nghị lực chẳng hề
thiếu, sự
lạc quan, và tinh thần cứng cỏi, luôn ở đỉnh cao của ông, dư sức để cân
bằng
với nỗi buồn hậu đế chế mà Tanpinar, nhà tiểu thuyết, Yahya Kemal, nhà
thơ, và
Abdulhak Sinasi Hisar, hồi ký gia, cả một đám cùng rủ nhau nhận chìm.
Như tất
cả những nhà văn yêu thương Istanbul, ông quan tâm tới lịch sử của nó,
và cũng
có viết những cuốn sách về nó nữa, nhưng bởi vì rất cẩn trọng trong
việc kiểm
tra nỗi buồn của mình, coi nó từ đâu mà ra, ông không bao giờ than van
về một
“thời đại hoàng kim đã mất”. Thay vì nhìn quá khứ thành phố như là một
kho tàng
thiêng liêng, và cứ lặn sâu vào trong đó, rồi ngoi lên, là tha hồ mà
viết, là
tìm ra giọng nói đích thực, nhờ đó có thể sản xuất những tuyệt tác theo
kiểu
Tây phương, ông chủ trương, như hầu hết những nhà văn trong thành phố,
tự kiềm
chế mình ở trong hiện tại: Istanbul là một thành phố dễ chịu, thích
thú, để sống
ở trong nó, và chia sẻ tứ khoái, theo nghĩa, chia sẻ mọi
chuyển
biến, dù nhỏ nhoi cỡ nào, cùng với thành phố.
Trên tờ Granta,
số Mùa Xuân 2006, có bài phỏng vấn Pamuk, ông cho biết, một trong những
nhà văn ảnh hưởng tới ông là Borges:
Borges,
tình cờ làm sao, có để ý đến Hội
nghị của những con chim... Đây là câu chuyện rất đơn giản, một
nhóm chim đi tìm vua của chúng, đã bị mất tích, lost. Mỗi con chim đi,
là mỗi câu chuyện kể, một kinh nghiệm. Sau cùng chúng tới núi Mount
Kaf, một thứ Eastern Mount Olympus, và chúng nhận ra rằng, nhà vua, ông
trời, cái con người mà chúng tìm kiếm đó, ở ngay trong chúng. Chúng
chính là cái người mà chúng tìm: They are the vey person they are
looking for.
30.4.2008:
Người xa vắng biết đâu nấm nhà
buồn?
Nhân
đọc bút ký chính trị của Nguyễn Khải
Dọn
...
Chân giá trị của thơ Trần
Dần, Lê Đạt hay Thanh Tâm Tuyền, hay các nhà thơ bị quyền lực và dư
luận chính
trị hóa…
Nguồn
Auden
đã từng tiên đoán hiện
tượng này.
Ông phán, không một thi sĩ
nào có thể ngăn cấm, thơ của mình bị người đời sử dụng như là một trò
phù thuỷ.
Trần Dần, Lê Đạt, Thanh Tâm
Tuyền, theo Gấu, đều là những nhà thơ thực sự, mỗi người mỗi cách, cố
gắng làm
thơ, làm mới thơ. Tuy nhiên, họ đều bị người đời “sử dụng như là một
trò phù
thuỷ”.
Nói rộng ra, bất cứ một nhà
thơ nhà văn nào, khi xuất hiện, đều bị sử dụng như là trò phù thuỷ, nếu
thực sự
là nhà thơ có tài, muốn làm thơ, làm mới thơ.
Nhưng ở đây, là "phản ứng phụ",
phát sinh từ lời phán của Auden. Những ông nhà văn nhà thơ sửng cồ
trước sự nổi đình nổi đám của họ, cả
trong thơ
và trong chính trị, theo Gấu, là do đố kỵ mà ra, và đều là đồ dởm.
Thực, ai mất công làm ba chuyện
linh tinh như vậy.
*
Note: Cuối tuần, là cố dọn một lần. NQT
*
Câu của Auden, ứng vào trường hợp thơ Celan, mới kinh. Thơ của ông này,
một sống sót Lò Thiêu, vậy mà bị chính những kẻ gây ra Lò Thiêu đem ra
sử dụng để làm trò phù thủy.
... Bài thơ khác thường của Celan không như bất kỳ một "cái gì khác" - một nghệ
phẩm thực sự, nguyên sơ nào cũng bắt buộc phải như vậy - không giống
ngay cả những điều ghê tởm mà nó đã diễn tả, hoặc nó từ đó mà ra. Không
phải bài thơ đã "chuyên chở" những điều ghê tởm "bầy ra đấy", nhưng nó
tạo nên một viễn ảnh tuyệt đối, của riêng nó, về chúng: Bắt buộc phải
như vậy, thi ca vĩ đại "đẻ ra" thế giới của riêng nó.
Chúng ta có quyền nghi ngờ, có một nghịch lý ở đây. Có một điều đáng
nghi ngờ về sự "thành công mang tính đại chúng" của bài thơ "Tẩu Khúc
của Thần Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc biệt trong giới
trẻ, trở thành trò thờ phụng, sùng bái. Auden
đã từng nói: "Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm chuyện thơ của người
đó được sử dụng như là trò phù thuỷ." "Tẩu Khúc của Thần Chết" đã đem
đến cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng
với khôi hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người
Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do thái về Auschwitz." Nhưng bài thơ, chính bài thơ, trong sự
thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn dửng dưng trước tất cả những phản ứng
"ngoắt ngoéo", và luôn cả những đáp ứng của trái tim con người.
Tác giả của nó không được may mắn như vậy.
Trong những lần nói chuyện sau đó ở Đức, về thơ ca của ông, Celan đã kết hợp mọi trò lịch sự, nhũn nhặn qua một
lời nhắc nhở "sắc bén" rằng, tính "hài âm", thuận tai, của thi ca
truyền thống Đức, trong những năm chiến tranh đã có thể, "nhiều hay ít
không bị bực bội, gây rối, để rong ruổi cùng với những điều ghê tởm
nhất." Tính hài âm trong thơ của riêng ông không như vậy. Nó "đã là" sự
bực bội, điều gây rối. Và tuy nhiên, bằng một sự khôi hài khủng khiếp,
cao độ, có cũng có thể để cho sự bực bội nằm an nghỉ ở trong trái tim,
trong tâm hồn người Đức, những người có thể "suy cảm" tội lỗi của họ
một cách tuyệt vời, chẳng đau đớn một chút nào, thông qua môi trường
đại chúng của bài thơ.
Chẳng có gì là ngạc nhiên, nếu sau đó Celan từ
chối, không cho phép sử dụng bài thơ trong những bài đọc, hay được in
lại trong trong tuyển tập thi ca phổ thông. Cũng chẳng có gì là ngạc
nhiên, khi ông cảm thấy khốn khổ khốn nạn, mỗi lần thăm viếng nước Đức,
và được đón rước rộn ràng, được ca tụng và trao bằng khen, giải thưởng.
Ông tự cảm thấy ông là một người Do thái đã được "thuần hóa", một người
mà thơ ca nổi tiếng làm cho người Đức cảm thấy thoải mái hơn: tệ hại
hơn thế nữa, thơ ca của ông đã được "hạ cấp hóa", trở thành một loại
nhạc pop. Thế hệ trẻ có thể nghe, vừa mua vui, vừa chọc quê, vừa dễ
dàng kết án đám đàn anh của họ.
Celan
Nói chuyện quyền lực chính trị hoá với Trần Dần Lê Đạt, thực sự cũng
không đúng. Mấy ông này chỉ xin Đảng cho các ông ấy làm thơ. Xin tách
thơ ra khỏi chính trị. Trường hợp TTT thì dính gì tới quyền lực, chính
trị hoá? Ông đi dậy học, rồi đi lính như tất cả mọi người, đi tù, như
sĩ quan VNCH. Nếu sau này, ông được nhiều người nhắc tới, ở ngoài cõi
thơ, thì là họ do kính trọng ông, giữ được tiết tháo, và không bị cõi
tù làm thay đổi, thí dụ vậy. Đâu có gì mà móc ông với Trần Dần, Lê Đạt?
|